Cổ Phiếu Thường Lợi Nhuận Phi Thường

4. Nên mua gì? (2)



Áp dụng vì nhu cầu của bạn

Nhà đầu tư vừa và nhỏ thường không phải là những chuyên gia trong lĩnh vực đầu tư. Anh ta chỉ bỏ một chút thời gian nghiên cứu các khoản đầu tư của mình giống như khi làm công việc hàng ngày, do đó thường lượm lặt được sự thật nửa vời cùng với những nhận định sai lầm.

Một trong những sai lầm phổ biến nhất và ít chính xác nhất đó là quan điểm về những phẩm chất mà một thiên tài đầu tư cần có. Hình ảnh trong mắt công chúng về kiểu chuyên gia này là những người hướng nội, ham đọc sách, có khả năng tính toán. Họ mang tư chất học giả có thể ngồi cả ngày dài miệt mài nghiên cứu những con số lớn của bản cân đối kế toán, báo cáo doanh thu, và số liệu thống kê các hoạt động thương mại. Từ những số liệu trên, với tài năng và sự am hiểu, anh ta có thể thu nhận được thông tin mà những người N bình thường không thể có. Kiểu nghiên cứu ẩn dật này có thể mang lại những kiến thức vô giá về lĩnh vực đầu tư với lợi nhuận kếch sù.

Tuy nhiên, giống như nhiều quan niệm sai lầm phổ biến khác, hình ảnh sai lệch trên gây nguy hiểm cho bất cứ ai muốn kiếm những khoản lợi nhuận cao nhất trong dài hạn từ những cổ phiếu thường.

Như đã chỉ ra khi thảo luận về 15 tiêu chí chọn cổ phiếu, một nhà đầu tư thành công thường dựa trên nhiều cách chứ không đơn thuần là do may mắn và chỉ một số ít các vấn đề được giải quyết là nhờ vào phương pháp tính toán ẩn dật. Hơn nữa, như đã đề cập ở phần đầu cuốn sách, có nhiều phương pháp đầu tư mà nhà đầu tư, nếu đủ kỹ năng, có thể kiếm tiền trong nhiều năm ‒ đôi lúc anh ta có thể kiếm được những khoản lợi nhuận khổng lồ. Mục đích của cuốn sách này không phải là chỉ ra mọi cách để kiếm tiền. Mà còn hơn thế, nó chỉ ra cách tốt nhất để kiếm tiền. Đó là cách kiếm tiền nhiều nhất với ít rủi ro nhất. Hoạt động thống kê-kế toán vẫn được số đông xem là mấu chốt để đầu tư thành công, nếu nỗ lực và có khả năng phân tích sẽ đem về khoản lợi nhuận đáng kể. Vài khoản trong số đó có thể là những món hời thật sự. Còn trong trường hợp khác có thể xuất hiện những rắc rối kinh doanh mà không thể nhận thấy rõ nếu chỉ dựa vào nghiên cứu thống kê thông thường, thì thay vì trở thành những món hời, cổ phiếu của họ sẽ xuống dốc thảm hại trong những năm sắp tới.

Trong khi đó, với trường hợp của ngay cả một món hời thật sự, mức độ nó bị đánh giá thấp thường có phần được giới hạn. Thời gian để điều chỉnh nó về giá trị thực khá lâu. Theo tôi quan sát, thời gian cần thiết là khá dài, ví dụ năm năm, để những người săn tìm các món hời có khả năng thống kê tốt nhất thu được một khoản lợi nhuận, song chỉ là một phần nhỏ so với món hời của những người sử dụng trí thông minh để đánh giá các đặc trưng kinh doanh của những công ty tăng trưởng được quản lý xuất sắc.

Lý do các cổ phiếu tăng trưởng ngày càng cao đó là vì chúng mang lại những khoản lợi nhuận với giá trị cỡ vài trăm phần trăm sau mỗi thập kỷ. Ngược lại, chúng là khoản đầu tư bất thường nếu chỉ mang lại 50% lợi nhuận. Sự ảnh hưởng lũy kế của những con số đơn giản này thật hiển nhiên.

Nhà đầu tư tiềm năng phải xem xét lại lượng thời gian cần thiết để xác định những khoản đầu tư phù hợp với mục tiêu của mình chứ không phải quan tâm đến những phẩm chất anh ta cần có. Có thể, nhà đầu tư sẽ sung sướng mong đợi sử dụng vài giờ mỗi tuần trong ngôi nhà tiện nghi của mình, nghiên cứu các tài liệu đánh máy mà anh ta cảm thấy có thể mở cánh cửa dẫn đến những khoản lợi nhuận lớn. Có thể chỉ là anh ta không có thời gian để tìm kiếm, trau dồi, và nói chuyện với thật nhiều kiểu người ‒ những việc làm khôn ngoan nếu muốn tối đa hóa lợi nhuận đầu tư. Cũng có thể, anh ta hoàn toàn có thời gian, nhưng lại không có năng khiếu và phẩm chất để tìm ra và trò chuyện với một nhóm những người mà hầu hết trong số họ trước đây anh ta chưa quen biết. Hơn nữa, bàn chuyện không thôi thì chưa đủ; anh ta cần phải làm nảy sinh hứng thú và chiếm được lòng tin tới mức những người này sẽ nói cho anh ta những gì họ hiểu biết. Nhà đầu tư thành công thường là những người đặc biệt quan tâm đến các vấn đề kinh doanh, chính điều này giúp anh ta khơi dậy hứng thú của người khác khi thảo luận về chúng Đương nhiên, anh ta phải có khả năng suy xét tốt nếu không tất cả các thông tin anh ta có sẽ trở nên vô nghĩa.

Một nhà đầu tư có thời gian, luôn mong muốn tìm kiếm thông tin, và có khả năng phán đoán tốt nhưng rút cục vẫn bị không thể thu được kết quả tối đa trong việc nghiên cứu các cổ phiếu thường của mình. Không gian địa lý cũng là một yếu tố quan trọng. Một nhà đầu tư, sống ở trong hay gần khu vực Detroit sẽ có cơ hội hiểu biết về những công ty sản xuất phụ kiện, phụ tùng thay thế của ôtô. Điều này không hề dễ dàng đối với những nhà đầu tư chăm chỉ và có khả năng phán đoán, nhưng sống trong khu vực Oregon. Ngày nay có rất nhiều các công ty và các ngành khác nhau (trừ sản xuất), thường tổ chức hệ thống phân phối hàng hóa rộng rãi trên toàn quốc với hạt nhân là trung tâm một số thành phố chính, theo đó, nhà đầu tư đang sống trong những trung tâm công nghiệp lớn hơn hoặc ở các vùng ngoại ô lân cận thường có nhiều cơ hội tốt để thực hành nghệ thuật tìm kiếm vài khoản đầu tư dài hạn nổi bật. Không may mắn là điều này thiếu công bằng cho những ai sống ở các vùng nông thôn xa cách trung tâm thành phố.

Tuy nhiên, những người ở các vùng hẻo lánh hoặc đa phần các nhà đầu tư khác mặc dù không có đủ thời gian, sự suy xét, hay khả năng để tự khám phá ra những cơ hội đầu tư đáng giá cho chính mình vẫn có cơ hội đầu tư những khoản này. Thực tế, việc đầu tư cần tính chuyên môn và phức tạp đến nỗi mà các nhà đầu tư phải hoàn toàn tập trung thời gian cho nó chứ không thể bị xao nhãng vì cố gắng trở thành chuyên gia trong nhiều lĩnh vực khác nữa.

Quan trọng là nhà đầu tư phải biết những nguyên tắc liên quan đến đầu tư, để có thể tìm kiếm một chuyên gia thật sự chứ không phải là một kẻ lừa đảo. Trong một số trường hợp, không cần có chuyên môn, nhà đầu tư cẩn trọng vẫn có thể tìm thấy nhà tư vấn hàng đầu dễ dàng hơn tìm bác sỹ hay luật sư cao cấp. Những trường hợp khác thì khó khăn hơn bởi vì lĩnh vực đầu tư phát triển mạnh hơn so với các lĩnh vực khác trong khoảng thời gian gần đây. Kết quả là hàng loạt ý kiến không thể nằm trong một tiêu chí thống nhất về ranh giới giữa kiến thức thật và những điều vô nghĩa. Trong lĩnh vực tài chính không có rào cản nào loại bỏ sự ngu dốt và kém cỏi đang tồn tại, như trong lĩnh vực luật và y tế. Thậm chí, các nhà chức trách liên quan đến đầu tư cũng chưa thống nhất với nhau về những nguyên tắc đầu tư bởi vì không có những trường đào tạo các chuyên gia đầu tư thực hành được công nhận về chất lượng như các trường luật và trường y. Do đó, giấy phép tư vấn đầu tư không có uy tín như giấy phép hành nghề luật sư hay bác sĩ. Sự thật là, có nhiều bằng cấp chứng chỉ tư vấn đầu tư. Tuy nhiên, những nhà tư vấn có chứng chỉ này lại thường bị mang tiếng là nợ nần và thiếu trung thực chứ không phải là thiếu đào tạo hay kỹ năng.

Tỷ lệ các nhà tư vấn tài chính trình độ kém có lẽ cao hơn các lĩnh vực như luật và y tế. Tuy nhiên, bù lại, một cá nhân không chuyên về đầu tư lại dễ tìm được một nhà tư vấn tài chính có khả năng hơn là tìm một bác sỹ hay một luật sư nổi tiếng. Một bác sỹ có tỷ lệ phần trăm bệnh nhân chết nhỏ nhất chưa chắc là một bác sỹ xuất sắc. Cũng không phải số lần chiến thắng hay thất bại sẽ cho thấy những kỹ năng cần thiết của một luật sư. May mắn thay, hầu hết các ca điều trị y tế không phải là vấn đề sống hay là chết ngay lập tức, và một luật sư giỏi thường tránh những vụ kiện tụng tranh chấp.

Trường hợp của các nhà tư vấn đầu tư lại hoàn toàn khác. Sau một thời gian nhất định, một bảng ghi thành tích sẽ phản ánh trình độ đầu tư của nhà tư vấn. Đôi khi phải mất năm năm thì khoản đầu tư mới chứng minh khả năng thật sự của họ. Thông thường, sẽ không lâu đến vậy. Thật điên rồ nếu giao tiền tiết kiệm cho một người tự tư vấn cho bản thân hay cho những người khác, có ít hơn năm năm kinh nghiệm hành nghề. Bởi vậy, trong trường hợp đầu tư, cần phải tìm kiếm một nhà tư vấn chuyên nghiệp đã mang lại những kết quả tốt đẹp cho nhiều người khác, sau đó so sánh giá của những cổ phiếu được tư vấn với bảng giá cổ phiếu trong cùng một thời kỳ, nhằm chứng tỏ khả năng thật sự của nhà tư vấn đầu tư.

Ngoài ra, còn hai bước cần thực hiện trước khi nhà đầu tư đưa ra quyết định cuối cùng về cá nhân hay tổ chức mà anh ta sẽ ủy thác trách nhiệm. Bước một, nhà tư vấn phải hoàn toàn trung thực và không bị nghi ngờ. Bước tiếp theo phức tạp hơn, nhà tư vấn tài chính đó phải đạt được kết quả trên mức trung bình trong suốt giai đoạn rớt giá, không nhờ vào kỹ năng mà là do anh ta luôn giữ phần lớn quỹ của mình bằng những trái phiếu hạng cao. Trong giai đoạn khác, sau thời kỳ tăng giá cổ phiếu, một nhà tư vấn khác cũng có thể đạt được kết quả trên mức trung bình nhờ khuynh hướng đầu tư vào những công ty có rủi ro về biên lợi nhuận. Như đã trình bày trong phần biên lợi nhuận, những công ty trên chỉ hoạt động tốt trong một thời kỳ, sau đó sẽ dần bộc lộ sự yếu kém. Nhà tư vấn thứ ba có thể làm tốt trong cả hai giai đoạn trên nhờ cố gắng dự đoán diễn biến tiếp theo của thị trường chứng khoán. Điều này chỉ có thể mang lại những kết quả thật tuyệt vời trong một thời gian ngắn chứ không phải là vô hạn.

Trước khi lựa chọn, nhà đầu tư nên tìm hiểu quan điểm cơ bản của nhà tư vấn về quản lý tài chính. Nhà đầu tư chỉ nên chấp nhận nhà tư vấn có những quan điểm bền vững giống mình. Lẽ dĩ nhiên, tôi tin rằng những quan điểm trong cuốn sách này là đúng đắn. Rất nhiều những quan điểm tài chính cổ điển như “mua khi giá thấp, bán khi giá cao,” sẽ trái ngược hoàn toàn với quan điểm này.

Giả sử rằng, nhà đầu tư thích thú với kiểu đầu tư lâu dài mang lại lợi nhuận lớn, tôi tin rằng đó là mục đích của hầu hết các giao dịch mua cổ phiếu thường, thì vấn đề là ở chỗ anh ta cần phải quyết định có nên sử dụng nhà tư vấn hay nên tự mình đầu tư. Lý do là bởi những cổ phiếu đáp ứng hết các yêu cầu của 15 tiêu chí trên đều có khả năng tự biến đổi các đặc tính đầu tư.

Các công ty với quy mô lớn, có triển vọng tăng trưởng nổi bật sẽ làm khả năng tài chính vững mạnh, cùng thị trường dồi dào, thường được các công ty bảo hiểm, quỹ ủy thác, và nhà đầu tư tổ chức mua. Họ mua chúng bởi cảm thấy nếu chẳng may đánh giá sai về giá thị trường, thì dù buộc phải bán ở mức giá thấp, nhưng dù sao họ cũng tránh được khoản lỗ còn lớn hơn nếu mua cổ phiếu của một công ty mà khả năng cạnh tranh bị giảm trong tương lai.

Những chứng khoán của The Dow Chemical Company, Du Pont, và IBM là loại chứng khoán tăng trưởng điển hình. Trong chương một, tôi đã đề cập đến những trái phiếu hạng cao nhưng lợi nhuận lại thấp trong giai đoạn mười năm kể từ 1946 đến 1956. Vào cuối giai đoạn này, mỗi trái phiếu ‒ Dow, Du Pont, và IBM ‒ có giá trị gấp gần năm lần giá trị ban đầu, và các cổ đông của công ty không phải chịu áp lực về thu nhập hiện tại. Ví dụ, trái phiếu của Dow là một trong những loại có mức lợi nhuận thấp nhất trên thị trường, chỉ mang lại 21/2% lãi suất (đây là một giai đoạn mà lãi suất của tất cả các loại trái phiếu đều cao), nhưng chỉ mười năm sau, nó đã tăng lên gấp nhiều lần, đến mức mà nhà đầu tư đã thu được 8% đến 9% lãi suất. Đặc biệt hơn, trái phiếu của ba người khổng lồ này không chỉ tăng trưởng trong giai đoạn mười năm đó. Thập kỷ này tiếp nối thập kỷ khác, tuy đôi lúc bị gián đoạn bởi ảnh hưởng từ cuộc đại suy thoái trên thị trường chứng khoán 1929-1932, hoặc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhưng các trái phiếu kiểu này luôn tăng trưởng mạnh mẽ.

Ngoài ra, nhà đầu tư có thể thu được lãi suất đáng kinh ngạc từ những khoản đầu tư dài hạn vào các công ty nhỏ và khá mới mẻ, chỉ có tổng doanh thu bán hàng từ 1 đến 6-7 triệu đô-la mỗi năm, với những sản phẩm tuyệt vời hứa hẹn sự đột phá trong tương lai. Để có thể đáp ứng 15 tiêu chí trên, những công ty như vậy thường có bộ máy quản lý kinh doanh xuất sắc kết hợp với đội ngũ những nhà khoa học tài năng cùng đi tiên phong trong lĩnh vực mới, có nhiều triển vọng kinh tế. Hãng The Ampex Corporation phát hành cổ phiếu lần đầu vào năm 1953, là một ví dụ điển hình. Trong bốn năm, giá trị cổ phiếu của công ty này đã tăng hơn bảy lần.

Giữa hai loại hình công ty có tiềm năng tăng trưởng đầy hứa hẹn bao gồm những công ty trẻ với nhiều rủi ro như Ampex và những công ty lớn, được bảo trợ như Dow, Du Pont và IBM, giả sử đó là thời điểm nên mua tất cả (xem chương kế tiếp), nhà đầu tư nên chọn loại cổ phiếu nào?

Cổ phiếu tăng trưởng của các công ty mới có khả năng mang lại khoản lợi nhuận cao nhất, đôi khi là vài nghìn phần trăm sau một thập kỷ. Tuy nhiên, kể cả những nhà đầu tư lão luyện cũng ít nhất một lần tình cờ mắc lỗi đầu tư không thể tránh khỏi. Đừng bao giờ quên rằng, nếu mắc một lỗi trong việc đầu tư vào loại cổ phiếu thường này, thì bạn sẽ mất hết tiền. Ngược lại, nếu bạn mua cổ phiếu theo những quy tắc trong chương kế tiếp, thì bất cứ khoản lỗ nào phát sinh từ cổ phiếu tăng trưởng của các công ty lớn cũng chỉ là tạm thời do sự suy giảm ngoài dự kiến trên thị trường chứng khoán. Qua nhiều năm, lợi nhuận trong dài hạn thu được từ các cổ phiếu của những công ty lớn sẽ ít hơn những doanh nghiệp nhỏ, mới thành lập. Tuy nhiên, tổng giá trị của chúng lại lớn hơn, thậm chí các loại cổ phiếu an toàn có mức tăng trưởng thận trọng nhất thì nó thường sẽ tăng gấp ít nhất vài lần so với khoản đầu tư ban đầu.

Hiển nhiên là bất kỳ ai mạo hiểm đầu tư một khoản lớn đối với chính bản thân và gia đình cũng cần phải tuân theo nguyên tắc đầu tư trên. Nếu bạn đầu tư “phần lớn” khoản tiết kiệm vào những công ty nhỏ hơn Dow, Du Pont hay IBM, thì chí ít cổ phiếu của chúng cũng phải gần giống và tốt hơn cổ phiếu của các công ty mới và nhỏ. Tùy theo nhu cầu và mong muốn của từng cá nhân mà “phần lớn” nằm trong khoảng từ 60% đến 100% tổng số tiền dành cho đầu tư. Một góa phụ không con, được thừa hưởng nửa triệu đô-la tài sản hoàn toàn có thể đầu tư toàn bộ số tiền vào loại cổ phiếu tăng trưởng ít rủi ro của các công ty lớn. Ngược lại, một góa phụ khác được thừa hưởng một triệu đô-la nhưng có ba con, lại muốn tăng tài sản hiện có, sẽ đầu tư ở một mức không làm ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình, tức là chỉ đầu tư tối đa 15% tổng tài sản vào những công ty trẻ, quy mô nhỏ đã được lựa chọn cẩn trọng. Một doanh nhân với một vợ, hai con, có mức đầu tư hiện tại trị giá 400.000 đôla, và khoản tiết kiệm sau thuế hàng năm là 10.000 đô-la, sẽ đầu tư tất cả 400.000 đô-la của mình vào những công ty tăng trưởng ổn định, nhưng đồng thời anh ta cũng mạo hiểm đầu tư khoản tiết kiệm 10.000 đô-la mỗi năm vào những cổ phiếu khác với mức độ rủi ro hơn 50%.

Dù vậy, trong bất cứ trường hợp nào, lợi nhuận trong dài hạn của nhóm cổ phiếu an toàn cũng phải đủ bù lỗ cho các khoản đầu tư vào nhóm cổ phiếu có độ rủi ro cao hơn. Nếu lựa chọn đúng, thì loại cổ phiếu càng rủi ro lợi nhuận càng cao và quan trọng không kém, đến một lúc nào đó những công ty trẻ phát triển tới ngưỡng làm cho các cổ phiếu của chúng không còn rủi ro cao nữa, thậm chí, còn được các tổ chức mua.

Ở một khía cạnh nào đó, nhà đầu tư nhỏ phải đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn hơn. Nhà đầu tư lớn thường không để ý đến lợi nhuận có được từ cổ tức khi tận dụng tất cả các khoản đầu tư nhằm đạt tiềm năng tăng trưởng cao nhất bởi vì sau khi đầu tư toàn bộ tài sản, anh ta vẫn có thể thu được phần cổ tức đủ để đảm bảo mức sống mong muốn, hoặc đạt được mức sống đó bằng cách cộng thu nhập thường xuyên khác và lợi nhuận từ cổ tức. Tuy nhiên, hầu hết các nhà đầu tư nhỏ đều không thể sống chỉ dựa vào thu nhập từ đầu tư bất kể khoản thu nhập có cao đến đâu, bởi lẽ tổng giá trị mà họ đang nắm giữ chưa đủ lớn. Lợi nhuận có được từ cổ tức là lý do buộc các nhà đầu tư nhỏ phải lựa chọn giữa khoản vài trăm đô-la một năm nếu bán ngay bây giờ, hoặc cơ hội kiếm được khoản thu nhập gấp nhiều lần chỉ một ngày sau đó.

Trước khi đưa ra quyết định quan trọng, nhà đầu tư nhỏ nên cân nhắc để khoản đầu tư vào cổ phiếu thường là số tiền dư thừa, không làm ảnh hưởng tới chi phí cuộc sống hàng ngày. Ngoại trừ trong các trường hợp bất thường, anh ta nên giữ lại khoảng vài ngàn đô-la, đủ để chi trả những lúc ốm đau hay rắc rối bất ngờ nảy sinh, trước khi cố gắng mua bất cứ thứ gì chứa nhiều rủi ro như cổ phiếu thường. Tương tự, để riêng khoản tiền dành cho những mục đích cụ thể trong tương lai, như cho con đi học đại học, không nên mạo hiểm đầu tư vào thị trường chứng khoán. Điều đó có nghĩa là sau khi nhà đầu tư đảm bảo có đủ nguồn lực tài chính để giải quyết các vấn đề nêu trên thì hãy nên xem xét việc đầu tư vào cổ phiếu thường.

Mục đích sử dụng những khoản tiết kiệm của các nhà đầu tư nhỏ còn tùy thuộc vào sự lựa chọn của mỗi cá nhân trong từng trường hợp cụ thể, và giá trị của khoản thu nhập khác. Một thanh niên hay một nhà đầu tư lớn tuổi đã có con hoặc người thừa kế, có lẽ sẽ bỏ qua khoản thu nhập 30 hay 40 đô-la một tháng có từ cổ tức vì muốn kiếm được khoản lợi nhuận gấp mười lần sau mười lăm năm. Ngược lại, một người cao tuổi, không còn vướng mắc chuyện con cái thường thích kiếm ngay những khoản lợi nhuận lớn hơn. Tương tự, một người có thu nhập tương đối thấp, phải chịu áp lực tài chính lớn sẽ không được phép lựa chọn do phải đáp ứng nhu cầu tất yếu của cuộc sống.

Dù vậy, đa số nhà đầu tư nhỏ lẻ đưa ra quyết định quan trọng tức thì về thu nhập đều mang tính cá nhân, phần lớn phụ thuộc vào tâm lý của mỗi nhà đầu tư. Theo quan điểm của riêng tôi, một khoản nhỏ thu nhập thêm (sau thuế) không thể sánh bằng khoản đầu tư mà sau vài năm có thể mang lại lợi nhuận đáng kể giúp cho các con tôi có cuộc sống sung túc. Tuy nhiên, một số người khác không có quan điểm như vậy.

Sự thành công của bất kỳ cá nhân nào nhờ sử dụng những tiêu chí trên để đầu tư đều phải dựa trên hai nhân tố. Một là, kỹ năng đầu tư của anh ta. Dĩ nhiên, vận may là nhân tố thứ hai. Trong một giai đoạn nào đó, có thể do tình cờ ngày mai các nhà nghiên cứu khám phá ra một phát minh tuyệt vời trong phòng thí nghiệm hoặc sau năm năm phát triển nghiên cứu nhưng không đem lại kết quả gì liên quan tới lĩnh vực của công ty, tức là lợi nhuận của nhà đầu tư có thể gấp ba hoặc bị mất một nửa; rõ ràng là, vận may đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc đầu tư. Đây là lý do vì sao dù là một nhà đầu tư ở mức trung bình, vẫn có những lợi thế nhất định. Yếu tố may mắn sẽ được san đều nếu bạn có vài khoản đầu tư tốt.

Dù vậy, hãy nhớ vô số công trình nghiên cứu trong suốt ba mươi lăm năm qua của các chuyên gia tài chính đã chỉ ra rằng các nhà đầu tư lớn và nhỏ đều mong muốn nhận được khoản thu nhập lớn hơn sau vài năm vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Họ so sánh những kết quả đạt được từ việc mua cổ phiếu thường với cổ tức cao và việc đầu tư vào cổ phiếu thường với cổ tức thấp của các công ty tăng trưởng nhờ tập trung vào tái đầu tư tài sản. Theo tôi biết, tất cả những người đã tham gia nghiên cứu đều nhất trí rằng cổ phiếu tăng trưởng, qua năm hay mười năm sẽ mang lại giá trị gia tăng đáng kinh ngạc.

Tóm lại, các cổ phiếu tăng trưởng không chỉ có tính ưu việt trong việc định giá các khoản vốn, mà về lâu dài còn làm tăng lợi nhuận có được từ cổ tức.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.