Ba Người Bạn

CHƯƠNG 1



Bầu trời vàng như đồng thau, vẫn chưa bị vẩn đục bởi khói nhà máy, hừng sáng phía sau dãy mái ngói xí nghiệp. Hẳn mặt trời sắp nhô lên đến nơi. Tôi nhìn đồng hồ. Vẫn chưa đến tám giờ. Sớm mười lăm phút. Tôi mở cổng chuẩn bị sẵn sàng máy bơm xăng. Vào giờ này thường đã có một số muốn ăn sáng chạy qua đây. Bỗng tôi nghe sau lưng mình tiếng gì khàn khàn, khe khẽ, tuồng như một chiếc đinh ốc gỉ đang xoáy trồi lên khỏi mặt đất. Tôi dừng chân nghe ngóng, đoạn đi qua sân trở lại xưởng và thận trọng mở cửa. Trong căn phòng tranh tối tranh sáng đang lắc lư dạo vòng một con ma. Con ma chít chiếc khăn đội đầu màu trắng bẩn thỉu, choàng tạp dề xanh, chân xỏ đôi guốc thô, tay huơ huơ một cái chổi, nó nặng chín chục ký và là mụ lao công Matilda Stoss.
Tôi đứng yên một lát nhìn mụ. Mụ có cái vẻ yêu kiều của một con hà mã khi mụ chuệch choạng đi đi lại lại giữa những bộ tản nhiệt xe hơi và cất giọng trầm trầm hát bài ca về anh lính khinh kỵ trung thành. Trên mặt bàn kế cạnh cửa sổ có hai chai cognac. Một chai hầu như đã cạn. Tối qua cái chai còn đầy nguyên. Tôi đã quên không cất nó vào tủ khóa lại. “Kìa bà Stoss!” tôi lên tiếng. Lời ca ngừng bặt. Cái chổi rơi xuống đất. Nụ cười ngà say tắt lịm. Bây giờ tôi mới là con ma. “Jesusma, lạy Chúa tôi”, Matilda ấp úng và giương cặp mắt đỏ ngầu ngó tôi trân trân. “Tôi đâu ngờ cậu đến sớm thế…”
“Biết rồi. Rượu ngon chứ?”
“Đã hẳn… nhưng nhục cho tôi quá”. – Mụ quệt miệng. “Tôi rõ tồi tệ…”
“Chà, bà cứ phóng đại thế. Bà chỉ say thôi. Say khướt như một gã nghiện”.
Mụ gắng đứng thẳng người. Ria mép mụ động đậy và mi mắt mụ chớp chớp như mắt một con cú già. Nhưng dần dần mụ cũng tỉnh táo hơn. Mụ quả quyết tiến lên một bước. “Cậu Lohkamp… người ta ai cũng là người thôi… đầu tiên tôi chỉ ngửi… và rồi làm một ngụm… vì rằng tiếng thế chứ dạ dày tôi bao giờ cũng yếu… vâng, thế rồi, thế rồi hẳn quỷ Satăng đã ám tôi. Các cậu cũng không nên thử thách một người đàn bà tội nghiệp, không nên để mặc cái chai đấy”.
Đây chẳng phải lần đầu tiên tôi bắt gặp mụ như thế. Sáng nào mụ cũng đến dọn dẹp trong xưởng độ hai tiếng: cứ việc quăng tiền vương vãi đâu tùy thích, mụ không tơ hào đến… thế nhưng rượu đặt trước mắt mụ thì chẳng khác gì mỡ để miệng mèo.
Tôi giơ cái chai lên. “Đương nhiên rồi, bà không động đến rượu cognac dành cho khách hàng… Thế nhưng thứ rượu ngon của ông Koster thì bà nốc sạch”.
Một thoáng cười đắc ý lướt qua nét mặt già nua của Matilda. “Tất tật những gì ngon lành… tôi là kẻ sành sỏi mà lại. Nhưng cậu sẽ không tố giác gì tôi chứ, cậu Lohkamp? Tố giác một mụ góa yếu đuối bất lực như tôi?”
Tôi lắc đầu. “Hôm nay thì không đâu”.
Mụ buông những nếp váy xuống. “Thế thì tôi chuồn đây. Cậu Koster mà đến bây giờ thì… trời đất quỷ thần ơi!”
Tôi lại bên tủ và mở tủ ra. “Bà Matilda…”
Mụ vội vã lạch bạch chạy đến. Tôi giơ cao một cái chai nâu hình vuông.
Mụ huơ tay chối. “Không phải tôi! Thề danh dự đây! Tôi không hề động tới nó!”
“Tôi biết”, tôi nói và rót đầy một ly. “Bà biết loại rượu này chứ?”
“Sao không!” Mụ liếm môi. “Rum! Rượu rum Jamaica lâu đời!”
“Khá. Vậy xin bà hãy cạn ly!”
“Tôi ấy?” Mụ nhảy lùi lại. “Như thế nhiều quá, cậu Lohkamp! Đầu tôi đang nóng phừng phừng như than hồng đây này! Mụ Stoss già nua đã ngầm nốc sạch rượu cognac của cậu, thế mà cậu lại còn thết mụ một ly rum để thưởng công nữa. Cậu là một bậc thánh, chính thế! Thà chết còn hơn chấp nhận một chuyện như vậy”.
“Thế hở?” tôi nói và làm ra vẻ chực thu ly rượu về.
“Nào thì uống!” Mụ vội vã nắm lấy cái ly. “Đành phải tiếp nhận điều tốt đẹp như nó đã đến thôi. Cho dù không hiểu nó. Chúc sức khỏe cậu! Dễ thường hôm nay là sinh nhật cậu”.
“Đúng vậy, bà Matilda. Bà đoán giỏi đấy”.
“Sao, thật thế ư?” Mụ chộp lấy bàn tay tôi lắc lấy lắc để. “Rất chi thành thật chúc cậu hạnh phúc! Dồi dào tiền của! Cậu Lohkamp này”, mụ quệt miệng “tôi cảm động quá thể… nhất định tôi phải làm một ly nữa mừng cậu. Là vì chẳng gì tôi cũng quý cậu như con”.
“Tốt thôi”.
Tôi rót thêm cho mụ ly nữa. Mụ dốc cạn một hơi, rồi rời xưởng, mồm xuýt xoa khen ngợi.
Tôi dọn cái chai đi, ngồi vào bàn. Mặt trời nhợt nhạt xuyên qua cửa sổ chiếu xuống đôi tay tôi. cảm giác lạ kỳ trong một ngày sinh như thế này, dẫu rằng ta chẳng xem nó ra gì. Ba mươi tuổi… đã từng có thời tôi ngờ đâu không bao giờ mình có thể lên đến tuổi hai mươi, tôi cảm thấy cái ngày ấy sao mà xa vời. Và rồi…
Tôi mở ngăn kéo lấy một tờ giấy viết thư và bắt đầu tính. Thời ấu thơ, trường học… đó là một tổng thể, xa xôi, ở đâu đó, không còn thật nữa. Mãi năm 1916 cuộc đời thật sự mới bắt đầu. Khi ấy tôi vừa trở thành chú lính mới, gầy, cao ngồng, mười tám tuổi, tập nằm xuống, đứng lên trên những thửa ruộng mới cày phía sau doanh trại theo lệnh của một tay hạ sĩ quan ria mép rậm rì. Vào một trong những tối đầu tiên, mẹ tôi đến doanh trại thăm tôi, nhưng bà phải đợi tôi mất hơn một giờ đồng hồ. Tôi đã đóng ba lô của mình không đúng quy cách và phải chịu hình phạt quét dọn nhà vệ sinh vào giờ nghỉ. Mẹ tôi muốn giúp tôi, nhưng bà không được phép. Bà khóc, còn tôi thì mệt tới mức ngủ thiếp đi khi mẹ vẫn còn ngồi bên.
1917. Flanders[1]. Mittendorf và tôi mua ở căng tin một chai vang đỏ. Chúng tôi định uống một chầu. Thế nhưng cả bọn tôi đã không thực hiện được. Sáng tinh mơ, quân Anh bắt đầu một trận pháo kích lớn. Koster bị thương lúc giữa trưa, Meyer và Deters ngã xuống buổi chiều. Và tối đến, khi cả bọn đã tưởng được bình yên và mở chai rượu ra, thì hơi độc tràn vào, ùa xuống các công sự. Tuy rằng cả bọn kịp thời đeo mặt nạ nhưng mặt nạ của Mittendorf lại hỏng. Khi cậu ấy phát hiện ra thì đã muộn. Cho đến lúc chiếc mặt nạ này bị giật đi và tìm thấy một cái mới thay vào thì Mittendorf đã hít phải quá nhiều hơi độc và nôn ra máu. Cậu ấy chết vào sáng hôm sau, trên mặt có nhiều vết bầm tím. Cổ Mittendorf rách bươm… cậu ấy đã cố dùng móng tay hòng phanh nó ra để hớp lấy không khí.
1918. Nằm quân y viện. Mấy hôm trước, một đợt thương binh mới được chả đến. Bông băng bằng giấy bản. Những ca bị thương nặng. Suốt ngày, những chiếc xe phẳng lỳ của phòng mổ cứ chạy ra chạy vào. Thỉnh thoảng có những chiếc ra không. Joseph Stoll nằm cạnh mình. Anh đã mất cả hai đùi, nhưng còn chưa biết điều đó. Không thể nhìn thấy được, vì người ta chụp lên phần dưới anh một cái lồng bằng dây thép phủ chăn. Mà giá có thấy anh cũng chẳng tin nó, vì anh vẫn cảm thấy đau đớn dưới hai bàn chân. Đêm hai người chết trong buồng bọn mình. Một người chết rất ngắc ngoải và đau đớn.
1919. Lại ở nhà. Cách mạng[2]. Đói. Bên ngoài vẫn tiếp tục nghe tiếng súng máy. Lính đánh nhau với lính. Đồng đội gây lộn với đồng đội.
1920. Đảo chính. Karl Broger bị bắn chết. Koster và Lenz bị bắt. Mẹ tôi nằm nhà thương. Bệnh ung thư của bà đang vào giai đoạn cuối.
1921…
Tôi ngẫm nghĩ. Tôi chẳng còn nhớ nữa rồi. Đơn giản là thiếu mất năm đó. 1922 tôi làm công nhân đường sắt ở Thuringia, 1923 lãnh đạo việc quảng cáo cho một xí nghiệp cao su. Đang thời kỳ lạm phát. Lương tháng của tôi là hai trăm tỉ mác. Mỗi ngày hai lần lĩnh tiền và mỗi lần lĩnh tiền lại được nghỉ nửa giờ để đảo nhanh qua các cửa hiệu mua sắm chút ít trước khi hối đoái đô-la mới lại được công bố… đồng tiền lại mất giá một nửa.
Còn sau đó? Những năm tiếp theo? Tôi đặt bút chì xuống. Nhẩm lại tất cả những cái ấy mà làm gì. Vả lại tôi cũng chẳng còn nhớ chính xác. Tôi đã lẫn lộn quá lắm. Năm ngoái tôi uống mừng sinh nhật của mình tại tiệm cà phê Quốc Tế, nơi tôi đánh dương cầm thuê được một năm. Thế rồi tôi gặp lại Koster và Lenz. Còn lúc này tôi đang ngồi trong xương sửa chữa ô-tô Koster và Co… Co, đây tức là Lenz và tôi, nhưng sự thực thì xưởng này chỉ thuộc về mỗi mình Koster. Trước kia Koster là bạn học, rồi chỉ huy đại đội của chúng tôi, sau đó làm phi công, có thời gian dài là sinh viên, rồi lái xe đua… cuối cùng cậu ta đã tậu được cái văn phòng khổ này. Đến làm với Koster trước tiên là Lenz, kẻ từng lang bạt vài năm bên Nam Mỹ… rồi thêm tôi.
Tôi rút từ túi áo một điếu thuốc lá. Thật ra tôi có thể hoàn toàn hài lòng. Hoàn cảnh của tôi chẳng đến nỗi nào, tôi có việc làm, lại cường tráng, tôi không dễ gì trở nên mệt mỏi, tôi lành lặn – như người ta thường nói… nhưng dẫu sao đừng nghĩ ngọi thái quá về điều đó vẫn hơn. Đặc biệt đừng nghĩ ngợi vào lúc chỉ có một mình. Và buổi tối cũng đừng. Một cái gì đó của quá khứ đôi khi lại hiện lên và nhìn ta trân trối bằng cặp mắt của người chết. Nhưng ta đã có rượu mạnh.
Ngoài kia có tiếng kẹt cổng. Tôi xé tờ giấy có ghi những năm tháng đời mình, ném vào sọt giấy lộn. Cánh cửa bật mở. Gottfried Lenz đứng trong khung cửa, cao, gầy, với cái bờm tóc màu vàng rơm và một cái mũi lẽ ra thích hợp với một người đàn ông hoàn toàn khác. “Robby”, cậu ta gầm lên, “quân săn mồi già đời, đứng dậy và hãy lên gân lên cốt đi! Cấp trên của cậu muốn nói chuyện với cậu!”
“Chúa ơi!” Tôi đứng dậy. “Mình đã hy vọng rằng các cậu không nhớ tới kia đây. Hãy nương nhẹ thôi, các chú bé!”
“Điều đó xem ra hợp ý cậu!” Gottfried đặt lên bàn một cái gói, từ đó tiếng lanh canh phát ra rõ mồn một. Koster bước vào sau Lenz. Lenz đứng chắn trước mặt tôi. “Robby, sáng nay cậu gặp cái gì trước tiên?”
Tôi ngẫm nghĩ. “Một mụ già nghiêng ngả”.
“Đấng Moses thiêng liêng! Một điềm gở! Nhưng lại đúng với lá số tử vi của cậu. Mình vừa lập nó hôm qua. Cậu là một đứa trẻ cần được che chở, không vững vàng, dao động, một ngọn lau trước gió, với chòm Thổ tinh đáng ngờ và một Mộc tinh thương tật trong năm nay. Vì Otto và mình thay mặt cho cha mẹ cậu, vật đầu tiên mình trao cho cậu là một thứ để phòng thân. Hãy nhận lấy tấm bùa hộ mệnh này. Một kẻ hậu sinh của những người Inka[3] đã để lại nó cho mình. Mụ ta có dòng máu xanh, đôi bàn chân phẳng, chấy rận và biệt tài nhìn vào tương lai. ‘Hỡi người lạ da trắng, mụ ta bảo mình, các đức vua đã đeo nó, nó chứa sức mạnh của vầng dương, mặt trăng và trái đất, hoàn toàn chưa nói đến các hành tinh nhỏ hơn… hãy đưa ta một đồng đô-la bạc để ta mua rượu mạnh, và anh sẽ được nó’. Để sợi dây chuyền hạnh phúc này tiếp tục luân chuyển, mình trao nó cho cậu. Nó sẽ bảo vệ cậu, sẽ xua đuổi lão Mộc tinh lạnh lùng của cậu”.
Cậu ta đeo vào cổ tôi một bức tượng nhỏ xíu màu đen treo trên sợi dây chuyền mỏng mảnh.
“Thế! Để chống lại điều rủi giáng xuống từ trời… còn chống lại những bất hạnh hàng ngày thì đây: sáu chai rượu rum của Otto! Lâu năm gấp đôi số tuổi của cậu!”
Lenz mở cái gói và đặt từng chai một dưới ánh mặt trời buổi sớm. Chúng lóng lánh như hổ phách. “Trông tuyệt đẹp”, tôi nói, “cậu moi ở đâu ra thế, Otto?”
Koster cười. “Một câu chuyện rắc rối. Kể ra thì dài dòng lắm. Nhưng hãy nói thử cậu cảm thấy trong người ra sao? Như một kẻ tam tuần?”
Tôi phẩy tay. “Như mười sáu và đồng thời như ngũ tuần. Chẳng có gì đặc biệt cả”.
“Cậu bảo chẳng có gì đặc biệt sao?” Lenz đáp lại. “Tuổi tác không phải là thứ cao nhất có trên đời hay sao? Cậu đã chiến thắng thời gian một cách tự chủ và sẽ sống gấp đôi”.
Koster nhìn tôi, đoạn bảo: “Thôi mặc cậu ấy, Gottfried, những ngày sinh nhật thường đè nặng lên lòng tự tôn. Đặc biệt vào lúc sáng sớm. Cậu ấy sẽ tỉnh tâm lại ngay ấy mà”.
Lenz nheo mắt lại. “Lòng tự tôn của một con người càng ít đi bao nhiêu, giá trị của anh ta càng nhiều lên bấy nhiêu, Robby ạ. Điều đó ít nhiều an ủi cậu chăng?”
“Không”, tôi đáp, “không một mảy may. Khi con người trở nên có giá trị một chút, anh ta chỉ còn là tượng đài của riêng anh ta mà thôi. Đối với mình, như thế thật mệt mỏi và buồn tẻ”.
“Cậu ấy triết lý, Otto ơi”. Lenz reo. “Cậu ấy đã thoát nạn. Cậu ấy đã vượt qua khoảnh khắc im lặng! Cái khoảnh khắc im lặng trong ngày sinh nhật, khi con người ta tự soi vào đồng tử của con ngươi mình và phát hiện ra mình chỉ là một chú gà nhép nghèo hèn biết mấy. Bây giờ tụi mình có thể thanh thản bắt tay vào công việc hàng ngày và tra dầu cho động cơ chiếc Cadillac cổ được rồi đấy”…
Cả bọn chúng tôi làm việc cho tới lúc chạng vạng tôi, rồi rửa ráy và thay quần áo. Lenz thèm thuồng liếc nhìn dãy chai. “Ta bẻ cổ một chai chứ?”. “Cái đó phải do Robby quyết định”. Koster nói. “Đi gạ gẫm kẻ được tặng quà một cách vụng về đến thế thật không đẹp chút nào. Gottfried ạ”. “Nhưng để những kẻ tặng quà chết khát còn không đẹp hơn nữa kia”. Lenz đáp và mở một chai.
Mùi thơm lập tức lan khắp xưởng.
“Đấng Moses thiêng liêng”. Gottfried xuýt xoa.
Cả ba thằng hít lấy hít để. “Tuyệt vời Otto ạ. Cần phải vươn tới nền thi ca cao siêu mới hòng tìm được những so sánh xứng đáng”.
“Quá uổng nếu cậu đem uống trong cái căn xép tối tăm này!” Lenz quyết định. “Các cậu biết không, tụi mình sẽ ra khỏi đây, sẽ ăn tối ở đâu đó và cắp chai rượu theo. Phải nốc cạn nó giữa thiên nhiên tự do của Chúa” – “Hết tầm!”
Ba thằng đẩy chiếc Cadillac vừa sửa sang ban chiều sang một bên. Phía sau nó là một vật kỳ dị đặt trên bốn bánh. Đó là chiếc xe đua của Otto Koster, niềm tự hào của xưởng.
Koster đã đổi chiếc xe, một cái thùng cũ cao thành, trong một cuộc bán đấu giá bằng một chiếc bánh mì bơ. Thời đó nhìn chiếc xe, các chuyên gia đều không chút do dự mệnh danh cho nó là một hiện vật thú vị cho bảo tàng giao thông. Nhà thời trang Bonvis, chủ một hãng may măng tô phụ nữ và là kẻ ham thích đua xe, đã khuyên Otto biến nó thành một chiếc máy khâu. Nhưng Koster chẳng bận tâm đến điều đó. Cậu ta tháo rời chiếc xe như tháo một chiếc đồng hồ bỏ túi và hì hụi thâu đêm với nó hàng tháng trời. Một tối nọ, cậu ta xuất hiện cùng với chiếc xe trước tiệm rượu mà chúng tôi thường đến uống. Khi lại nhìn thấy chiếc xe, Bonvis suýt ngã lăn ra vì cười, nom nó vẫn tức cười như cũ. Để gây chuyện khôi hài, gã mời Otto một cuộc thách đấu. Gã muốn đưa ra hai trăm mác cược lấy hai mươi thôi, nếu Koster nhận đua với chiếc xe thể thao mới của gã… chặng đường dài mười kilômét, chấp xe của Otto một kilômét. Koster nhận lời thách đấu. Ai nấy đều cười và trông đợi một điều thú vị khổng lồ. Nhưng Otto còn làm tợn hơn nữa: cậu ta khước từ sự ưu tiên, và với nét mặt thanh thản, nâng giá đánh cược lên một ngàn mác chọi một ngàn mác. Bonvis luống cuống hỏi Otto liệu gã có cần phải đưa cậu ta tới trại điên hay không. Koster chỉ trả lời bằng cách cho xe mình khởi động. Cả hai lập tức phóng đi thực hiện cuộc đấu. Sau nửa giờ, Bonvis trở lại với vẻ mặt hoảng loạn như thể vừa trông thấy rắn biển. Gã lặng lẽ viết một tấm séc và thêm một tấm séc nữa. Giờ đây gã muốn mua lại chỗ chiếc xe. Nhưng Koster đã cười nhạo gã. Cậu ta sẽ không bao giờ đổi chiếc xe lấy đồng tiền trần gian nữa. Dầu cỗ máy bên trong của chiếc xe không chê vào đâu được… bề ngoài của nó trông vẫn xấu xí. Để sử dụng hàng ngày, chúng tôi thay cho nó một chiếc vỏ xe đặc biệt lỗi thời, vừa khớp với lớp sơn đã khá xỉn, chân bùn có những chỗ rách, và cái mui đã dùng đến cả chục năm. Lẽ ra chúng tôi có thể mông má tất cả… Nhưng chúng tôi có một lý do để không làm.
Chiếc xe tên là Karl, bóng ma trên đường nhựa.
Karl thở phì phò dọc theo đường nhựa.
“Otto”, tôi nói, “một nạn nhân đang dẫn xác đến kìa”.
Sau lưng chúng tôi, một chiếc Buick nặng nề nôn nóng bóp còi. Nó đang nhanh chóng đuổi kịp. Những bộ tản nhiệt sắp sửa xích lại gần nhau. Gã đàn ông bên tay lái hờ hững trông sang. Ánh mắt gã lướt từ trên xuống chiếc Karl thô thiển. Rồi gã quay mặt đi và quên phắt chúng tôi.
Vài giây sau, hẳn gã đã xác định là Karl vẫn ở cùng một tốc độ với gã. Gã chỉnh lại tư thế ngồi chút ít cho thoải máỉ, nhìn chúng tôi một cách khoái trá và tăng ga. Nhưng Karl không nao núng. Như một con chó teriê bên cạnh một con chó dô, nó vẫn tiếp tục chạy, nhỏ bé, linh lợi, kèm sát cái đầu máy mạ kền và sơn sáng nhoáng. Gã đàn ông nắm chắc tay lái hơn. Gã hoàn toàn chẳng nghi ngờ gì và khinh bỉ bĩu môi. Có thể đoán giờ đây gã định bụng cho chúng tôi thấy hiệu suất cỗ xe trượt của gã. Gã nhấn chân ga mạnh tới mức ống xả ríu rít lên như một cánh đồng đầy chim sơn ca trong mùa hạ. Thế nhưng chẳng ích gì; gã không vượt lên nổi. Như có phép phù thủy. Karl cứ dính chặt lấy gã, xấu xí và khiêm tốn. Gã đàn ông ngạc nhiên nhìn chòng chọc xuống chúng tôi. Gã không hiểu nổi làm sao với tốc độ trên trăm cây số giờ mà cái hòm cổ lỗ bên cạnh gã đây lại không long hết ra. Gã kinh ngạc nhìn vào đồng hồ tốc độ xe gã, làm như nó có thể chỉ sai. Rồi gã thả xe chạy hết tốc lực.
Giờ đây hai chiếc xe sánh vai nhau lao trên con đường nhựa thẳng, dài hun hút. Được vài trăm mét, xuất hiện một chiếc xe tải đi ngược chiều. Chiếc Buick đành lùi lại sau chúng tôi để tránh. Nó chưa kịp lên ngang với Karl thì một chiếc xe tang lướt đến với những tua kết vòng hoa bay bay, chiếc Buick buộc lòng lùi lại lần nữa. Sau đó là khoảng trống trước mặt.
Tới lúc này gã đàn ông bên tay lái đã mất hết vẻ ngạo nghễ; tức giận, môi mím chặt, gã khom mình về phía trước… máu đua xe đã bốc lên trong gã, và đột nhiên danh dự đòi gã buộc gã bằng bất cứ giá nào không được phép tỏ ra hèn kém trước con chó hay sủa nhặng lên đang kè kè bên gã đây. Ngược lại, chúng tôi tỏ vẻ dửng dưng ngồi yên chỗ của mình. Đối với chúng tôi, chiếc Buick như không hề tồn tại. Koester bình thản nhìn con đường, tôi uể oải dõi mắt vào không trung; còn Lenz, mặc dù hết sức căng thẳng, lôi một tờ báo ra và làm ra vẻ như đối với cậu ta ngay lúc này không có gì quan trọng hơn là đọc báo.
Ít phút sau Koster nháy mắt cho chúng tôi. Karl ngầm giảm tốc độ, và chiếc Buick từ từ vượt lên. Những chiếc chắn bùn rộng, bóng loáng của nó sạt qua xe chúng tôi. Ống xả ầm ầm nhả khói xanh vào mặt chúng tôi. Dần dần nó đã bỏ xa chúng tôi quãng hai chục mét… và ở cửa sổ xe đã ló ra bộ mặt của kẻ sở hữu, gã nhe răng cười đắc thắng. Gã chắc mẩm đã được cuộc.
Nhưng gã còn có một hành vi nữa. Gã không thể nén một sự trả thù. Gã vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi cứ việc đuổi theo. Thậm chí gã vẫy một cách đặc biệt hờ hững nắm chắc phần thắng. “Kìa Otto” Lenz nói giọng nhắc nhở.
Nhưng cậu ta chẳng cần phải nhắc. Trong cùng khoảnh khắc, Karl đã vọt lên. Chiếc máy nén khí huýt như tiếng sáo. Và đột nhiên cánh tay vẫy vẫy thò ở cửa xe biến mất… bởi vì Karl đã hưởng ứng sự mời mọc, nó tới. Nó tới thậm chí không gì kìm hãm nổi, lấy lại mọi khoảng cách… và bây giờ, lần đầu tiên chúng tôi để tâm đến chiếc xe lạ. Chúng tôi ngước nhìn gã đàn ông bên tay lái với vẻ dò hỏi trong trắng, như thể chúng tôi rất muốn biết vì cớ gì gã lại vẫy chúng tôi. Thế nhưng gã một mực ngoảnh mặt đi. Bây giờ Karl mới thả hết tốc lực vọt lên, một kẻ lôi thôi lếch thếch thắng trận với toàn thân lấm lem và những chiếc chắn bùn bay rập rờn.
“Cừ đấy, Otto”, Lenz bảo Koester, “tối nay thằng cha sẽ ăn mất ngon”. Những cuộc săn đuổi như thế chính là lý do khiến chúng tôi không thay đổi vỏ ngoài của Karl. Chỉ cần Kart xuất hiện trên đường phố, lập tức có kẻ tìm cách bỏ xa nó. Đối với những chiếc xe khác, nó như một con chim gáy rã cánh trước một lũ mèo đói. Nó cám dỗ những cỗ xe nhà hiền hòa nhất muốn vượt và ngay cả những kẻ rậm râu béo bệu nhất cũng không sao tránh khỏi bốc máu đua xe, một khi thấy cái gầm xe kêu rầm rầm của nó cứ nhảy loi choi trước mặt. Có ai ngờ nổi bên trong cái hình thù nực cười đó đang đập trái tim vĩ đại của một động cơ xe đua!
Lenz khẳng định rằng Karl có tác dụng giáo dục. Nó dạy thiên hạ biết kính trọng sự sáng tạo luôn ẩn mình trong một cái vỏ khiêm nhường. Đó là lời của Lenz, kẻ đã vỗ ngực khẳng định mình là con người lãng mạn cuối cùng.
Chúng tôi dừng bánh trước một quán ăn nhỏ và xuống xe. Chiều đẹp, yên tĩnh. Những luống cày trên các cánh đồng mới xới ánh lên màu tim tím. Còn những bờ ruộng phát sáng sắc nâu và óng vàng. Những đám mây tựa đàn cò lửa khổng lồ sải cánh trên bầu trời xanh màu trái táo, lấp ló sau chúng là lưỡi liềm mỏng manh của vầng trăng đang dần đầy. Một bụi hồ đào dại ôm hoàng hôn và nỗi ngờ vực trong những cánh tay của mình, trơ trụi một cách cảm động, nhưng đã ngập tràn hy vọng chồi non. Từ quán ăn nhỏ bay ra mùi gan rán thơm phức, cả mùi hành phi nữa. Chúng tôi hít căng lồng ngực.
Mùi thơm kéo Lenz đâm bổ vào quán. Cậu ta quay ra, nét mặt rạng rỡ “Các cậu phải tận mắt nhìn những lát khoai tây rán nhé! Nhanh lên, không họ hốc sạch món ngon nhất bây giờ!”
Đúng lúc đó có tiếng một chiếc xe nữa rì rì tiến lại. Cả bọn đứng như trời trồng. Đó là chiếc Buick. Nó đỗ xịch ngay cạnh Karl. “Ái chà!” Lenz nói. Chúng tôi luôn ẩu đả vì những vụ tương tự.
Gã đàn ông xuống xe. Gã cao lớn, nặng nề, khoác một chiếc áo Raglan rộng bằng lông lạc đà nâu. Gã bực tức liếc nhìn Karl, tháo đôi găng tay to sụ màu vàng ra, và bước lại gần.
“Cũng là một mẫu xe hả? Xe của anh ấy?” Gã hỏi Koster lúc ấy đứng gần gã nhất, mặt nhăn nhó chẳng khác gì dưa chuột ngâm dấm.
Cả ba thằng lặng lẽ nhìn gã một lúc. Chắc gã cho chúng tôi là bọn thợ máy diện bộ đồ Chủ nhật đi chơi lậu một chuyến. “Ngài vừa nói gì đó phải không ạ?”, cuối cùng Otto ngờ vực hỏi, cốt dạy cho gã biết lẽ ra gã có thể lịch sự hơn.
Gã đàn ông đỏ mặt. “Tôi hỏi về cái xe này”. Gã không đổi giọng, càu nhàu giải thích.
Lenz uốn thẳng người. Cái mũi to bự của cậu ta rung rung. Cậu ta hết sức đòi hỏi những người khác phải giữ phép lịch sự. Nhưng Lenz chưa kịp mở miệng thì bỗng nhiên, như bởi một bàn tay ma quỷ, cánh cửa thứ hai của chiếc Buick bật mở… một bàn chân nhỏ nhắn thò ra, tiếp theo là cái đầu gối xinh xinh… rồi một cô gái bước xuống, từ tốn đi về phía chúng tôi.
Ba thằng kinh ngạc nhìn nhau. Trước đây chúng tôi không nhận thấy trong xe còn có người nữa. Lenz thay đổi ngay thái độ. Cả gương mặt tàn nhang của cậu ta mỉm cười. Chúng tôi cùng nhất loạt mỉm cười. Có trời biết tại sao.
Gã béo sửng sốt nhìn chúng tôi. Gã trở nên hoài nghi và hình như không còn biết nên làm gì trong tình huống này. “Binding”, cuối cùng gã nói, khẽ nghiêng mình, tuồng như gã có thể tin tưởng vào cái tên của gã.
Lúc này cô thiếu nữ đã đến sát chỗ chúng tôi. Chúng tôi hòa nhã hơn nữa. “Hãy giới thiệu chiếc xe đi, Otto” Lenz nói, mắt đưa nhanh sang Koster. “Sao lại không nhỉ”. Otto trả lời và đáp lại bằng cái nhìn láu lỉnh.
“Thực tình tôi rất muốn xem qua chiếc xe” Binding nói, giọng đã ôn hòa hơn. “Hẳn nó chạy nhanh ghê gớm. Nó đã làm tôi hết cả hơi”.
Hai người đi sang bãi đỗ xe, và Koster nhấc nắp xe lên.
Thiếu nữ không đi cùng. Thanh mảnh và lặng lẽ, nàng đứng bên Lenz và tôi, trong cảnh hoàng hôn. Tôi chắc mẩm Gottfried sẽ tận dụng cơ hội, sẽ bung ra như một trái bom. Cậu ta vốn thích hợp với những tình huống như thế này. Ấy vậy mà tuồng như cậu ta đã quên mất tiếng nói. Thông thường cậu ta có thể gọi mái như một chú gà lôi… thế mà giờ đây cứ đứng đực ra đó chẳng khác nào một vị linh mục thuộc giáo phái Carmel[4] vào giữa kỳ về thăm nhà.
“Mong cô thứ lỗi cho”, cuối cùng tôi lên tiếng “Chúng tôi không thấy cô ngồi trong xe. Nếu thấy chắc chắn chúng tôi chẳng làm bậy như vừa rồi”. Thiếu nữ nhìn tôi. “Nhưng sao lại không nhỉ?”, nàng bình thản đáp, giọng trầm một cách đáng ngạc nhiên. “Điều đó đâu đến nỗi tồi tệ gì”.
“Không tồi tệ, nhưng cũng không hoàn toàn đứng đắn. Xe của chúng tôi chạy quãng hai trăm kilômét một giờ”.
Nàng hơi khom mình về phía trước, tay thọc vào túi áo măng tô. “Hai trăm kilômét kia à?”
“Chính xác là 189,2 kilômét, số ghi chính thức đây”. Lenz kiêu hãnh giảng giải tức khắc chẳng khác gì súng liên thanh.
Nàng cười. “Thế mà chúng tôi tưởng chỉ khoảng sáu bảy chục”.
“Cô thấy đấy…” tôi nói, “dẫu sao cô cũng không thể biết được”.
“Vâng”. Nàng đáp, “Quả thật chúng tôi không thể biết. Chúng tôi cứ ngỡ chiếc Buick phải chạy nhanh gấp đôi xe của các anh”.
“Vâng…” tôi lấy mũi chân đá một cành cây gẫy sang bên “nhưng chúng tôi có một lợi thế quá lớn. Và ông Binding bên ấy hẳn cũng khá tức giận về chúng tôi”.
Nàng cười. “Chắc thế, trong một khoảnh khắc nào đó. Nhưng con người ta cũng phải biết thua; nếu không làm sao sống nổi”.
“Hẳn rồi…”
Một quãng ngừng. Tôi đưa mắt cho Lenz. Nhưng con người lãng mạn cuối cùng ấy chỉ nhếch miệng cười, phập phồng cánh mũi và bỏ mặc tôi. Những cây bạch dương xào xạc. Một con gà mái quang quác sau nhà.
“Thời tiết kỳ diệu”, cuối cùng tôi nói nhằm phá vỡ sự im lặng.
“Vâng, đẹp tuyệt”, thiếu nữ đáp.
“Và đến là ôn hòa”, Lenz thêm.
“Thậm chí ôn hòa khác thường”, tôi bổ sung.
Lại một quãng ngừng mới. Cô thiếu nữ hẳn phải xem chúng tôi là những cái đầu cừu khá ngu ngốc. Nhưng mặc dù muốn lắm, tôi cũng không moi nổi một ý nào nữa. Lenz hểnh mũi hít quanh. “Táo hầm” cậu ta nói đầy cảm xúc, “hình như người ta cho cả táo hầm vào món gan. Một món ăn ngon lành”.
“Đương nhiên rồi”, tôi hưởng ứng và nguyền rủa hai thằng bạn tôi.
Koster và Binding quay trở lại. Sau có ít phút mà Binding đã trở thành một người khác hẳn. Ông ta có cái vẻ hoàn toàn mãn nguyện của những kẻ say mê ô-tô khi vớ được ở đâu đó một tay sành sỏi để có thể cùng trò chuyện.
“Chúng ta cùng ăn với nhau chứ?” ông ta mời “Lẽ dĩ nhiên”, Lenz đáp. Chúng tôi vào quán. Bước qua của, Gottfried nháy mắt với tôi và hất hàm về phía
— Này cậu, cô nàng mười lần ăn đứt mụ già nghiêng ngả ban sáng…”
Tôi nhún vai “Có thể… nhưng tại sao cậu lại bỏ mặc mình ấp a ấp úng như vậy?”
Cậu ta cười “Cũng phải học cái ấy lấy một lần, bé yêu ơi!”
“Nhưng mình chẳng còn hứng học hiếc gì sất”, tôi nói.
Chúng tôi theo chân những người kia. Họ đã ngồi vào bàn. Bà chủ quán vừa vặn bưng ra món gan và khoai tây rán. Bà ta còn đưa ra một chai lớn rượu mạnh cất từ lúa mì để khai vị.
Binding tỏ ra là một nhà diễn thuyết, lời lẽ luôn như thác nước. Kiến thức của ông ta về động cơ ô-tô phong phú tới mức đáng kinh ngạc. Khi nghe Otto đã từng lái cả xe đua nữa thì mối thiện cảm của ông ta đối với Otto hầu như không còn biết tới giới hạn.
Tôi ngắm ông ta kỹ hơn. Đó là một người đàn ông cao lớn, nặng nề với cặp lông mày rậm trên một gương mặt đỏ đắn, ít nhiều khoe khoang, ít nhiều ồn ào, và hình như tốt bụng, giống như hết thảy những ai thành đạt trong cuộc sống. Tôi có thể hình dung tối tối trước khi đi ngủ ông ta vẫn tự ngắm mình trong gương một cách nghiêm nghị, đầy phẩm giá và trịnh trọng.
Thiếu nữ ngồi giữa Lenz và tôi. Nàng đã cởi bỏ áo măng-tô, bên trong là một bộ trang phục Anh màu xám. Cổ nàng thắt một chiếc khăn trắng trông như cà vạt của kỵ sĩ. Tóc nàng màu nâu, óng như tơ, lấp lánh màu hổ phách dưới ánh đèn. Vai nàng rất phẳng, nhưng hơi nhô ra phía trước, đôi bàn tay nhỏ nhắn, ngón quá dài, và có vẻ hơi xương xương hơn là mềm mại. Gương mặt nàng nhỏ, xanh xao, nhưng cặp mắt to đã cho nó một sức mạnh gần như nồng nhiệt. Theo tôi thì nàng rất xinh… nhưng ngoài điều đó ra tôi không nghĩ gì hơn.
Ngược lại giờ đây Lenz hết sức hứng khỏi. Cậu ta đã biến đổi hoàn toàn so với khi nãy. Chỏm tóc vàng của cậu ta sáng lóe như mào một con chim đầu rìu. Trong đầu cậu ta, những ý nghĩ thi nhau nảy ra như hào hoa và cậu ta cùng với Binding chế ngự cả bàn. Tôi lép vế ngồi đây và chỉ có thể gây được rất ít sự chú ý, nhiều lắm là một lần đưa liễn súp hay mời thuốc lá. Và chạm cốc với Binding nữa. Chạm cốc khá thường xuyên.
Bỗng nhiên Lenz vỗ tay lên trán: “Chai rum! Robby, ra lấy chai rum sinh nhật của chúng ta vào đây!”
“Sinh nhật à? Một người nào trong các anh có sinh nhật chăng?”, cô gái hỏi.
“Tôi”, tôi nói, “vì nó tôi đã bị họ đeo đẳng suốt ngày hôm nay”.
“Đeo đẳng ư? Vậy có nghĩa anh không muốn người ta chúc mừng anh chứ gì?”
“Có chứ”, tôi nói, “chúc mừng lại là một chuyện khác”.
“Vậy xin chúc anh mọi điều tốt đẹp!”
Trong một khoảnh khắc tôi nắm bàn tay nàng trong bàn tay tôi và cảm thấy cái xiết tay khô ấm của nàng. Đoạn tôi đi ra ngoài lấy chai rum.
Đêm mênh mông và câm lặng trùm lên căn nhà nhỏ. Những chiếc ghế da trong xe chúng tôi ẩm sương. Tôi đứng lại nhìn về phía chân trời, nơi ánh sáng đỏ của thành phố hắt lên. Lẽ ra tôi còn muốn nấn ná ở ngoài này thêm nữa, nhưng đã nghe tiếng Lenz gọi.
Binding không chịu được rum. Chỉ sau cốc thứ hai là thấy ngay, ông ta lảo đảo bước ra vườn. Tôi đứng dậy, cùng Lenz lại bên quầy rượu. Cậu ta gọi một chai gin. “Một cô gái tuyệt vời, hả?” cậu ta nói.
“Mình không biết, Gottfried, ạ”, tôi đáp “Mình chẳng chú ý đến điều đó lắm”.
Lenz ngắm tôi một lát với cặp mắt xanh lấp lánh sắc cầu vồng của cậu ta, đoạn lắc cái đầu vàng rực. “Nói xem, bé yêu, thật ra cậu sống để làm gì hở?”
“Mình cũng đã tự hỏi từ lâu”.
Cậu ta cười “Khôn thế! Nhưng không phải với ai cũng dễ dàng vậy đâu. Còn bây giờ trước hết mình phải moi thử xem cô gái có quan hệ thế nào với cái cuốn cataloge ô-tô dày cộp ngoài kia”.
Cậu ta theo Binding ra vườn. Sau ít phút, hai người cùng trở lại quầy rượu. Tin tức hẳn phải tốt đẹp; bởi Gottfried, người giờ đây hình như biết mình không bị ngáng đường, đang sôi nổi bám riết lấy Binding trong niềm hân hoan rạng rỡ. Hai người lấy chai gin và một giờ sau đã cậu cậu tớ tớ với nhau, khi vui vẻ, Lenz luôn có một cái gì đó lôi cuốn khiến người khác khó lòng cưỡng lại. Bản thân cậu ta cũng không cưỡng nổi mình. Giờ đây cậu ta đang nhấn chìm Binding trong rượu và liền đó cả hai đã cùng nghêu ngao những bài hát lính tráng ở ngoài vườn. Con người lãng mạn cuối cùng đã quên phắt cô gái.
Còn lại ba chúng tôi trong quán ăn. Không khí đột nhiên hết sức yên ắng. Chiếc đồng hồ bằng gỗ mun kêu tích tắc. Bà chủ quán thu dọn bát đĩa và nhìn xuống chúng tôi với ánh mắt của người mẹ, một con chó săn màu nâu nằm duỗi mình bên lò sưởi. Thỉnh thoảng nó lại sủa trong giấc ngủ, khe khẽ, ăng ẳng và rền rĩ. Bên ngoài gió lướt qua cửa sổ. Tiếng gió bị át bởi cái thứ bài hát lính giẻ rách, và tôi có cảm giác căn buồng nhỏ dường như tự nâng bổng lên, cùng với chúng tôi bay lững lờ xuyên màn đêm, xuyên năm tháng, lướt qua bao kỷ niệm.
Một trạng thái kỳ lạ. Thời gian như đã mất hiệu lực… nó không còn là một dòng sông bắt nguồn từ tăm tối và tìm về tăm tối… nó là một cái hồ trong đó cuộc sống lặng lẽ soi bóng. Tôi nắm trong tay ly rượu của mình. Rượu rum sáng lấp lánh. Tôi nghĩ đến mảnh giấy mình đã viết ban sáng ở xưởng. Tôi đã buồn ít nhiều. Giờ đây tôi không còn buồn nữa. Tất cả thế nào cũng được miễn người ta còn sống. Tôi nhìn Koster. Tôi nghe cậu ta trò chuyện với cô gái nhưng tôi không để ý họ nói gì. Tôi cảm thấy vẻ rực rỡ êm dịu của tình trạng chớm say, nó sưởi ấm dòng máu, và tôi yêu nó bởi thông qua sự mơ mơ mang màng nó cho ta sắc thái phiêu lưu. Ngoài kia Lenz và Binding đang gào bài ca về rừng Argonner. Còn bên cạnh tôi, cô gái không quen biết đang nói, nàng nói khẽ và từ tốn, với cái giọng trầm đục, gợi cảm và hơi khàn khàn ấy. Tôi uống cạn cốc rượu của mình. Hai người kia lại quay vào. Không khí trong lành đã khiến họ tỉnh táo hơn.
Chúng tôi đứng đậy. Tôi giúp cô gái mặc áo măng-tô. Nàng đứng sát trước tôi, vươn vai một cách mềm mại, đầu hơi ngả về phía sau miệng hé mở, nhìn trần nở một nụ cười bâng quơ. Tôi buông thõng chiếc măng-tô trong một khoảnh khắc. Mắt tôi để đâu suốt thời gian vừa rồi? Tôi đã ngủ chăng? Tôi bỗng hiểu nỗi phấn khích của Lenz.
Nàng quay người vẻ dò hỏi. Tôi giương vội chiếc măng-tô lên và ngó sang Binding. Mặt đỏ như trái anh đào, vẫn ít nhiều đờ đẫn, ông ta đứng cạnh bàn “Cô cho rằng ông ta vẫn lái xe được chăng?”, tôi hỏi.
“Tôi tin thể”…
Tôi vẫn không thôi nhìn nàng “Nếu ông ta không đủ tỉnh táo, một người trong chúng tôi có thể đi cùng xe cô”.
Nàng lôi hộp phấn của mình ra và mở nắp. “Sẽ đâu vào đấy cả thôi”, nàng nói, “khi say, ông ấy lái tốt hơn nhiều”.
“Tốt hơn và có lẽ cũng ẩu hơn”, tôi đáp.
Nàng nhìn tôi qua mép chiếc gương nhỏ của nàng.
“Hy vọng rằng sẽ ổn”, tôi nói, có hơi cường điệu một chút vì Binding đứng khá vững trên đôi chân của mình. Nhưng tôi muốn làm một cái gì đó. Cốt sao nàng đừng bỏ đi.
“Cô cho phép tôi sáng mai gọi điện tới nhà cô hỏi thăm chuyến đi ra sao chứ?” tôi hỏi.
Nàng không trả lời ngay. “Với trò nhậu nhẹt của mình, dẫu sao chúng tôi cũng có trách nhiệm phần nào”, tôi tiếp. “Nhất là tôi, với chai rum sinh nhật của mình”.
Nàng cười. “Vâng được ạ, nếu anh muốn. Phía Tây 2796”.
Ra khỏi quán tôi ghi lại ngay số điện. Chúng tôi nhìn xe Binding lăn bánh, rồi cạn thêm ly cuối cùng. Sau đó chúng tôi cho Karl rú máy. Nó lướt qua đám sương mù tháng Ba mỏng manh, chúng tôi thở gấp, thành phố xích lại gần trước mắt chúng tôi, đỏ rực và đung đưa trong sương mù; và từ làn hơi nước, tiệm rượu của Freddi như một con tàu sặc sỡ được chiếu sáng nhô lên. Chúng tôi cùng Karl đến trước mỏ neo. Rượu cognac rót ra vàng óng, rượu gin lóng lánh như ngọc xanh màu nước biển và rượu rum chính là cuộc đời. Chúng tôi ngồi lì lợm trên những chiếc ghế kê trong tiệm, âm nhạc ướt át, sự tồn tại thật sáng sủa và mạnh mẽ; rượu chảy ào qua lồng ngực chúng tôi, chúng tôi quên đi nỗi phiền muộn trong những gian buồng cho thuê trống trải, quên đi nỗi tuyệt vọng của sự hiện tồn, quầy rượu trong tiệm là buồng chỉ huy con tàu, và chúng tôi ồn ào lướt sóng vào tương lai.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.