Hoa trên mộ Algernon
Chương 19
30 tháng Sáu – Giờ đây khi có Fay, tôi đã ngừng lang thang trên các con phố. Tôi đưa cô giữ chìa khóa nhà. Cô trêu tôi về việc khóa cửa, còn tôi thì trêu cô về cái mớ hổ lốn ở nhà cô. Cô đe tôi đừng có mà nuôi ý định thay đổi cô. Năm năm trước, chồng cô đã phải ly dị vì cô chẳng quan tâm đến việc dọn dẹp và chăm sóc nhà cửa.
Đấy là cách cô xử sự với hầu hết những thứ không quan trọng đối với cô. Cô không thể hoặc không hề bận tâm. Hôm trước, tôi vừa phát hiện ra một nắm phiếu phạt đỗ xe sai quy định trong một góc sau lưng ghế: dễ phải đến 40-50 tờ. Khi cô bước vào với chai bia trên tay, tôi hỏi cô tại sao lại sưu tập chúng làm gì.
Cô bật cười: “Thế đấy! Khi chồng cũ của em gửi đám hóa đơn khỉ gió ấy về, em cũng phải thanh toán một ít. Anh không biết là em cảm thấy khó chịu thế nào với số phiếu ấy đâu. Em giấu ra sau lưng ghế để khỏi có cảm giác tội lỗi mỗi khi nhìn thấy chúng. Nhưng phụ nữ thì biết làm gì bây giờ? Đi đâu cũng thấy biển cấm: Cấm đỗ ở đây! Cấm đỗ ở đây! Em còn chẳng buồn dừng lại đọc biển cấm mỗi khi bước ra khỏi xe nữa.” Vì thế nên tôi hứa sẽ không cố gắng thay đổi cô chút nào hết. Ở cùng cô là điều hết sức lý thú. Cô rất hài hước. Nhưng điều quan trọng hơn cả là tinh thần tự do và độc lập. Điều duy nhất khiến tôi có lúc cảm thấy mệt mỏi là cô chết mê chết mệt với món khiêu vũ. Tuần này, đêm nào chúng tôi cũng đi khiêu vũ đến 2-3 giờ sáng. Tôi chẳng còn tí hơi sức nào nữa cả.
Không phải là tình yêu – nhưng cô thực sự quan trọng với tôi. Tôi chợt nhận thấy mình hay lắng nghe tiếng bước chân cô dọc hành lang mỗi khi cô có việc đi ra ngoài.
Charlie đã ngừng theo dõi chúng tôi.
Điều quan trọng là Fay rất thông minh và nhân hậu. Hôm nay, tôi biết được lí do tại sao tháng này cô lại nhanh hết tiền đến thế. Một tuần trước khi gặp tôi, cô đã kết bạn với một cô gái mới gặp ở sàn nhảy Stardust. Nghe cô ta bảo không có ai thân thuộc ở thành phố, đang lâm vào cảnh túng bần, và không có chỗ ngủ, Fay đã mời cô ta về ở cùng. Hai ngày sau, cô ta tìm thấy 232 đô la mà Fay cất trong ngăn kéo bàn trang điểm và cuỗm đi mất. Fay không báo cảnh sát, vì thậm chí họ của cô bạn mới là gì cô cũng chẳng biết.
Cô nói: báo cảnh sát thì có ích lợi gì cơ chứ? Ý em là con khốn đói rách kia chắc là phải cần tiền lắm mới làm thế. Em không muốn phá hủy cuộc đời cô ta chỉ vì vài trăm đô la. Em chẳng phải giàu có gì, nhưng em sẽ không “dí” cô ấy đâu, nếu như anh hiểu ý em.
Tôi hiểu ý cô.
Tôi chưa từng gặp ai cởi mở và tin người như Fay. Cô là người cần tôi nhất vào lúc này. Tôi luôn thèm những giao tiếp đơn giản của con người.
8 Tháng 7 – Không có nhiều thới gian cho công việc – giữa những buổi nhảy nhót thâu đêm ở vũ trường và những cuộc dạo chơi buổi sáng. Nhờ có aspirin và món đồ uống mà Fay pha chế mà tôi mới hoàn tất được bản phân tích ngôn ngữ học về mẫu động từ Urdu và gửi cho Bản tin Ngôn ngữ học Quốc tế.Nó sẽ buộc các chuyên gia ngôn ngữ phải trở lại Ấn Độ và mang theo máy ghi âm, bởi vì nó phá tan siêu cấu trúc then chốt trong phương pháp luận của họ.
Tôi không thể làm được gì khác ngoài việc ngả mũ kính phục đối với các nhà nghiên cứu cấu trúc ngôn ngữ vì họ đã tự xây dựng cho mình một nguyên tắc ngôn ngữ riêng dựa trên sự sa sút của giao tiếp văn bản. Đây là một dạng khác của những người dành cả đời mải mê nghiên cứu những thứ ít giá trị – viết đầy sách và đổ đầy vào thư viện các phân tích tinh tế về tiếng làu bàu. Điều này thực ra không có gì sai, nhưng cũng chẳng nên coi nó là lí do để phá hủy sự ổn định của ngôn ngữ.
Hôm nay Alice gọi điện để hỏi xem bao giờ thì tôi trở lại phòng thí nghiệm làm việc. Tôi bảo rằng tôi muốn hoàn tất các dự án dang dở, và hi vọng tôi sẽ xin được giấy phép của quỹ Welberg để tiến hành nghiên cứu đặc biệt của riêng mình. Dù sao thì cô cũng nói đúng, tôi phải cân nhắc về vấn đề thời gian.
Fay lúc nào cũng muốn đi khiêu vũ. Đêm qua, ban đầu chúng tôi uống rượu và nhảy nhót ở câu lạc bộ White Horse, sau đó sang Benny’s Hideaway, rồi sang tiếp Pink Slipper… và sau đấy thì tôi chẳng còn nhớ là mình đã đi những đâu, nhưng chúng tôi nhảy đến khi tôi không còn nhấc nổi mình lên nữa. Tửu lượng của tôi chắc đã tăng lên bởi vì khi Charlie xuất hiện thì tôi đã say mèm.Tôi chỉ nhớ cậu ta đã nhảy điệu clacket một cách ngớ ngẩn trên sàn câu lạc bộ Allakazam.Cậu ta quậy khá bạo trước khi tay quản lí quẳng chúng tôi ra ngoài và Fay nói, mọi người đều nghĩ rằng tôi là một hoạt náo viên tuyệt vời và rất khoái trò ngố của tôi.
Sau đấy thì cái quái gì xảy ra nữa nhỉ? Tôi cảm thấy đau ở lưng. Tôi nghĩ là do mình nhảy nhót quá nhiều, nhưng Fay cho biết tôi ngã từ trên ghế bành xuống.
Hành vi của Algernon lại trở nên thất thường. Dường như Minnie cảm thấy sợ nó.
9 tháng 7 – Hôm nay xảy ra 1 chuyện kinh khủng. Algernon cắn Fay. Tôi đã bảo cô là đừng chơi với nó nữa, nhưng Fay lúc nào cũng muốn tự tay cho nó ăn. Thông thường khi Fay bước vào phòng nó, Algernon luôn mừng rỡ và chạy đến bên cô. Ngày hôm nay thì khác. Nó nằm ở góc xa, cuộn tròn như một mớ bông trắng. Khi cô thò tay vào qua cửa trập trên nóc, nó rúm mình lại và nép vào sát góc. Cô mở then chuồng và cố gọi nó, và tôi chưa kịp nhắc để yên cho nó nghỉ ngơi thì cô đã phạm sai lầm là tìm cách bế nó lên. Algernon đớp vào ngón tay cô, lấm lét nhìn chúng tôi rồi lại chui tọt vào mê cung.
Chúng tôi tìm thấy Minnie trong chiếc hộp phần thưởng ở một góc khác. Nó bị chảy máu vì một vết thương ở ngực, nhưng vẫn sống. Khi tôi thò tay vào bế nó ra, Algernon chạy vào hộp phần thưởng và đớp tôi. Răng nó cắn chặt vào tay áo tôi và đến khi tôi lắc mạnh nó mới chịu thả ra.
Sau đấy Algernon bắt đầu dịu lại. Tôi quan sát nó hơn 1 tiếng đồng hồ… Trông nó thật bơ phờ và bấn loạn, mặc dù vẫn học được những điều mới mà không cần thưởng thêm nhưng Algernon lại biểu hiện khá lạ. Thay vì di chuyển một cách cẩn thận, dứt khoát dọc theo hành lang, nó lại trở nên hấp tấp và thiếu tự chủ. Không biết bao nhiêu lần nó rẽ quá nhanh ở các góc và va vào rào chắn. Trong hành vi của nó đang có một sự gấp gáp nào đó rất lạ.
Tôi lưỡng lự, không muốn quyết định vội. Có thể có rất nhiều nguyên nhân. Nhưng bây giờ tôi phải đưa ngay Algernon trở lại phòng thí nghiệm đã. Dù cho quỹ có duyệt khoản tài trợ đặc biệt của tôi hay không, sáng mai tôi cũng gọi cho Nemur.
BÁO CÁO TIẾN BỘ 15
12 tháng 7 – Nemur, Stauss, Burt và một vài thành viên khác khác tham gia dự án đang chờ tôi ở phòng tâm lí học. Họ cố gắng để tạo cho tôi cảm giác được hoan nghênh, nhưng tôi có thể nhận thấy Burt đang nôn nóng nhận lại Algernon thế nào, vì tôi biết Nemur sẽ chẳng dễ dàng gì mà bỏ qua cho tôi vụ vượt mặt ông ta để liên hệ với Quỹ. Nhưng điều đó là cần thiết. Trước khi quay trở lại Beekman, tôi phải biết chắc rằng họ sẽ cho phép tôi tiến hành nghiên cứu độc lập về dự án này. Nếu làm gì cũng phải giải thích cho Nemur thì sẽ rất lãng phí thời gian.
Vì đã được thông báo trước về quyết định của Quỹ nên ông ta đón tôi rất lạnh nhạt và cứng nhắc. Ông ta chìa tay ra, nhưng trên khuôn mặt không hề có nụ cười nào.
“Charlie này”, ông ta nói “tất cả chúng tôi đều rất vui khi thấy anh trở lại và sẽ làm việc chung với chúng tôi. Jayson có điện thông báo rằng Quỹ sẽ sắp xếp cho anh làm việc trong dự án. Nhân viên và phòng thí nghiệm anh có thể tùy ý sử dụng. Trung tâm máy tính cũng cam đoan với chúng tôi rằng sẽ ưu tiên cho công việc của anh – và tất nhiên là nếu tôi có thể giúp đỡ chút nào…”
Ông ta đang cố hết sức để tỏ ra thân mật, nhưng nhìn ông ta chỉ thấy hiện lên nỗi hoài nghi. Xét cho cùng thì tôi có kinh nghiệm gì trong lĩnh vực tâm lí học thực nghiệm chứ? Tôi biết gì về những kĩ thuật mà ông ta đã bỏ ra bao nhiêu năm nay để phát triển? Đấy, như tôi nói, ông ta tỏ ra thân mật và sẵn sàng gác việc trừng phạt lại. Bây giờ thì ông ta chẳng làm được gì nhiều. Nếu tôi không đưa ra được lời giải thích về hành vi của Algernon, công trình của ông ta sẽ đổ sông đổ biển hết, nhưng nếu tôi giải quyết được bài toán này thì tôi sẽ chinh phục được toàn bộ thành viên dự án.
Tôi bước vào phòng thí nghiệm thì thấy Burt đang quan sát Algernon trong một chiếc lồng có kèm theo nhiều bài toán. Anh ta thở dài và lắc đầu: “Nó quên quá nhiều. Có vẻ như hầu hết những phản ứng phức tạp của nó đều đã mất sạch. Nó giải quyết bài toán theo mức sơ khai nhất hơn tôi nghĩ.”
Tôi hỏi: “Như thế nào?”
“Đấy, trước đây nó có thể xác định những mô hình đơn giản – trong cái chuỗi cửa cụt kia, chẳng hạn: cách một cửa, cách hai cửa, chỉ có cửa đỏ, hoặc chỉ có cửa xanh – nhưng bây giờ đã làm được 3 vòng rồi mà nó vẫn phải thử và mắc lỗi.”
“Liệu có phải là do nó rời xa phòng thí nghiệm lâu quá không?”
“Cũng có thể. Chúng ta sẽ cho nó làm quen trở lại với hệ thống để xem ngày mai nó xử lí thế nào.”
Trước đây, tôi cũng đã vào phòng thí nghiệm nhiều lần, nhưng bây giờ tôi vẫn thấy phải học lại từng thứ một. Trong vài ngày tới, tôi sẽ phải học thuộc các quy trình mà người khác phải mất hàng năm mới học được. Burt và tôi bỏ ra 4 tiếng đồng hồ để đi thăm từng bộ phận trong phòng thí nghiệm, còn tôi cố gắng tìm hiểu thật nhiều về bức tranh chung ở đây. Khi đã tham quan xong, tôi thấy vẫn còn một cánh cửa mà tôi chưa hề nhìn vào trong.
“Trong này đựng cái gì?”
“Tủ lạnh và lò thiêu”. Anh ta đẩy cánh cửa nặng trịch và bật đèn lên. “Chúng tôi làm lạnh các mẫu đi trước khi cho vào lò thiêu. Làm vậy sẽ khiến cho mùi bớt nặng nếu như chúng tôi kiểm soát quá trình phân hủy.” Anh ta quay người định đi ra, nhưng tôi vẫn đứng lại.
“Algernon thì không” tôi nói. “Nghe này… nếu và… khi tôi định nói là tôi không muốn chôn nó ở đây. Hãy đưa nó cho tôi. Tôi sẽ tự mình chăm sóc nó.” Anh ta không cười. Chỉ gật đầu. Nemur đã bảo với anh ta rằng từ nay về sau tôi muốn gì thì sẽ được như vậy.
Thời gian chính là rào cản lớn nhất. Nếu muốn tự mình tìm ra câu trả lời, tôi phải bắt tay vào làm việc ngay lập tức. Tôi đã có danh mục sách từ Burt, và những lưu ý từ Strauss lẫn Nemur. Và rồi, trên đường đi ra, tôi nảy ra một ý nghĩ lạ lùng.
“Hãy cho tôi biết,” tôi nói với Nemur, “tôi vừa nhìn vào lò thiêu đốt xác động vật thí nghiệm. Kế hoạch dành cho tôi là thế nào?”
Câu hỏi của tôi làm cho ông ta sững người lại. “Anh nói sao?”
“Tôi chắc là ngay từ đầu ông đã lên kế hoạch cho mọi trường hợp khẩn cấp rồi.Vậy thì điều gì sẽ xảy ra với tôi?”
Thấy ông ta im lặng, tôi bồi tiếp: “Tôi có quyền được biết mọi việc có liên quan đến phòng thí nghiệm, trong đó có cả tương lai của tôi.”
“Chẳng có lí do gì mà anh lại không được biết cả.” Ông ta dừng lại và châm lửa đốt điếu thuốc đã được châm trước đó. “Tất nhiên anh cũng hiểu rằng ngay từ đầu chúng tôi đã hi vọng rất nhiều vào một thành quả lâu bền, và chúng tôi vẫn sẽ hi vọng… chắc chắn là vẫn…”
Tôi nói: “Tôi tin chắc vậy.”
“Tất nhiên, đưa anh vào cuộc thí nghiệm này bằng tinh thần trách nhiệm nghiêm túc. Tôi không biết anh nhớ được bao nhiêu hoặc chắp nối được thế nào về mọi chuyện từ khi bắt đầu dự án đến nay, nhưng chúng tôi đã cố gắng để giải thích cho anh hiểu rõ có nhiều khả năng thành quả này chỉ là tạm thời”.
Tôi đồng ý: “Tôi đã viết ra điều đó trong báo cáo tiến bộ, hồi ấy, mặc dù ngày ấy tôi không hiểu ông định nói gì. Nhưng đấy chỉ là một phần, bởi vì bây giờ tôi đã biết về nó.”
Ông ta tiếp tục: “Đúng, chúng tôi quyết định thử nghiệm anh, bởi vì chúng tôi cảm thấy rằng có rất ít nguy cơ gây ra tổn thương nghiêm trọng cho anh, và chúng tôi chắc chắn rằng có rất nhiều cơ hội giúp ích cho anh.”
“Ông không cần phải biện hộ như thế.”
“Nhưng anh thấy rằng chúng tôi đã được một người trong gia đình anh cho phép tiến hành. Lúc đó anh không đủ năng lực để tự mình đồng ý.”
“Tôi biết hết những chuyện đó. Ông đang nói về em gái tôi, cô Norma. Tôi đã đọc được điều này trong tài liệu. Theo những gì tôi còn nhớ được về cô ấy thì thì tôi hình dung cô ấy đã chấp thuận cho ông được hành hình tôi.”
“Tại sao?”
“Một là có thể anh sẽ không còn như trước đây nữa. Phẫu thuật và tiêm hormone có khả năng sẽ gây ra những ảnh hưởng mà người ta không nhìn thấy ngay được. Có thể những trải nghiệm từ cuộc phẫu thuật sẽ để lại dấu vết trên người anh. Ý tôi muốn nói là có thể sẽ có những xáo trộn trong cảm xúc làm phức tạp thêm tình trạng thiểu năng, và có thể anh sẽ không còn là người như trước đây…”
“Hay lắm. Cứ làm như một lần đau khổ vẫn chưa đủ.”
“Còn một điều nữa là không ai biết được anh có quay trở về mức trí tuệ trước đây hay không. Biết đâu anh lại lùi về một mức còn sơ khai hơn nữa thì sao.”
Ông ta đang dành cho tôi phần tồi tệ nhất của chuyện này: cất cánh nặng ra khỏi tâm trí ông ta.Tôi nói: “Có lẽ đằng nào tôi cũng biết hết mọi chuyện, trong khi tôi vẫn đang ở vị trí có thế bắt ai đó phải nói ra. Ông đã chuẩn bị kế hoạch nào cho tôi?”
Quỹ đã thu xếp để đưa anh về Trường đào tạo và trại Warren State.
“Cái quái gì thế?”
“Trong thỏa thuận với em gái anh có phần toàn bộ chi phí ở trại sẽ do Quỹ đài thọ, và hàng tháng anh sẽ nhận được một khoản thu nhập để trang trải nhu cầu cá nhân cho đến hết đời.”
“Nhưng tại sao lại ở đấy? Trước đây tôi vẫn luôn có khả năng xoay xở ở bên ngoài, ngay cả lúc họ chuyển tôi vào đó sau khi chú Herman mất. Donner đón tôi ra ngoài ngay lập tức, để làm việc và sống bên ngoài. Tại sao tôi lại phải quay lại đó?”
“Nếu anh có thể tự lo cho mình ở bên ngoài, anh sẽ không phải ở trại Warren. Những trường hợp ít nghiêm trọng đều được phép sống bên ngoài. Nhưng chúng tôi phải lo trước cho anh đề phòng trường hợp không hay xảy ra.”
Ông ta nói đúng. Tôi chẳng có gì để mà phàn nàn cả. Họ đã cân nhắc mọi việc. Warren là địa chỉ hợp lí, lớp băng dày giam giữ tôi cho đến hết đời.
“Ít nhất thì cũng không phải lò thiêu.” Tôi nói.
“Cái gì?”
“Không có gì. Đùa riêng thôi.” Rồi tôi nghĩ ra một điều. “Nói cho tôi nghe, có đi thăm Warren được không, ý tôi là có được phép đi thăm quan như du khách không?”
“Được, tôi nghĩ là họ có khách đi lại suốt – hướng dẫn cho khách tham quan như một hình thức quan hệ đại chúng. Nhưng sao?”
“Bởi vì tôi muốn xem. Tôi phải biết những gì sẽ xảy ra trong lúc mình còn đủ năng lực kiểm soát để làm một điều gì đó. Hãy xem như ông có thể thu xếp việc này càng sớm càng tốt được không?”
Tôi có thể nhận thấy ông ta rất bối rối khi biết tôi muốn tham quan Warren. Cứ như thể tôi đang đặt làm quan tài cho mình trước khi chết. Nhưng tôi không thể trách ông ta được, bởi vì ông ta không biết rằng tìm ra con người thực sự của tôi – ý nghĩa của toàn bộ việc tôi đang làm trên cõi đời này – bao gồm cả việc biết những gì xảy ra với mình trong tương lai cũng như quá khứ, mình sẽ đi đến đâu và đã từng ở đâu. Mặc dù tất cả chúng tôi đều biết rằng cuối mê cung là cái chết (và đây là điều mà không phải lúc nào tôi cũng biết – cách đây không lâu thằng nhóc trong tôi còn nghĩ rằng cái chết chỉ đến với người khác mà thôi), giờ đây tôi thấy con đường mình chọn để đi qua mê cung đó sẽ giúp tôi tìm được chính mình. Tôi không chỉ là một vật thể mà một cách khác – trong nhiều cách – tồn tại, và biết được con đường nào mình đã đi qua cũng như con đường nào mình sẽ đi sẽ giúp tôi hiểu được con người mà mình sắp sửa trở thành.
Tối hôm đó và mấy ngày tiếp theo, tôi đắm mình trong các tài liệu tâm lí học lâm sàng, nhân cách, đo nghiệm tinh thần, học hỏi, tâm lí học thực nghiệm, tâm lí học động vật, tâm lí học sinh lí, hành vi, hình thức, phân tích, chức năng, động cơ, cơ quan, và toàn bộ các trường phái, hệ thống tư tưởng từ cổ chí kim. Điều đáng buồn là phần nhiều những ý tưởng mà các nhà tâm lí học của chúng ta sử dụng là nền tảng kiến thức về trí tuệ con người, kí ức và học hỏi đều chỉ là mơ tưởng.
Fay muốn đến thăm phòng thí nghiệm, nhưng tôi bảo cô đừng đến. Điều tôi không cần đến nhất bây giờ là để Alice và Fay chạm mặt với nhau. Không có chuyện đó thì tôi cũng đã có đủ thứ để lo rồi.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.