Lưới Điện Tử Thần

CHƯƠNG 27



Mel Cooper và Khyme đang phân tích bức thư. Ron Pulaski cũng đã đến mấy phút trước. Lon Sellitto thì đang phóng xe sang khu vực trung tâm thành phố để điều phối Đơn vị Phản ứng nhanh, trong trường hợp họ hoặc xác định được một đối tượng tình nghi hoặc phát hiện ra mục tiêu có thể của hắn.
Tucker McDaniel xem xét bức thư yêu sách như thể nó là loại thức ăn chưa chạm trán bao giờ. Rhyme đồ rằng nguyên nhân là vì văn bản viết tay trên giấy không rơi vào miền đám mây. Hình thức ấy trái ngược với hình thức thông tin liên lạc công nghệ cao. Các máy tính và hệ thống dò tìm tinh vi của anh ta đành chịu chết trước giấy với mực.
Rhyme liếc bức thư. Từ kiến thức được học hành của chính bản thân anh, cũng như từ quá trình làm việc cùng Parker Kincaid, anh biết nét chữ chẳng tiết lộ điều gì về tính cách của người viết, bất kể những cuốn sách được bày bán ở quầy thu ngân tiệm tạp hóa hay những vị học giả uyên thâm trên các phương tiện truyền thông có đưa ra ý kiến nhăng nhít như thế nào. Tất nhiên, việc phân tích có thể làm sáng tỏ, nếu một mẫu viết tay khác, đã biết danh tính của người viết, được cung cấp, có thể đem so sánh nhằm xác định người viết văn bản thứ nhất và người viết văn bản thứ hai có phải là một người hay không. Parker Kincaid giờ hẳn đang làm việc này, thực hiện đối chiếu sơ bộ với nét chữ của những đối tượng khủng bố đã được biết tới và đối chiếu chúng với nét chữ của những nhân viên Algonquin trong danh sách kia.
Nét chữ và nội dung văn bản cũng gợi ý rằng người viết thuận tay phải hay tay trái, trình độ học vấn đến đâu, lớn lên ở đất nước hoặc vùng miền nào, sức khỏe thể chất, tinh thần ra sao, liệu có bị ảnh hưởng gì do ma túy hay các chất độc.
Nhưng Rhyme quan tâm tới bức thư một cách cơ bản hơn: loại giấy và mực được sử dụng đến từ nguồn nào, các dấu vân tay, các vết hằn in trên sợi giấy.
Tất cả những vấn đề ấy, sau khi Cooper cặm cụi phân tích, chỉ là một con số không tròn trĩnh.
Nguồn của cả giấy và mực đều thiếu tính đặc thù – chúng có thể được bán ở hàng nghìn cửa hiệu. Dấu vân tay của Andi Jessen là dấu vân tay duy nhất xuất hiện trên bức thư, còn dấu vân tay xuất hiện tiên phong bì là của người gác cửa và nhân viên văn thư, các mật vụ dưới quyền McDaniel đã chuyển dấu vân tay của mấy người này cho Rhyme.
Vô ích, Rhyme cay đắng nghĩ. Kết luận duy nhất là thủ phạm quá thông minh. Và có ý thức sinh tồn hết sức mạnh mẽ.
Nhưng mươi phút sau, họ đã đạt được một bước đột phá, có thể tạm gọi là như thế.
Parker Kincaid gọi điện giữa lúc đang nghiên cứu các mẫu văn bản tại ngôi nhà của anh ta ở Faufax, Virginia.
“Lincoln.”
“Parker, chúng ta có gì rồi?”
Kincaid nói, “Thứ nhất, về việc đối chiếu nét chữ. Các mẫu chứng được gửi đến từ chính Algonquin khá ít ỏi, nên tôi không thể thực hiện phân tích đầy đủ như mong muốn.”
“Tôi hiểu.”
“Nhưng tôi đã thu hẹp diện nghi vấn xuống còn mười hai người.”
“Mười hai người. Tuyệt vời.”
“Tên đây. Anh sẵn sàng chưa?”
Rhyme liếc nhìn Cooper, anh ta gật đầu. Người kỹ thuật viên ghi lại những cái tên Kincaid đọc.
“Bây giờ, tôi có thể cung cấp cho anh vài chi tiết khác về hắn. Thứ nhất, hắn thuận tay phải. Tiếp theo, qua cách hành văn, tôi thấy được một số đặc điểm.”
“Nói luôn xem.”
Sau cái hất đầu của Rhyme, Cooper bước tới tấm bảng ghi hồ sơ tội phạm.
“Hắn đã học xong trung học, cũng có thể đã tốt nghiệp đại học. Hắn học ở Mỹ. Hắn mắc một số lỗi chính tả, ngữ pháp, dấu câu, nhưng hầu hết với các từ và cấu trúc khó. Tôi cho rằng do hắn bị căng thẳng vì việc mình đang làm. Có thể hắn được sinh ra ở đây. Tôi không thể bảo đảm hắn không phải gốc người nhập cư, nhưng tiếng Anh là ngôn ngữ thứ nhất và, tôi hầu như chắc chắn, là ngôn ngữ duy nhất của hắn.”
Cooper viết những thông tin này.
Kincaid tiếp tục, “Hắn cũng khá thông minh. Hắn không sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất và tránh sử dụng thể chủ động”.
Rhyme hiểu. “Hắn chẳng bao giờ nói điều gì về bản thân.”
“Chính xác!”
“Nó gợi ý rằng hắn không ra tay một mình.”
“Có khả năng. Ngoài ra, những nét khuyết trên và khuyết dưới thiếu nhất quán. Anh bắt gặp điều này khi đối tượng đang lo lắng, xúc động. Người viết đang trong tâm trạng tức tối hoặc đau khổ, và có xu hướng ấn đậm nét bút”.
“Tốt.” Rhyme hất đầu ra hiệu cho Cooper, anh ta viết cả chi tiết này lên bảng.
Họ kết thúc cuộc gọi “Mười hai..” Rhyme thở dài. Anh nhìn một lượt các bảng chứng cứ và hồ sơ tội phạm, tiếp đến tên những đối tượng tình nghi “Chúng ta không có cách nào thu hẹp diện nghi vấn nhanh hơn hay sao?”“ Anh cay đẳng hỏi rồi nhìn chiếc đồng hồ treo tường tiến thêm một phút nữa về phía thời hạn chết chóc.
HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN:
TRẠM MANHATTAN-10
CÔNG TY ALOONOUIN
PHỐ NĂM MƯƠI BẢY MẠN TÂY
– Nạn nhân (đã tử vong) Luis Martin, phó quản lý cửa hàng sản phẩm âm nhạc.
• Không có dấu vân tay trên bất cứ bề mặt nào
• Mảnh kim loại nóng chảy, hậu quả của tia hồ quang
– Sợi cáp cỡ 0 bện bằng dây nhôm có bọc lớp cách đỉện
• Nhà máy sản xuất linh kiện điện Benmington. AM-MV-60, chịu được dòng điện lên tới 60 000v
• Cắt tay bằng cưa kim loại, lưỡi mới, gãy mất một răng
– Hai bu lông có chốt hãm đường kính trong lòng 1.9cm
• Không thể truy nguyên
• Dấu vết riêng biệt của dụng cụ để lại trên bu lông
• Lõi dẫn điện đồng thau, đấu với sợi cáp bằng hai bu lông đường kính 0.6cm
– Tất cả đều không thể truy nguyên.
– Dấu giày cao cổ.
– Sản phẩm của Albertson-Fenwick Model E-20 dành cho thợ điện, cỡ 11.
– Lưới kim loại được cắt ra để chui vào trạm điện, có dấu vết riêng biệt của dụng cụ là kéo cắt bu lông.
– Cánh cửa và khung cửa dưới tầng hầm.
– Lấy được ADN. Đã gửi xét nghiệm.
– Đồ ăn Hy Lạp, taramasalata.
– Tóc vàng, dài 2,5cm, tự nhiên, của người từ 50 tuổi trở xuống, được phát hiện ở tiệm cà phê bên kia phố đối diện trạm điện.
– Đã gửi phân tích độc tố – hóa chất
– Dấu vết khoáng chất: tro núi lửa.
– Không tìm thấy trong tự nhiên khu vực New York.
– Từ triển lãm, bảo tàng, trường đào tạo về địa chất chăng?
– Phần mềm Trung tâm Điều khiển Algonquin bị truy cập bằng mật khẩu nội bộ, không phải bởi hacker bên ngoài.
THƯ YÊU SÁCH
– Được đưa tới nhà cho Andi Jessen.
– Không có nhân chứng.
– Viết tay.
– Đã gửi cho Parker Kincaid để phân tích.
– Nguồn giấy và mực không đặc thù.
– Không thể truy nguyên.
– Không có dấu vân tay của ai khác ngoài A. Jessen, người gác cửa, nhân viên văn thư.
– Không có dấu vết rõ ràng nào lưu lại trên giấy.
HỒ SƠ ĐỐI TƯỢNG CHƯA XÁC ĐỊNH
– Nam giới.
– Độ tuổi 40.
– Có khả năng là da trắng.
– Cỏ khả năng đeo kính, đội mũ.
– Có khả năng tóc ngắn, màu vàng.
– Quần yếm màu xanh lam thẫm, tương tự đồng phục của công nhân Algonquin.
– Rất thành thạo các hệ thống điện.
– Dấu giày gợi ý rằng không có vấn đề thể chất nào ảnh hưởng đến tư thế, dáng đi.
– Có khả năng là kẻ đã ăn trộm gần 23m cáp loại tương tự của Bennington và 12 bu lông có chốt hãm. Dự tính tiếp tục tấn công? Mở cửa vào nhà kho của Algonquin ăn trộm bằng chìa khóa.
– Có khả năng là nhân viên của Algonquỉn hoặc có quan hệ với nhân viên của Algonquỉn.
– Liên quan đến khủng bố? Có quan hệ với Công lý cho (chưa xác định)? Nhóm khủng bố? Cá nhân mang tên Rahman dính líu vào? có những tín hiệu mã hóa về các khoản tiền chi trả, các động thái nhân sự và thứ gì đó “lớn”.
– Sự vi phạm an ninh tại trạm điện của Algonquin ở Philadelphia có thể có liên quan.
– Thông tin từ SIGINT: từ ngữ mã hóa ám chỉ vũ khí, “giấy và các nguyên vật liệu” (súng, thuốc nổ? ).
– Những người dính líu tới bao gồm một phụ nữ, một nam giới.
– Hẳn đã nghiên cứu về SCADA – Chương trình Giám sát Điều khiển và Thu thập Dữ liệu. Và các Chương trình quản lý năng lượng. Algonquin sử dụng Enertrol. Cả hai đều dựa trên hệ điều hành Unix.
– Để tạo ra hồ quang điện, có khả năng đã là hoặc đang là thợ đặt đường dây, thợ điện được cấp chứng chỉ, thợ điện tay nghề cao, làm việc tại công trường xây dựng, trong quân đội.
Mô tả từ Parker Kincaid, thông qua chữ viết:
– Thuận tay phải.
– Ít nhất đã tốt nghiệp trung học, có thể đã tốt nghiệp đại học.
– Học tại Mỹ.
– Tiếng Anh là ngôn ngữ thứ nhất, có thể là ngôn ngữ duy nhất.
– Sử dụng thể bị động, tránh làm lộ kẻ đồng lõa chăng?
– Có thể tương thích với một trong số mười hai nhân viên Algonquin.
– Viết thư trong tâm trạng xúc động, tức tối, đau khổ.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.