Đã năm tiếng đồng hồ trôi qua kể từ thời điểm xảy ra vụ tấn công và sự căng thẳng mỗi lúc một tăng trong ngôi nhà của Rhyme. Chưa manh mối nào đưa đến kết quả.
“Sợi dây điện.” Anh quát với giọng cấp bách. “Nó ở đâu chui ra?”
Cooper lại đẩy cặp kính dày cộp lên mũi. Anh ta đeo găng khám nghiệm bằng cao su, nhưng trước khi sờ vào vật chứng anh ta còn dùng con lăn lăn hết một lượt đôi bàn tay đã đeo găng, rồi lột lớp dính ngoài cùng của con lăn vứt đi.
Sử dụng kéo phẫu thuật, Cooper cắt tấm nhựa bọc, làm lộ ra sợi dây điện. Nó dài khoảng bốn mét rưỡi, phần lớn nằm bên trong lớp cách điện. Bản thân sợi dây không phải là sợi đặc, mà gồm nhiều sợi nhỏ màu bạc. Một đầu đấu với bản đồng thau dày, cháy sém. Đầu kia bắt với hai bu lông bằng đồng đỏ, rỗng giữa.
“Theo tay công nhân Algonquin, chúng được gọi là bu lông có chốt hãm.” Sachs nói. “Người ta sử dụng chúng để ghép dây điện. Và hắn sử dụng chúng để đấu sợi cáp với đường dây chính”.
Rồi cô giải thích cách hắn dòng bản đồng ra bên ngoài cửa sổ – người công nhân bảo nó được gọi là lõi dẫn điện. Nó được đấu với sợi cáp bằng hai bu lông cỡ nửa centimet. Tia hồ quang phóng từ bản đồng sang vật tiếp đất gần nhất, cây cột.
Rhyme liếc nhìn ngón tay cái của Sachs, nó xước xát và bám một chút máu khô đen. Cô có xu hướng gặm móng tay, cào vào những ngón tay và da đầu. Căng thẳng tích tụ trong cô giống như điện áp ở các trạm điện của công ty Algonquin. Cô lại cào vào ngón tay cái và – như thể để buộc mình dừng hành động ấy lại – cô xỏ đôi găng tay cao su vào.
Lon Sellitto nói chuyện điện thoại với các cảnh sát đang đi dọc phố Năm mươi bảy để tìm kiếm nhân chứng. Rhyme thoáng nhìn anh ta dò hỏi nhưng vẻ cau có của anh ta – trầm trọng hơn vẻ cau có bình thường hay tô điểm cho nét mặt của viên trung úy – nói lên rằng các nỗ lực đến hiện tại vẫn chưa có kết quả. Rhyme lại chú ý đến sợi dây điện.
“Quét camera qua nó đi, Mel.” Rhyme bảo. “Từ từ thôi.”
Sử dụng một thiết bị video cầm tay, người kỹ thuật viên quét qua sợi dây điện từ đầu tới cuối, rồi lật lại, quét ngược lại lần nữa. Hình ảnh được phát với độ nét cao lên màn hình lớn trước mặt Rhyme. Anh nhìn chăm chú.
Rồi anh lẩm bẩm, “Nhà máy sản xuất linh kiện điện Bennington, Nam Chicago, Illinois. Model AM-MV-60. Dây cỡ 0 (tương đương đường kính khoảng 8,251mm), chịu được dòng điện lên tới sáu mươi nghìn volt.”
Pulaski cười thành tiếng. “Lincoln, sếp biết những thông tin ấy ạ? Sếp đã tìm hiểu về dây điện ở đâu vậy?”
“In trên dây đấy, cậu tân binh.”
“Ồ. Tôi không để ý.”
“Hiển nhiên rồi. Và thủ phạm của chúng ta đã cắt một đoạn dài bằng ngần này, Mel ạ. Anh nghĩ thế nào? Không phải cắt máy.”
“Tôi đồng ý.” Sử dụng kính lúp, Cooper đang xem xét đầu cáp được đấu với đường dây của trạm điện. Rồi anh ta tập trung hình ảnh vào hai mặt cắt. “Amelia?”
Thợ cơ khí tại gia của họ xem xét nó, “Cưa tay kim loại.” Cô phát biểu ý kiến.
Hóa ra bu lông có chốt hãm được sử dụng riêng trong ngành điện, nhưng lại có tới hàng chục xuất xứ.
Hai bu lông bắt sợi dây điện với bản đóng cũng là loại tương tự.
“Lập bảng chứng cứ đi.” Rhyme bảo.
Pulaski lăn mấy tấm bảng trắng từ góc phòng thí nghiệm ra. Phía trên cùng một tấm bảng, Sachs viết: Hiện trường Vụ án: Trạm Manhattan-10 công ty Algonquin, phố Năm mươi bảy mạn Tây. Trên một tấm bảng khác là Hồ sơ Đối tượng chưa xác định. Cô viết những gì họ đã phát hiện được cho tới lúc bấy giờ.
“Hắn đã lấy sợi dây ở trạm điện chăng?” Rhyme hỏi.
“Không. Không có dây dự trữ ở đấy”. Chàng cảnh sát trẻ nói.
“Thế thì hãy tìm hiểu xem hắn lấy nó ở đâu. Hãy gọi cho nhà máy Bennington.”
“Rõ.”
“Được rồi.” Rhyme tiếp tục. “Chúng ta có sợi dây kim loại và ốc vít. Điều đó có nghĩa là có dấu vết dụng cụ để lái. Một chiếc cưa kim loại. Hãy xem kỹ sợi dây nào!”.
Cooper chuyển sang một kính hiển vi soi vật thể lớn, cũng kết nối với máy tính, xem xét vết cắt ở đầu sợi dây. Anh ta sử dụng độ phóng đại thấp. “Lưỡi cưa mới, sắc”.
Rhyme liếc ánh mắt ghen tỵ về phía đôi bàn tay khéo léo của người kỹ thuật viên đang chỉnh tiêu cự và bàn soi kính hiển vi. Rồi anh quay lại nhìn màn hình. “Phải, mới, nhưng gãy mất một răng.”
“Gần tay cầm.”
“Phải”. Trước khi cưa, thông thường người ta tì lưỡi cưa lên vật định cưa ba, bốn lần. Hành động này, nhất là với chất liệu nhôm mềm như sợi dây điện kia, có thể cho thấy những răng cưa bị gãy hay bị cong, hay các đặc điểm riêng biệt khác, giúp liên hệ dụng cụ tìm thấy trong đồ đạc của thủ phạm với dụng cụ được dùng để thực hiện tội ác.
“Nào, tới mấy cái bu lông có chốt hãm.”
Cooper phát hiện được những vết xước đặc biệt trên tất cả mấy cái bu lông, và đưa ra giả thiết là những vết xước đó do chiếc cờ lê của thủ phạm để lại.
“Tôi mê chất đồng thau mềm.” Rhyme lẩm bẩm. “Quả là tôi mê… Vậy hắn có những dụng cụ thân thuộc. Càng lúc càng thấy rõ hắn là kẻ trong ngành”.
Sellitto gác điện thoại. “Chẳng có gì sất. Có lẽ là một người nào đó đã trông thấy một người nào đó mặc bộ đồng phục quần yếm màu xanh lam. Nhưng chắc phải là một tiếng đồng hồ sau khi vụ việc xảy ra. Lúc ấy thì cả khối phố chết tiệt đang nhan nhản công nhân sửa chữa của Algonquin rồi, ai chả mặc bộ đồng phục quần yếm màu xanh lam chết tiệt đó.”
“Cậu tìm hiểu được gì rồi, hả cậu tân binh?” Rhyme hỏi giật giọng. “Tôi muốn có nguồn gốc sợi dây điện.”
“Tôi đang giữ máy chờ trả lời.”
“Bảo họ cậu là cớm.”
“Tôi đã bảo rồi.”
“Bảo họ cậu là sếp. Sếp trưởng”.
“Tôi…”
Nhưng Rhyme đã chú ý tới thứ khác: Những thanh sắt được đan thành lưới sắt chắn lối vào đường hầm đặt ống kỹ thuật.
“Hắn cắt nó bằng cách nào, Mel?”
Quan sát kỹ lưỡng thì thấy thủ phạm không dùng cưa kim loại mà dùng kéo cắt bu lông.
Cooper kiểm tra đầu mút các thanh sắt qua một kính hiển vi lắp camera kỹ thuật số và chụp ảnh. Anh ta truyền hình ảnh sang máy tính trung tâm, rồi tập hợp lại trên một màn hình.
“Có dấu vết gì đặc biệt không?” Rhyme hỏi. Giống chiếc răng gãy ở lưỡi cưa hay những vết xước trên bu lông và đai ốc, bất cứ dấu vết khác thường nào cũng đều giúp kết nối chủ nhân của nó với hiện trường gây án.
“Dấu vết kia thì sao?” Cooper hỏi, chỉ lên màn hình.
Có vết xước hình lưỡi liềm bé tí tẹo gần như cùng vị trí trên mặt cắt của một số thanh sắt. “Cái đó sẽ hữu ích. Tốt.”
Rồi Pulaski nghênh nghênh đầu, sẵn sàng cây bút khi một người nào đấy ở nhà máy linh kiện điện Bennington nhấc ống nghe, nói chuyện với chàng cảnh sát trẻ hiện trong tư cách mới là ông trùm Sở Cảnh sát New York.
Sau cuộc trao đổi ngắn gọn, cậu ta gác máy.
“Thông tin chết tiệt về sợi cáp thế nào, Pulaski?”
“Trước hết, phải nói rằng mẫu đó rất phổ biến. Họ..
“Phổ biến thế nào?”
“Họ bán hàng trăm nghìn mét mỗi năm. Nó chủ yếu được dùng trong phân phối điện áp trung bình.”
“Sáu mươi nghìn volt là điện áp trung bình à?”
“Tôi đoán vậy. Người ta có thể mua từ bất cứ nhà bán buôn thiết bị điện nào. Nhưng ông ta cũng nói Algonquin vốn vẫn mua với số lượng lớn.”
Sellitto hỏi, “Bộ phận nào ở đó chịu trách nhiệm đặt mua?”
“Bộ phận Thiết bị Kỹ thuật.”
“Tôi sẽ gọi điện cho họ.” Sellitto nói. Anh ta gọi và trao đổi vắn tắt, xong kết thúc cuộc điện thoại. “Họ sẽ kiểm tra xem hàng hóa trong kho có mất mát gì không”.
Rhyme nhìn đăm đăm mảng lưới sắt. “Vậy là hắn chui qua cống, rồi qua đường hầm kia để vào trạm điện của Algonquin.”
Sachs nói, “Có thể hắn đang làm gì đó dưới cống dẫn hơi nước và trông thấy lưới sắt chắn dầu đường hầm.”
“Dứt khoát phải nghĩ đến giả thiết hắn là người của công ty điện lực.” Rhyme hy vọng rằng giả thiết này đúng. Những đối tượng trong nội bộ khiến công việc của cảnh sát dễ dàng hơn nhiều. “Tiếp tục đi. Các dấu giày.”
Sachs nói, “Có các dấu giày cao cổ tương tự nhau ở cả đường hầm đặt ống kỹ thuật lẫn bên trong trạm điện, gần vị trí sợi dây được đấu nối.”
“Có dấu giày nào từ tiệm cà phê không?”
“Dấu giày kia.” Pulaski đáp, chỉ một bản in tĩnh điện. “Dưới gầm bàn. Tôi trông có vẻ cùng nhãn hiệu.”
Mel Cooper xem xét và đồng tình. Chàng cảnh sát trẻ tiếp tục, “Và Amelia đã bảo tôi kiểm tra giày cao cổ của các công nhân Algonquin đang có mặt tại đó. Tất cả đều khác.”
Rhyme hướng sự chú ý sang chiếc giày. “Anh cho là nhãn hiệu gì, Mel?”.
Cooper đang chạy cơ sở dữ liệu về giày dép của Sở Cảnh sát New York, lưu trữ hàng nghìn mẫu giày thấp và cao cổ, đại đa số của đàn ông. Trong hầu hết các vụ án nghiêm trọng liên quan tới sự có mặt của thủ phạm tại hiện trường, thủ phạm đều là nam giới.
Cách đây nhiều năm, Rhyme đã có công xây dựng cơ sở dữ liệu mở rộng về giày. Anh đạt được những thỏa thuận tự nguyện với tất cả các hãng sản xuất lớn, để họ định kỳ gửi hình ảnh scan các mặt hàng của mình cho Sở Cảnh sát New York.
Cooper lướt những ngón tay trên bàn phím và nói, “Tìm thấy mẫu phù hợp. Hãng sản xuất găng tay và giày cao cổ Alberton-Fenwick. Mẫu E-20” Anh ta chăm chú đọc thông tin trên màn hình “Không có gì đáng ngạc nhiên, loại này cách điện đặc biệt tốt. Dành cho những người thường xuyên tiếp xúc với các nguồn điện. Đạt tiêu chuẩn An toàn về điện F2413-Q5 của Hiệp hội Kiểm thử và vật liệu Mỹ. Những chiếc giày này cỡ mười một.”
Rhyme nheo mắt nhìn. “Rãnh đế sâu. Tốt.” Điều đó có nghĩa chúng bám nhiều vật chất có thể để lại dấu vết.
Cooper tiếp tục, “Chúng còn khá mới nên không mang những dấu vết riêng biệt để chúng ta biết được nhiều thông tin về chiều cao cân nặng và các đặc điểm khác của hắn.”
“Tuy nhiên, tôi có thể bảo rằng hắn bước đi thẳng thớm. Đồng ý chứ?” Rhyme đang nhìn những dấu giày trên màn hình, chiếu từ một chiếc camera chĩa xuống bàn khám nghiệm.
“Đồng ý.”
Sachs viết điều này lên bảng.
“Tốt đấy, Sachs. Bây giờ, cậu tân binh, chứng cứ vô hình cậu phát hiện được là gì?” Rhyme nhìn chiếc phong bì nhựa ghi: Tiệm cà phê đối diện địa điểm diễn ra vụ nổ – Bàn đối tượng ngồi.
Cooper đang xem xét nó. “Tóc vàng. Dài hai centimet rưỡi. Tự nhiên, không nhuộm.”
Rhyme mê sử dụng tóc làm công cụ khám nghiệm. Nó có thể được sử dụng làm mẫu thử ADN – nếu còn chân – và có thể tiết lộ nhiều điều về hình dáng bề ngoài của đối tượng, thông qua màu tóc, chất tóc và hình dạng sợi tóc. Độ tuổi và giới tính cũng có thể ước lượng chính xác được phần nào. Xét nghiệm tóc càng ngày càng trở nên phổ biến trong lĩnh vực pháp y vì tóc lưu dấu vết ma túy lâu hơn máu hoặc nước tiểu. Một đoạn tóc chỉ chừng hai đốt ngón tay có thể lưu lịch sử sử dụng ma túy tới hai tháng. Ở Anh, người ta thường dùng tóc để xét nghiệm lạm dụng chất cồn.
“Chúng ta chưa chắc chắn đây là tóc hắn mà.” Sellitto nêu ý kiến.
“Tất nhiên.” Rhyme lẩm bẩm. “Chúng ta chưa chắc chắn bất cứ điều gì tại thời điểm này cả.”
Nhưng Pulaski nói, “Dù sao, cũng có khả năng. Tôi đã trao đổi với chủ tiệm. Ông ta yêu cầu những người bồi bàn nhất nhất phải lau bàn mỗi lúc khách đứng lên. Tôi kiểm tra rồi. Vì vụ nổ xảy ra nên chưa ai lau bàn sau khi thủ phạm ngồi ở đó cả.”
“Tốt, cậu tân binh.”
Cooper tiếp tục mô tả sợi tóc, “Không quăn, dù là tự nhiên hay do uốn. Không có bằng chứng mất sắc tố, nên tôi xếp hắn vào độ tuổi dưới năm mươi”.
“Tôi muốn làm phân tích độc tố – hóa chất. Càng sớm càng tốt.”
“Tôi sẽ gửi cho phòng thí nghiệm của Sở.”
“Một phòng thí nghiệm dịch vụ đi.” Rhyme ra chỉ thị. “Vung tiền nhiều vào để họ cho kết quả nhanh.”
Sellitto cằn nhằn, “Chúng ta không có nhiều tiền và chúng ta đã có phòng thí nghiệm hoàn hảo của chính mình bên Queens.”
“Nó không hoàn hảo nếu nó không cho tôi kết quả trước khi thủ phạm sát hại một người nào đó nữa, Lon”
“Phòng thí nghiệm Uptown nhé?” Cooper hỏi.
“Tốt. Hãy nhớ, vung tiền nhiều vào.”
“Lạy Chúa, cái thành phố này đâu xoay xung quanh anh hả Linc?”
“Không ư?” Rhyme hỏi, với ánh mắt ngạc nhiên vừa vờ vịt vừa thành thật.