Hoa trên mộ Algernon

Chương 10



25 tháng Năm – Và đây là cách mà một người có thể làm để tự hạ thấp bản thân – biết rằng mình đang làm sai nhưng không thể nào dừng lại được. Mặc dù không muốn chút nào nhưng tôi vẫn mò đến nhà Alice. Hết sức ngạc nhiên nhưng nàng vẫn để cho tôi vào.

“Anh ướt hết rồi. Nước chảy ròng ròng trên mặt anh kìa.”

“Mưa mà. Tốt cho hoa cỏ.”

“Anh vào đi. Để em lấy khăn cho anh. Anh đến sưng phổi mất.”

Tôi nói: “Em là người duy nhất anh có thể nói chuyện được. Hãy cho anh ở lại nhé.”

“Em có một bình cà phê mới pha trên lò. Đến đấy hong người đi rồi hẵng nói chuyện.”

Tôi nhìn xung quanh trong lúc nàng đi lấy cà phê. Đây là lần đầu tiên tôi bước chân vào nhà nàng. Tôi cảm thấy vui vui, nhưng căn phòng có cái gì đó khiến tôi khó chịu.

Mọi thứ đều gọn gàng. Mấy bức tượng bằng sứ xếp hàng dài trên bục cửa sổ, quay mặt về cùng một hướng. Mấy chiếc gối con trên ghế bành không hề bị ném bừa bãi chút nào, ngược lại còn được đều đặn trên lớp nilông bảo vệ vải bọc. Hai chiếc bàn kê sát tường đều có tạp chí, được chồng lên nhau một cách ngăn nắp sao cho ai cũng có thể dễ dàng đọc được tên tạp chí. Trên một chiếc bàn: The Reporter, The Saturday Review, The New Yorker; còn trên chiếc kia: Mademoiselle, House Beautiful, và Reader’s Digent.

Trên bức tường phía xa, đối diện với sofa là một bức tranh được đóng khung rất đẹp, chép từ bức “Mẹ và con” của Picasso, và đối diện nó, ngay trên sofa, là bức vẽ một vị quan ăn vận bảnh bao theo kiểu Phục Hưng, đeo mặt nạ, tay cầm gươm, bảo vệ một cô gái má ửng hồng trông đang rất sợ hãi. Đem ghép tất cả những điều này lại với nhau, trông chúng chẳng ăn khớp gì cả. Cứ như thể Alice không thể nào xác định được nàng là ai và nàng muốn sống trong thế giới nào.

“Mấy ngày nay anh không đến phòng thí nghiệm,” nàng nói vọng lên từ nhà bếp. “Giáo sư Nemur đang lo cho anh đấy.”

Tôi trả lời: “Anh không gặp họ được. Anh biết chẳng có lý do gì phải gượng cả, nhưng anh thấy trống rỗng lắm khi hàng ngày không được đi làm – không được nhìn thấy quầy hàng, nhìn thấy những chiếc lò nướng, nhìn thấy mọi người. Như thế là quá đủ. Đêm qua và đêm trước đó nữa anh mơ thấy mình bị chết đuối.”

Nàng đặt khay xuống giữa bàn cà phê – khăn giấy được gấp thành hình tam giác, còn bánh quy được xếp thành hình tròn trang trí. “Anh đừng coi quá nặng nề như vậy, Charlie ạ. Việc ấy chẳng liên quan gì đến anh cả.”

“Anh chẳng thể tự bảo mình như vậy được. Những người đó, trong suốt bao nhiêu năm qua, là gia đình anh. Cứ như là bị vứt ra khỏi căn nhà của chính mình vậy.”

Nàng nói: “Chỉ đơn giản thế thôi. Đó chỉ là sự lặp lại mang tính biểu tượng của những điều anh gặp phải thời thơ ấu. Bị cha mẹ bỏ rơi… bị đuổi đi…”

“Ôi, lạy Chúa! Dán cho nó một cái nhân thật đẹp thì cũng được thôi. Nhưng vấn đề là trước khi tham gia cuộc phẫu thuật này, anh có bạn bè, những người luôn quan tâm đến anh. Bây giờ anh thấy sợ…”

“Anh vẫn có bạn bè đó thôi.”

“Không còn giống như trước.”

“Sợ hãi là một phản ứng bình thường.”

“Nó còn hơn thế nữa. Trước đây anh đã từng biết đến sợ hãi. Sợ bị đánh đòn vì không chịu nhường nhịn Norma, sợ phải đi qua phố Howells nơi có bọn du côn thường trêu chọc và xô đẩy anh. Và anh sợ cả cô giáo Libby đã từng trói tay anh lại để anh không nghịch mọi thứ trên bàn nữa. Nhưng những thứ đó đều là thật, đáng để anh phải sợ. Nỗi sợ bị đuổi ra khỏi tiệm bánh rất mơ hồ, nó là nỗi sợ mà anh không thể nào hiểu được.”

“Bình tĩnh đi anh.”

Em không cảm nhận được nỗi sợ này đâu.”

“Nhưng anh có thể biết trước được, Charlie ạ. Anh là một người mới tập bơi buộc phải rời khỏi chiếc phà đang chìm và rất sợ mất đi cái sàn gỗ chắc chắn dưới chân mình. Ông Donner rất tốt với anh, và ông cho anh chỗ trú ngụ suốt bao nhiêu năm qua. Bị đuổi ra khỏi tiệm bánh như vậy là một cú sốc lớn hơn anh nghĩ.”

“Biết vậy nhưng cũng đâu có giúp ích gì. Anh không thể ngồi một mình trong phòng được nữa. Anh lang thang trên phố suốt ngày suốt đêm, không biết mình đang tìm kiếm điều gì… cứ đi mãi cho đến lúc bị lạc… và thấy mình đứng bên ngoài tiệm bánh. Đêm qua anh lại lang thang từ quảng trường Washington đến Công viên Trung tâm, và anh ngủ trong công viên. Anh đang tìm kiếm cái quái gì chứ?”

Tôi càng nói, nàng càng trở nên bối rối. “Em làm được gì để giúp anh đây, Charlie?”

“Anh không biết. Anh giống như con thú bị khóa bên ngoài chiếc lồng xinh xắn, an toàn của nó.”

Nàng ngồi xuống bên tôi trên sofa. “Họ đẩy anh tiến nhanh quá. Anh đang bối rối. Anh muốn trở thành người lớn, nhưng trong anh vẫn còn một cậu nhóc. Đơn độc và sợ hãi.” Nàng đặt đầu tôi ngả lên vai nàng, tìm cách vỗ về an ủi tôi, và khi nàng vuốt tóc tôi thì tôi biết nàng cũng cần tôi như tôi cần nàng.

“Charlie!” Một lúc sau nàng thì thầm. “Anh muốn gì cũng được… nhưng xin anh đừng sợ em.”

Tôi muốn nói cho nàng biết rằng tôi đang chờ đợi cơn hoảng loạn.

Một lần – trong lúc đi giao hàng cho tiệm bánh – Charlie suýt ngất khi nhìn thấy một phụ nữ trung niên vừa mới tắm xong tự tiêu khiển bằng cách để mở áo choàng tắm và phơi bày da thịt. Cậu đã bao giờ nhìn thấy phụ nữ khỏa thân chưa? Cậu có biết làm tình không? Chắc hẳn sự kinh hãi của cậu – thể hiện qua tiếng rên rỉ – đã làm bà ta phát hoảng bởi vì bà ta vội khép tấm áo choàng lại và cho cậu một đồng 25 xu để cậu quên đi những gì vừa xảy ra. Bà ta cảnh cáo rằng bà chỉ thử cậu để xem cậu có ngoan hay không mà thôi.

Cậu bảo, cậu cố gắng ngoan ngoãn và không nhìn phụ nữ, bởi vì mẹ cậu thường đánh đòn cậu mỗi khi cậu để điều đó xảy ra trong quần…

Giờ thì tôi đã nhìn rõ hơn mẹ Charlie, miệng quát mắng cậu, tay cầm chiếc thắt lưng da, còn bố cậu thì cố giữ mẹ cậu lại. “Đủ rồi, Rose! Em sẽ giết chết con mất! Để cho nó yên!” Mẹ cậu thì vươn người ra để vụt cậu, có điều không với tới nên chiếc thắt lưng trượt qua vai cậu, trong khi cậu quằn quại, lăn lộn tránh đòn trên sàn.

Rose hét lên: “Trông nó kìa! Không học đọc học viết được, nhưng lại biết đi nhìn con gái cơ đấy. Tôi phải đánh bật những thứ rác rưởi kia ra khỏi đầu nó đi.”

“Nếu nó hứng thì đâu có cưỡng lại được. Chuyện này bình thường thôi mà. Nó có làm gì đâu.”

“Việc của nó không phải là nghĩ như vậy về lũ con gái. Bạn của em gái nó đến nhà là nó lại bắt đầu nghĩ như vậy. Tôi sẽ dạy để nó nhớ đời. Mày có nghe không hả? Nếu mày động đến một đứa con gái nào, tao sẽ tống mày vào lồng như một con vật cho đến hết đời. Nghe chưa?…”

Tôi vẫn nghe bà ta nói. Nhưng có lẽ tôi đã được giải phóng. Có lẽ nỗi sợ hãi và cơn buồn nôn không còn như đại dương khiến người ta chết đuối nữa, mà chỉ như một bể nước phản chiếu quá khứ bên cạnh hiện tại. Tôi đã được tự do chưa?

Nếu tôi ôm được Alice đúng lúc – không suy nghĩ gì về điều đó trước khi nó xâm chiếm lấy tôi – có lẽ cơn hoảng sợ đã không xảy ra. Giá như tôi có thể khiến cho trí óc mình trống rỗng. Tôi cố gắng thều thào: “Em… em làm đi! Ôm anh đi!” Và trước khi tôi kịp nhận biết nàng đang làm gì thì nàng đã hôn tôi, ôm tôi chặt hơn bất kỳ người nào từng ôm tôi từ trước đến nay. Nhưng đúng lúc tôi vừa đến chỗ gần nhất thì điều đó lại bắt đầu: tiếng vo ve, cơn ớn lạnh, và cảm giác buồn nôn. Tôi quay lưng lại với nàng.

Nàng cố dỗ dành tôi, bảo rằng chuyện đó không quan trọng, rằng chẳng có lý do gì phải tự trách mình cả. Nhưng cảm thấy xấu hổ, và không còn kìm giữ được nỗi thống khổ trong lòng, tôi bắt đầu nức nở. Trong vòng tay nàng, tôi khóc đến lúc ngủ thiếp đi, và tôi mơ thấy viên quan và cô gái má hồng. Nhưng trong giấc mơ tôi, người cầm gươm lại là cô gái.

BÁO CÁO TIẾN BỘ 12 

5 tháng Sáu – Nemur rất bực mình vì gần hai tuần liền tôi không nộp một bản báo cáo tiến bộ nào (ông cáu là đúng bởi vì Quỹ Welberg bắt đầu trích tiền trợ cấp trả lương cho tôi để tôi không phải đi tìm việc). Chỉ còn một tuần nữa là đến Hội nghị Tâm lý học Quốc tế ở Chicago. Ông muốn báo cáo sơ bộ của ông phải được càng đầy đủ càng tốt, vì tôi và Algernon sẽ tham gia minh họa cho bài thuyết trình của ông.

Quan hệ của chúng tôi đang ngày càng trở nên căng thẳng. Tôi ghét Nemur vì liên tục gọi tôi là mẫu vật thí nghiệm. Ông ta làm tôi có cảm giác như trước cuộc thử nghiệm tôi không phải là con người.

Tôi bảo với Strauss rằng tôi quá bận suy nghĩ, đọc sách, và khám phá chính mình, cố gắng để hiểu mình là ai, và mình là người như thế nào, vì thế quá trình viết lách trở nên chậm đến nỗi nó khiến tôi mất cả kiên nhẫn trong việc ghi lại những ý nghĩ của chính mình. Nghe lời anh ấy tôi học đánh máy, và giờ tôi đã có thể gõ gần bảy mươi lăm từ trong một phút, dễ hơn so với viết ra giấy.

Một lần nữa Strauss lại lưu ý với tôi về vấn đề nói và viết thật đơn giản, trực tiếp sao cho mọi người cảm thấy dễ chịu. Anh nhắc tôi rằng đôi khi ngôn ngữ là rào cản chứ không còn đóng vai trò đường đi nữa. Thật mỉa mai khi thấy mình đứng bên kia hàng rào kiến thức.

Thỉnh thoảng tôi gặp Alice, nhưng chúng tôi không bàn xem chuyện gì đã xảy ra. Quan hệ của chúng tôi vẫn trong sáng. Nhưng suốt ba đêm liền sau khi rời tiệm bánh, tôi toàn thấy ác mộng. Thật khó mà tin được hai tuần đã trôi qua.

Trên những con phố vắng ban đêm, tôi bị nhiều bóng ma theo gót. Mặc dù lần nào tôi cũng chạy về tiệm bánh, nhưng cánh cửa lúc nào cũng đóng chặt, còn mọi người bên trong chẳng bao giờ thèm quay nhìn tôi. Đôi cô dâu chú rể trên chiếc bánh cưới trên ô cửa sổ trỏ vào tôi và phá lên cười – không gian tràn ngập tiếng cười đến mức tôi không chịu nổi nữa – và hai vị thần tình yêu vẫy vẫy mũi tên đang bốc cháy. Tôi hét lên. Tôi đấm vào cánh cửa, nhưng chẳng nghe thấy tiếng gì cả. Tôi nhìn thấy Charlie từ trong nhà nhìn tôi. Phải chăng đây chỉ là cái bóng? Đồ đạc chộp lấy chân tôi và kéo tôi ra xa tiệm bánh, vào trong bóng tối của con ngõ, và khi chúng bắt đầu tan chảy ra khắp người tôi thì tôi choàng tỉnh.

Những lần khác, của sổ tiệm bánh mở vào quá khứ và nhìn qua đó tôi có thể nhìn thấy mọi vật cũng như mọi người.

Năng lực hồi tưởng của tôi đang phát triển một cách đáng ngạc nhiên. Tôi chưa hoàn toàn kiểm soát được nó, nhưng có những lúc khi bận đọc sách hoặc làm việc, tôi bỗng có cảm giác cực kỳ rõ ràng.

Tôi biết đó là một dạng tín hiệu cảnh báo của tiềm thức, do đó bây giờ thay vì chờ cho trí nhớ tự tìm đến, tôi nhắm mắt lại và đi tìm. Cuối cùng, tôi cũng đã hoàn toàn kiểm soát được khả năng hồi tưởng, nhờ vậy không chỉ khám phá được toàn bộ những trải nghiệm trước đây mà còn cả những năng lực trí tuệ chưa từng được khai thác.

Thậm trí lúc này, khi nghĩ về điều đó tôi cảm nhận được sự tĩnh lặng kinh khủng. Tôi thấy cánh cửa sổ tiệm bánh… vươn tới và chạm vào… lạnh, run, và tấm kính trở nên ấm dần… nóng lên… các ngón tay bỏng rát. Cánh cửa sổ phản chiếu hình ảnh tôi trở nên sáng hơn, và khi tấm kính trở thành tấm gương, tôi nhìn thấy cậu bé Charlie Gordon – khoảng mười bốn, mười lăm tuổi đang nhìn tôi qua cửa sổ, và lạ lùng thay khi thấy cậu ta thật khác…

Cậu đang đứng chờ em gái đi học về, và khi nhìn thấy em ở góc phố Marks, cậu vẫy tay và gọi to rồi chạy đến cổng vòm đón.

Norma cầm một tờ giấy vẫy vẫy: “ Con được điểm A môn lịch sử. Con trả lời đúng tất cả các câu hỏi. Cô Baffin bảo bài của con tốt nhất lớp.”

Cô bé trông khá xinh với mái tóc nâu nhạt tết cẩn thận quấn quanh đầu như một chiếc vương viện, và khi nhìn lên anh trai, nụ cười bỗng nhiên trở thành cái nhíu mày và cô bé nhảy qua bỏ lại cậu sau lưng lao lên bậc thang vào nhà.

Cậu mỉm cười đi theo em gái.

Cha mẹ cậu đang ở trong bếp, và Charlie vì quá háo hức trước tin vui của Norma nên buột miệng nói ra trước Norma

“Em ấy được điểm A! Em ấy được điểm A!”

“Không” Norma rít lên “Không phải anh. Anh không được nói. Đấy là điểm của tôi vì thế để tôi nói.”

“Gượm đã tiểu thư.” Matt đặt tờ báo xuống và nghiêm khắc nói với cô bé. “Con không được nói với anh con như vậy.”

“Anh ấy không có quyền nói.”

“Không sao cả”. Matt nhìn con gái qua ngón tay dứ dứ cảnh cáo. “ Anh con không có ý gì xấu, nên con không được quát anh như vậy.”

Cô bé quay sang mẹ cầu cứu. “Con được điểm A – điểm cao nhất trong lớp. Giờ con có được phép nuôi chó không? Mẹ đã hứa rồi mà. Mẹ bảo nếu con đạt được điểm tốt trong kỳ kiểm tra. Và con đã được điểm A. Một chú chó nâu đốm trắng. Và con sẽ gọi nó là Napoleon bởi vì đấy là câu hỏi con trả lời tốt nhất trong bài kiểm tra. Napoleon đã thua trận Waterloo.”

Rose gật đầu. “Đi ra cổng vòm chơi với Charlie đi. Anh con chờ con đi học về suốt cả giờ đấy.”

“Con không muốn chơi với anh ấy.”

“Đi ra cổng vòm đi,” Matt lên tiếng.

Norma nhìn cha rồi lại nhìn Charlie. “Con không có nghĩa vụ phải làm thế. Mẹ bảo nếu không muốn thì con không cần phải chơi với anh ấy.”

“Bây giờ, tiểu thư” – Matt đứng dậy và đi về phía cô bé – “con sẽ phải xin lỗi anh con.”

“Con không có nghĩa vụ phải làm thế,” cô bé hét lên, nấp sau ghế mẹ. “Anh ấy giống như em bé, anh ấy không biết chơi cờ tỉ phú hay cờ đam hay bất cứ trò gì… anh ấy làm mọi thứ lộn tùng phèo cả lên. Con sẽ không chơi với anh ấy nữa.”

“Vậy thì đi về phòng con ngay!”

“Mẹ, con có được nuôi chó không?”

Matt lấy tay đập bàn. “Sẽ chẳng có chó mèo gì trong cái nhà này nếu như con còn có thái độ như thế, tiểu thư ạ.”

“Nhưng em đã hứa là sẽ cho con nuôi chó nếu nó làm bài tốt ở trường…”

“Một chú chó màu nâu có đốm trắng!” Norma đế vào.

Matt chỉ vào Charlie đang đứng gần bức tường: “Em có nhớ là em đã bảo với Charlie rằng nó không thể nuôi chó vì chúng ta không có đủ chỗ, và không có ai chăm sóc cho nó cả. Nhớ không? Khi nó xin phép được nuôi chó. Giờ em lại đi ngược lại với những điều em đã nói với con sao?”

“Nhưng con có thể tự chăm sóc cho con chó,” Norma kiên quyết. “Con sẽ cho nó ăn, tắm rửa cho nó, và dẫn nó đi dạo,…”

Đang đứng gần cái bàn và chơi với cái nút đỏ lớn cuối chuỗi hạt, đột nhiên Charlie lên tiếng:

“Con sẽ giúp em chăm sóc con chó! Con sẽ giúp em cho chó ăn, tắm rửa cho nó và con sẽ không để cho những con chó khác cắn nó!”

Nhưng truớc khi Matt và Rose kịp trả lời, Norma đã rít lên: “Không, nó là chó của con, chỉ mình con!”

Matt gật đầu.”Thấy không?”

Rose ngồi bên cạnh và vuốt ve bím tóc để vỗ về con gái. “Nhưng chúng ta phải biết chia sẻ con ạ. Charlie có thể giúp con chăm sóc nó.”

“Không! Chỉ của riêng mình con thôi!… Con mới là người được điểm A môn lịch sử chứ không phải anh ấy! Anh ấy không bao giờ được điểm cao như con. Tại sao anh ấy lại giúp con nuôi chó chứ? Rồi nó sẽ thích anh ấy hơn con, và nó sẽ thành chó của anh ấy chứ không phải là chó của con nữa. Không! Nếu con không có được nó cho riêng mình thì con không cần nữa.”

“Thế là xong,” Matt nhặt tờ báo lên và ngồi trở lại ghế. “Không chó mèo gì nữa hết.”

Đột nhiên, Norma nhảy ra khỏi chiếc ghế bành và giật lấy bài kiểm tra mà cách đây vài phút cô bé vừa háo hức mang về nhà. Cô bé xé nát và ném từng mảnh vào khuôn mặt hoảng hốt của Charlie: “Tôi ghét anh! Tôi ghét anh!”

“Norma dừng lại ngay” Rose túm lấy cô bé nhưng Norma vùng ra.

“Con ghét trường học! Con ghét nó! Con sẽ bỏ học, và con sẽ trở nên đần độn như anh ấy. Con sẽ quên hết mọi thứ đã học và con sẽ giống như anh ấy.” Cô bé chạy ra khỏi phòng hét lên: “Chuyện đấy xảy ra với con rồi mà. Con đang quên hết mọi thứ… Con đang quên…Con không còn nhớ nổi những điều đã học nữa.”

Hoảng sợ, Rose chạy theo con gái. Matt vẫn ngồi đó, mắt vẫn nhìn vào tờ báo trên đùi. Sợ hãi trước cơn kích động và tiếng la hét của em gái, Charlie dúi mình vào ghế âm thầm khóc. Cậu đã làm gì sai ư? Cảm thấy ươn ướt ở đũng quần và dòng nước nhỏ giọt dọc chân, cậu ngồi đó chờ cái tát mà cậu biết thể nào cũng có khi mẹ cậu quay lại.

Chuyện nguôi dần, nhưng kể từ lúc đó, Norma dành toàn bộ thời gian rỗi cho bạn bè, hoặc chơi một mình trong phòng. Nó đóng chặt cửa phòng, còn tôi thì bị cấm không được vào khi chưa được phép.

Tôi nhớ có lần nghe lỏm Norma và một đứa bạn chơi trong phòng, và Norma hét lên: “Đấy không phải anh ruột tớ đâu! Đấy chỉ là người mà nhà tớ nhận nuôi vì thương hại đó thôi. Mẹ tớ bảo thế, và mẹ tớ bảo tớ có thể nói bất cứ ai rằng anh ấy không phải anh ruột của tớ.”

Tôi ước sao ký ức này là một tấm ảnh để tôi có thể xé tan nó ra và ném vào mặt Norma. Tôi muốn gọi về quá khứ để nói với nó rằng tôi không hề có ý định ngăn nó nuôi chó. Norma có thể giữ con chó cho riêng mình, và tôi sẽ không cho nó ăn, không tắm rửa cho nó, hoặc sẽ chơi đùa với nó và tôi sẽ không bao giờ làm cho nó thích tôi hơn em gái mình. Tôi chỉ muốn nó chơi với tôi như chúng tôi vẫn thường chơi. Tôi chẳng bao giờ muốn làm bất cứ điều gì tổn hại đến Norma cả.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.