Lưới Điện Tử Thần

CHƯƠNG 38



Bob Cavanaugh hét to, “Cắt điện rồi!”
Sachs gật đầu và chỉ chỗ các nạn nhân cho đội cấp cứu, rồi lướt ánh mắt qua đám đông bên ngoài, tìm kiếm bóng dáng Galt.
“Thám tử!”
Amelia Sachs quay lại. Một người đàn ông trong bộ đồng phục của Liên hợp Algonquin đang chạy về phía cô. Nhìn người đàn ông da trắng trong bộ đồng phục màu xanh lam thẫm, cô ngay lập tức nghĩ đó có thể là Galt. Nhân chứng tại khách sạn có vẻ đã thuật lại rằng đối tượng tình nghi đang ở xung quanh đây và cảnh sát chỉ có tấm ảnh lòe nhòe của Cơ quan Quản lý xe cơ giới để nhận dạng gã.
Nhưng khi người đàn ông đến chỗ Sachs thì rõ ràng anh ta trẻ hơn Galt rất nhiều.
“Thám tử.” Anh ta nói, thở không ra hơi. “Người cảnh sát đằng kia bảo tôi nên trao đổi với chị. Có chuyện này chị nên biết.” Gương mặt anh ta cau lại khi hít phải một luồng khói từ trong khách sạn bay ra.
“Anh nói đi.”
“Tôi làm việc cho công ty Algonquin. Chị nghe này, bạn làm cùng cặp với tôi, cậu ta đang ở dưới đường hầm, dưới chân chúng ta ấy.” Người công nhân hất đầu về phía trường Cao đẳng Amsterdam “Tôi đã cố gắng liên lạc với cậu ta, nhưng cậu ta không trả lời. Có điều, bộ đàm vẫn hoạt động tốt”
Dưới đất. Nơi đặt hệ thống cung cấp điện.
“Tôi nghĩ gã Raymond Galt này, có thể gã ở dưới ấy và Joey đã chạm trán gã. Chị biết đấy. Tôi lo cho cậu ta”.
Sachs gọi hai cảnh sát khu vực đi cùng cô. Ba bọn họ và người công nhân Algonquin vội vã sang ngôi trường. “Chúng tôi có lối đi riêng dọc theo tầng hầm. Nó là lối xuống đường hầm kia dễ dàng nhất”
Vậy đấy là nguyên nhân khiến Galt bị vương tro núi lửa, khi lén lút đi qua gian trưng bày. Sachs gọi cho Rhyme, trình bày sự việc. Rồi nói thêm, “Em chuẩn bị tinh thần phải tác chiến, Rhyme. Hắn có thể đang ở dưới đường hầm. Em sẽ gọi cho anh khi biết được điều gì đó. Anh có phát hiện được điều gì mới, hữu ích từ những chứng cứ không?”
“Không, Sachs ạ.”
“Em xuống đất đây.”
Cô kết thúc liên lạc trước khi Rhyme kịp trả lời, rồi cùng hai cảnh sát khu vực theo người công nhân đi về phía cánh cửa mở xuống tầng hầm. Tòa nhà mất điện, nhưng những ngọn đèn chiếu sáng bằng pin đã tự động bật lên, giống những con mắt màu đỏ và trắng. Người công nhân đang định đẩy cánh cửa.
“Không.” Sachs nói. “Anh chờ ở đây”
“Được. Chị đi xuống hai đợt cầu thang, sẽ thấy một cánh cửa màu đỏ. Trên cánh cửa đề “Liên hợp Algonquin”. Nó mở vào ô cầu thang dẫn xuống đường Hầm kia. Đây là chìa khóa.” Anh ta đưa cho Sachs.
“Đồng nghiệp của anh tên gì?”
“Joey. Joey Barzan.”
“Và anh ta có khả năng đang ở vị trí nào?”
“Chị xuống hết cầu thang, rẽ trái. Lúc nãy cậu ta đang làm việc cách đấy độ ba mươi, bốn mươi lăm mét. Đại loại ở vị trí phía bên trên là cái khách sạn.”
“Làm sao để quan sát dưới ấy?”
“Thậm chí khi không có điện, vẫn có các đèn chiếu sáng bằng pin”
Pin. Tuyệt vời.
“Nhưng dưới ấy thực sự tối. Chúng tôi luôn luôn sử dụng đèn pin cầm tay”
“Có các đường dây mang điện dưới ấy không?”
“Có, đó là đường hầm truyền tải. Các đường dây ra hiện tại không có điện, nhưng các đường dây khác có điện”
“Chúng được để trần à?”
Người công nhân chớp mắt ngạc nhiên. “Điện áp là 130.000 volt. Không, không phải dây trần.”
Trừ phi Galt đã bộc lộ chúng.
Sachs lưỡng lự, rồi rà thiết bị phát hiện điện áp qua tay nắm cửa, khiến người công nhân Algonquin chiếu ánh mắt đầy tò mò. Cô chẳng giải thích gì về sáng chế đó, mà chỉ vừa ra hiệu cho mọi người đằng sau vừa xô mạnh cánh cửa, bàn tay đặt trên báng súng. Không có ai.
Sachs và hai cảnh sát bắt dầu đi xuống những đợt cầu thang âm u – cảm giác sợ hãi như bị giam hãm ngay lập tức xâm chiếm cô, nhưng ít nhất ở đây cái mùi kinh tởm của cao su, da và tóc cháy cũng đỡ nồng nặc hơn.
Sachs đi trước, hai cảnh sát khu vực đi sau. Cô cầm chặt chiếc chìa khóa, tuy nhiên khi họ đi đến chỗ cánh cửa màu đỏ, là lối dẫn xuống đường hầm, cô thấy nó đã hé mở. Cả ba bọn họ nhìn nhau. Cô rút súng. Hai người kia rút súng theo. Cô ra hiệu cho hai cảnh sát khu vực bám đằng sau mình từ từ tiến về phía trước, rồi cô dùng vai lặng lẽ đẩy cánh cửa.
Trong khung cửa, cô dừng lại, nhìn xuống.
Mẹ kiếp. Những bậc cầu thang dẫn xuống đường hầm – có vẻ phải cách hai tầng phía bên dưới – làm bằng kim loại. Không sơn.
Trái tim Sachs lại đập vấp váp.
Nếu có thể chăng, hãy tránh xa nó.
Nêu không thể thực hiện điều đó, hãy tự bảo vệ mình.
Nếu không thể tự bảo vệ mình, hãy chém đứt đầu nó.
Nhưng không quy tắc kỳ diệu nào của Charlie Sommers áp dụng được ở đây.
Sachs toát mồ hôi đầm đìa. Cô nhớ rằng da ướt dẫn điện tốt hơn da khô nhiều. Và chẳng phải Sommers đã nói mồ hôi có muối khiến nó dẫn điện còn tốt hơn hay sao?
“Thám tử, chị nhìn thấy gì à?” Một cảnh sát thì thào.
“Chị muốn tôi xuống xem không?” Cảnh sát thứ hai hỏi.
Sachs không trả lời mà thì thào lại đằng sau, “Đừng sờ vào bất cứ thứ gì bằng kim loại”
“Vâng. Tại sao?”
“Một trăm nghìn volt đấy. Đấy là lý do tại sao.”
“Ồ, phải”
Sachs chạy ào xuống cầu thang, có phần chờ đợi một tiếng nổ khủng khiếp kèm theo tia lửa điện bùng sáng chói lòa. Hết đợt cầu thang thứ nhất, rồi hết đợt cầu thang thứ hai.
Ước tính vừa xong không chính xác. Tổng cộng có ba đợt cầu thang rất dốc.
Khi xuống đền dưới cùng, họ nghe thấy tiếng ầm ầm, rền rền. Âm thanh vang động. Nhiệt độ cũng cao hơn bên ngoài tới hai mươi độ và cứ mỗi bước đi xuống lại một nóng thêm.
Một tầng địa ngục nữa.
Đường hầm rộng hơn Sachs nghĩ, ngang chừng một mét tám, cao chừng hai mét mốt, nhưng tối tăm hơn cô nghĩ nhiều. Nhiều bóng đèn chiếu sáng bằng pin đã mất.về phía tay phải, cô chỉ nhìn thấy lờ mờ vách cuối đường hầm, cách cô chừng bốn mét rưỡi. Không có lối nào cho Galt thoát ra, cũng chẳng có chỗ nào cho gã ẩn nấp. Tuy nhiên, về phía tay trái, phía có lẽ là có Joey Barzan, đường hầm chia thành một loạt những ngã rẽ.
Sachs ra hiệu cho hai cảnh sát kia bám đằng sau cô, và họ di chuyển tới ngã rẽ đầu tiên của đường hầm. Họ dừng lại tại đó. Cô không nghĩ Galt vẫn còn hiện diện dưới này – gã sẽ chuồn càng xa càng tốt – nhưng cô lo lắng về các cái bẫy.
Dù sao, cũng chỉ là cô nghĩ chứ chẳng phải chắc chắn, rằng gã đã chuồn. Bởi vậy, khi quan sát xung quanh ngã rẽ, cô khom lung và cầm sẵn sàng khẩu Glock, tuy không đưa nó về phía trước, Galt có thể từ bên cạnh đá văng nó đi hoặc giật mất
Không có gì.
Sachs nhìn xuống sàn bê tông tràn nước. Nước. Đương nhiên.
Chất dẫn điện rất tốt.
Cô nhìn tường đường hầm chạy những sợi cáp dày màu đen.
NGUY HIỂM!!! CAO THẾ HÃY GỌI CHO LIÊN HỢP ĐIỆN LỰC ALGONQUIN TRƯỚC KHI LÀM VIỆC
Sachs nhớ câu bình luận lúc nãy về điện áp của người công nhân Algonquin.
“Không có gì.” Cô thì thào.
Và ra hiệu cho hai cảnh sát kia bám đằng sau, vội vã di chuyển. Tất nhiên, cô có lo lắng cho người công nhân Algonquin, Joey Barzan, nhưng quan trọng hơn, cô hy vọng tìm thấy các manh mối về việc Galt đã đi đâu rồi. f
Nhưng liệu họ có tìm thấy nổi không? Cô phán đoán những ngã rẽ này phải kéo dài nhiều dặm. Chúng hẳn là lối thoát hoàn hảo. Nền đường hầm bằng đất và bê tông, nhưng không hiện dấu chân nào rõ ràng. Các bức tường thì đầy muội. Cô có thể mất ngày nọ qua ngày kia để thu thập dấu vết và rốt cuộc chẳng tìm thấy lấy một mảy may manh mối. Có thể..
Một tiếng sột soạt.
Sachs sững lại. Âm thanh kia phát ra từ đâu? Liệu có ngách phụ nào Galt ẩn nấp được không?
Một trong hai cảnh sát giơ bàn tay lên. Anh ta chỉ vào mắt mình, rồi chỉ về phía trước. Sachs gật đầu, tuy nghĩ tín hiệu quân sự ấy chẳng thực sự cần thiết ở đây.
Nhưng bất cứ điều gì khiến người ta cảm thấy thoải mái trong những tình huống như thế này…
Mặc dù vậy, lúc bấy giờ, Sachs cũng chẳng cảm thấy thoải mái mấy. Những mảnh đạn kim loại nóng chảy lại rít vèo vèo trong tâm trí cô.
Tuy nhiên, cô không thể lùi lại
Thêm một hơi thở sâu.
Thêm một cái nhìn… Đoạn đường hầm phía trước họ vẫn không có ai. Nó cũng tối tăm hơn đoạn lúc nãy. Và Sachs phát hiện được lý do tại sao: Hầu hết các bóng đèn đã không còn, nhưng các bóng đèn này đều bị đập vỡ.
Một cái bẫy, cô có cảm giác ấy.
Theo tính toán của cô, họ ắt đang ở ngay phía dưới khách sạn, khi tới một chỗ ngoặt chín mươi độ sang tay phải.
Sachs lại quan sát nhanh, nhưng lần này hầu như cô không thể nhìn thấy gì vì bóng tối dày đặc hơn.
Rồi lần nữa, cô nghe thấy những tiếng động.
Một cảnh sát khu vực thận trọng tiên đến gần. “Là giọng nói?”
Sachs gật đầu.
“Giữ người thấp xuống.” Cô thì thào.
Họ lom khom vòng qua chỗ ngoặt và di chuyển về phía trước.
Rồi cô rùng mình. Không phải một giọng nói. Mà là một tiếng rên. Một tiếng rên tuyệt vọng. Của người.
“Đèn pin!” Sachs thì thào. Là thám tử, cô không đeo thắt lưng giắt dụng cụ, chỉ đeo súng và còng. Cô cảm thấy đau điếng khi bị người cảnh sát đằng sau thúc chiếc đèn pin vào mạng sườn.
“Xin lỗi” Anh ta lẩm bẩm.
“Nằm xuống.” Sachs khẽ khàng bảo hai cảnh sát khu vực. “Nằm sấp xuống. Chuẩn bị tinh thần nhả đạn. Nhưng chỉ khi tôi đưa ra mệnh lệnh… trừ phi hắn hạ gục tôi trước.”
Hai cảnh sát từ từ nằm xuống cái sàn nhớp nháp, súng chĩa về phía cuối đường hầm.
Sachs cũng chĩa súng về phía đó. Cánh tay cầm đèn pin giơ thẳng sang ngang để tránh cho vị trí hiểm yếu trên cơ thể trở thành mục tiêu dễ dàng, cô bấm công tắc bật nó lên, luồng ánh sáng chói lóa rọi vào đường hầm tối mịt mùng.
Không có tiếng súng nổ, không có tia lửa điện nào.
Nhưng Galt đã sát hại một nạn nhân nữa.
Cách họ độ mười mét, một công nhân Algonquin đang nằm nghiêng, mồm bị bịt băng keo, hai tay bị buộc quặt ra sau. Thái dương và phía sau tai anh ta đang chảy máu.
“Đến đấy nào!”
Hai viên cảnh sát kia nhỏm dậy và cả ba hối hả đi về phía người đàn ông mà Sachs đồ là Joey Barzan. Trong luồng ánh sáng đèn pin, cô có thể nhận ra đó không phải là Galt. Người công nhân bị thương nặng và máu chảy lênh láng. Khi một trong hai cảnh sát vội vã bước tới để cầm máu, Barzan bắt đầu lắc đầu điên cuồng, phát ra những tiếng rên rỉ phía dưới miếng băng keo.
Thoạt tiên, Sachs cho rằng anh ta sắp chết, cơn giãy chết khiến thân mình anh ta rung giật. Nhưng khi tiến đền gần hơn, cô nhìn vào cặp mắt mở to của anh ta, rồi theo ánh mắt của anh ta nhìn xuống. Anh ta đang không nằm hẳn xuống sàn mà nằm trên một tấm dày kiểu như teflon hoặc nhựa.
“Dừng lại!” Cô hét bảo viên cảnh sát đang vươn tới cứu người đàn ông. “Bẫy đấy!”
Viên cảnh sát sững lại.
Sachs nhớ Sommers đã nói với cô rằng các vết thương và máu khiến điện trở trong cơ thể giảm đi rất nhiều.
Rồi, không chạm vào người công nhân, cô bước vòng ra phía sau anh ta.
Hai tay anh ta bị trói, phải. Nhưng không phải bằng băng keo hay dây thừng – mà bằng dây đồng để trần. Sợi dây đồng này được đấu với một trong những đường dây trên tường. Cô rút thiết bị phát hiện điện thế của Sommers, hướng nó về phía sợi dây xiết xung quanh cổ tay Barzan.
Đồng hồ vọt lên đến mười nghìn volt. Trong trường hợp viên cảnh sát sờ vào Barzan, dòng điện sẽ phóng qua anh ta, rồi phóng qua viên cảnh sát, xuống đất, ngay lập tức giết chết họ.
Sachs bước lùi lại, tăng âm lượng bộ đàm gọi Nancy Simpson, đề chị ta liên lạc với Bob Cavanaugh, bảo vị phó chủ tịch rằng ông ta cần chém đứt dầu một con mãng xà nữa.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.