Biên niên ký Chim vặn dây cót
39 Tạm biệt ♦
– Tiếc là em không thể chỉ cho anh xem dân vịt. Chim vặn dây cót à, – Kasahara May có vẻ tiếc rẻ rất thành thực.
Cô và tôi đang ngồi trên bờ, nhìn mặt hồ đóng lớp băng dày. Đó là một cái hồ lớn, trên mặt băng có hàng ngàn vết cắt nhỏ vì đế giày trượt. Kasahara May đã xin nghỉ phép sáng thứ Hai hôm nay chỉ vì tôi. Tôi đã định đến thăm cô vào Chủ nhật, nhưng vì có tai nạn tàu hỏa nên tôi bị trễ mất một ngày. Kasahara May quấn mình kín mít trong áo lót lông. Chiếc mũ len màu xanh nhạt của cô thêu hoa văn hình học bằng sợi len trắng, trên chỏm có quả cầu tròn nho nhỏ. Cô đã tự đan chiếc mũ đó cho mình, cô bảo mùa đông sang năm cô sẽ đan một chiếc y như thế cho tôi. Má cô đỏ hây hây, mắt cô ngời sáng trong trẻo như bầu không khí xunh quanh, khiến tôi thấy thật sung sướng: dù sao đi nữa cô chỉ mới mười bảy tuổi, cô còn có thể thay đổi đến vô cùng.
– Từ khi hồ đóng băng kín thì dân vịt chuyển đi chỗ khác hết rồi. Nếu anh gặp thì nhất định anh cũng sẽ yêu chúng ngay. Mùa xuân này anh trở lại nhé? Em sẽ giới thiệu anh với chúng.
Tôi mỉm cười. Tôi mặc một chiếc áo khóa len không ấm lắm, quấn khăn quàng kín tận má, tay thọc vào túi áo. Trong rừng lạnh căm căm. Tuyết cứng như đá phủ đầy mặt đất. Đôi giày thể thao của tôi cứ trượt luôn. Lẽ ra tôi phải mua từ trước một đôi giày cao cổ chống trược dành riêng cho chuyến đi này.
– Vậy là em định sẽ ở lại đây lâu hơn phải không? – Tôi hỏi.
– Chắc vậy. Có thể sau một thời gian nữa em sẽ về đi học lại. Mà cũng có thể không. Em chả biết nữa. Cũng có khi em đi lấy chồng không chừng… mà cũng không chắc. – Cô mỉm cười, thở ra một làn hơi trắng. – Nhưng dù gì, em cũng ở lại đây ít lâu nữa. Em cần thêm thời gian để suy nghĩ. Nghĩ xem em muốn làm gì, em muốn đi đâu. Em cần có thì giờ để nghĩ về những chuyện đó.
Tôi gật đầu: – Có lẽ em cần phải làm vậy thật.
– Này Chim vặn dây cót, hồi bằng tuổi em, anh có hai nghĩ về những chuyện như thế không?
– Hừm. Chắc là không. Chắc anh cũng có nghĩ tới mấy chuyện đó một chút, nhưng nếu nghĩ một cách nghiêm túc như em thì không… anh nhớ là không. Chắc là hồi đó anh nghĩ nếu mình cứ bình thường mà sống thì mọi chuyện tự nó sẽ ổn thôi. Nhưng kết cục lại chẳng như vậy, phải không? Thật đáng tiếc.
Cô nhìn thẳng vào mắt tôi, khuôn mặt cô bình thản. Rồi cô đặt đôi găng tay lên lòng mình, chiếc nọ chồng lên chiếc kia.
– Vậy là rốt cuộc người ta sẽ không thả Kumiko ra à? – Cô hỏi.
– Cô ấy không chịu ra tại ngoại, – tôi nói. – Cô ấy sợ nếu ra ngoài thì sẽ bị đám đông quây lấy, không cho cô ấy yên. Chẳng thà cứ ở trong tù, được tĩnh lặng bình an. Thậm chí cô ấy cũng không muốn gặp anh nữa. Cô ấy không muốn gặp ai hết, chừng nào mọi việc chưa giải quyết xong.
– Bao giờ phiên tòa bắt đầu?
– Đâu như vào mùa xuân, Kumiko nhận tội. Cô ấy sẽ chấp nhận phán quyết của tòa, dù tòa quyết định thế nào đi nữa. Phần xét xử chắc sẽ không kéo dài đâu. Có nhiều khả năng cô ấy sẽ được hưởng án treo, cùng lắm thì cũng xử nhẹ thôi.
Kasahara May nhặt một hòn đá dưới chân ném ra giữa hồ. Hòn đá rơi đánh cạch xuống mặt băng rồi văng sang phía bên kia.
– Còn anh Chim vặn dây cót, anh lại sẽ ở nhà đợi chị Kumiko chứ?
Tôi gật đầu.
– Thế cũng tốt nhỉ… có tốt không?
Tôi thở một cụm mây trắng lớn vào bầu không khí lạnh.
– Anh không biết, chắc là chính bọn anh đẩy mọi chuyện đến chỗ này thôi.
Kết cục có khi còn tệ hơn nhiều ấy chứ, tôi tự nhủ.
Đằng xa, trong khu rừng bao quanh hồ, một con chim cất tiếng kêu. Tôi ngẩng lên nhìn khắp xung quanh, nhưng chẳng còn nghe thấy gì nữa. Chẳng thấy gì nữa. Chỉ có âm thanh khô khốc, rỗng không cửa một con chim gõ kiến đang khoan lỗ vào thân cây.
– Nếu Kumiko và anh có con, anh chắc sẽ đặt tên nó là Corsia, – tôi nói.
– Tên hay quá, – Kasahara May nói.
° ° °
Khi hai chúng tôi đi bên nhau xuyên qua khu rừng, Kasahara May tháo găng tay bên phải rồi đút tay vào túi áo khoác của tôi. Điều đó làm tôi nhớ lại Kumiko. Nàng cũng hay làm như vậy những khi chúng tôi cùng đi bên nhau vào mùa đông, để cả hai có thể dùng chung một cái túi áo trong những ngày lạnh giá. Tôi nắm bàn tay Kasahara May trong túi áo tôi. Đó là bàn tay bé nhỏ, ấm như một linh hồn ẩn dật.
– Này Chim vặn dây cót, chắc ai người ta cũng nghĩ mình là đôi tình nhân đấy.
– Có lẽ em nói đúng.
– Thế thì anh có đọc hết thư của em không đấy?
– Thử của em á? – Tôi hoàn toàn không hiểu cô đang nói đến chuyện gì. – Anh xin lỗi, anh chẳng hề nhận được thư từ nào của em hết. Anh phải hỏi mẹ em mới có địa chỉ và số phone của em. Cũng chẳng dễ đâu, anh đã phải bịa một chút đấy.
– Ôi không! Thế thì thư em đi đâu hết rồi? Em viết cho anh dễ đến năm trăm bức là ít! – Kasahara May nhìn lên trời.
° ° °
Chiều muộn ngày hôm đó, Kasahara May tiễn tôi ra ga. Hai chúng tôi đáp xe buýt vào thị trấn, ăn bánh pizza ở một nhà hàng gần ga, sau đó đợi đoàn tàu bé tí vỏn vẹn ba toa chạy bằng dầu diesel rốt cuộc cũng bò tới. Hai ba người đứng quanh chiếc lò sưởi to đốt bằng củi đỏ rực giữa phòng đợi, nhưng hai chúng tôi thì đứng ngoài sân ga giữa trời lạnh. Một vần trăng mùa đông rõ ràng, sắc cạnh đông cứng trên bầu trời. Đó là vầng trăng non, với đường cong sắc nét như một thanh gươm Trung Hoa. Dưới vầng trăng ấy, Kasahara May nhón chân hôn lên cổ tôi. Tôi cảm thấy đôi môi mỏng, lạnh của cô chạm vào chỗ trước kia có vết bầm.
– Tạm biệt, Chim vặn dây cót, – cô thì thầm. – Cám ơn anh đã đi ngần ấy đường để đến thăm em.
Hai tay thọc sâu trong túi áo khoác, tôi nhìn vào mắt cô. Tôi chẳng biết nói gì.
Khi tàu đến, cô cởi mũ ra, lùi lại một bước rồi nói với tôi:
– Nếu có chuyện gì xảy ra với anh, chỉ cần gọi em cho to vào. Chim vặn dây cót nhé? Gọi em và gọi dân vịt.
– Tạm biệt, Kasahara May, – tôi nói.
° ° °
Vòng cung trăng vẫn treo trên đầu tôi mãi sau khi tàu đã rời ga, xuất hiện rồi lại biến mất mỗi khi tàu vào một khúc quanh. Tôi dán mắt vào vầng trăng, và mỗi khi nó biến khỏi tầm nhìn, tôi ngắm ánh đèn những thị trấn nhỏ lướt qua cửa sổ. Tôi nghĩ đến Kasahara May, đội chiếc mũ len màu xanh dương, đang ngồi một mình trên xe buýt quay về nhà máy ở trên đồi. Đoạn tôi nghĩ về dân vịt đang thiu thiu ngủ ở đâu đó trong bóng cỏ. Cuối cùng tôi nghĩ về cái thế giới, nơi tôi đang quay về.
– Tạm biệt, Kasahara May, – tôi nói. Tạm biệt, Kasahara May: cầu chúc cho luôn luôn có một cái gì đó trông chừng bảo vệ em.
Tôi nhắm mắt lại cố ngủ. Nhưng mãi rất lâu sau tôi mới thực sự ngủ được. Ở một nơi xa cách bất kỳ ai hay bất cứ nơi đâu, tôi mơ màng thiếp đi một lát.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.