“Thời hạn hắn đưa ra?” Sellitto hỏi.
“Sáu rưỡi tối nay.”
“Hắn cho chúng ta hơn ba tiếng đồng hồ một chút. Hắn muốn gì?”
“Yêu sách lần này thậm chí còn điên rồ hơn hai lần trước. Tôi có thể sử dụng máy tính không?”
Rhyme hất đầu về phía máy tính.
Viên Phó Trưởng văn phòng gõ bàn phím và lát sau bức thư hiện lên trên màn hình. Rhyme trông thấy lờ mờ. Anh chớp chớp mắt cho mọi thứ rõ ràng hơn và vươn đầu về phía trước.
Gửi Liên hợp Điện lực Algonquin và CEO Andi Jessen:
Khoảng sáu giờ tối hôm qua, một thiết bị chuyển mạch điều khiển từ xa đã dẫn dòng điện tổng cộng 13.800 volt, từ hệ thống phân phối thứ cấp tại tòa văn phòng số 235 mạn Tây phố Năm mươi tư, vào sàn một thang máy, một dây tiếp đất được nối với bảng điều khiển trong thang. Khi thang đột ngột ngừng trước khi xuống đến tầng trệt, một người sờ vào bảng điều khiển để ấn nút báo động, mạch điện đóng lại và những người trong thang bị điện giật chết.
Đã hai lần tôi đề nghị bà bày tỏ thiện ý bằng cách giảm công suất cấp điện. Và đã hai lần bà từ chối. Nếu bà chịu thực hiện các yêu cầu hợp lý của tôi, thì bà đã không đem đến bất hạnh cho cuộc đời những người mà bà gọi là khách hàng. Bà ngang ngạnh bất chấp các yêu cầu đó và những người khác phải trả giá.
Năm 1931, khi Thomas A. Edison qua đời, các cộng sự của ông trân trọng đề nghị việc cắt điện toàn thành phố trong sáu mươi giây để tưởng niệm con người đã sáng tạo ra lưới điện, mang ánh sáng tới với hàng triệu người. Nhưng thành phố từ chối.
Tôi bây giờ cũng sẽ đưa ra lời đề nghị như vậy – không phải để thể hiện sự tôn trọng con người đã SÁNG TẠO RA lưới điện, mà để thể hiện sự tôn trọng những con người đang bị nó HỦY HOẠI – những con người mắc bệnh do các đường dây tải điện, do ô nhiễm từ lò đốt than đá và phản ứng bức xạ, những con người mất nhà cửa vì động đất xuất hiện do việc khoan khai thác địa nhiệt và đắp đập chặn dòng chảy tự nhiên của các con sông, những con người bị lừa đảo bởi những công ty kiểu Enron, danh sách này không bao giờ kết thúc.
Chỉ có điều, khác với năm 1931, tôi yêu cầu bà đóng toàn bộ lưới điện Liên kết Đông Bắc trong một ngày. Bắt đầu từ 6h30 tối nay.
Nếu bà thực hiện điều này, mọi người sẽ thấy họ chẳng cần dùng nhiều điện như họ vốn vẫn dùng. Họ sẽ thấy thói tham lam là thứ thúc đẩy họ, là thứ mà bà sung sướng được tạo điều kiện cho phát triển thêm. Vì cái gì? Tất nhiên là vì LỢI NHUẬN.
Nếu bà phớt lờ tôi lần này, hậu quả sẽ lớn hơn rất, rất nhiều mấy vụ tai nạn lặt vặt xảy ra hôm qua và hôm kia, sẽ rất, rất nhiều người chết hơn nữa.
R. Galt
McDaniel nói, “Ngớ ngẩn. Sẽ xảy ra lộn xộn, bạo loạn, cướp bóc trong dân chúng. Ngài thống đốc và Tổng thống vẫn giữ quan điểm cứng rắn. Không nhượng bộ.”
“Anh đang thấy đấy. Nó là một bức email.”
“Hắn gửi cho ai?”
“Cá nhân Andi Jessen. Và chính công ty. Gửi vào tài khoản email của bộ phận an ninh.”
“Có thể truy ra địa chỉ gửi không?”
“Không. Hắn sử dụng một proxy ở châu Âu… Có vẻ hắn sẽ tấn công hàng loạt.” McDaniel ngẩng nhìn. “Washington đã quyết liệt tham gia vào. Mấy vị thượng nghị sĩ đó, mấy vị đang làm việc với Tổng thống về năng lượng tái tạo, sẽ sớm tới đây. Họ sẽ gặp ông thị trưởng. Phó Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang cũng sẽ tới. Gary Noble đang điều phối tất cả. Chúng tôi thậm chí đã tung thêm mật vụ và quân ra ngoài đường. Giám đốc sở Cảnh sát New York đã huy động một nghìn cảnh sát nữa.” Anh ta xoa xoa mắt. “Lincoln, chúng tôi có nhân lực và hỏa lực, nhưng chúng tôi cần ý kiến gì đó về việc phải tìm kiếm vụ tấn công tiếp theo ở đâu. Anh có thông tin thế nào rồi? Chúng tôi cần cái gì đó cụ thể.”
McDaniel đang nhắc nhở Rhyme rằng anh ta đã để nhà hình sự học phụ trách vụ án khi được đảm bảo là tình trạng sức khỏe của anh không khiến cuộc điều tra bị chậm chạp.
Từ lối vào cho tới lối ra…
Rhyme đã có cái anh muốn – đó là cuộc điều tra. Tuy nhiên, anh chưa phát hiện ra gã đàn ông kia. Thực tế thì chính cái tình trạng mà anh đảm bảo với McDaniel rằng nó sẽ không thành vấn đề đã khiến Sachs và Pulaski suýt mất mạng, cùng cả chục cảnh sát lực lượng Phản ứng nhanh.
Anh nhìn chằm chằm vào gương mặt mịn màng và ánh mắt loài ăn thịt của viên mật vụ, nói giọng đều đều, “Những gì tôi có lúc này là những chứng cứ mới để tiếp tục xem xét”
McDaniel lưỡng lự rồi phẩy tay không rõ ý gì. “Được rồi. Tiếp tục đi.”
Rhyme đã quay sang Cooper, hất đầu về phía chiếc máy ghi âm kỹ thuật số ghi âm tiếng rên rỉ của “nạn nhân”. “Phân tích âm thanh.”
Đeo găng tay, người kỹ thuật viên cắm chiếc máy ghi âm vào máy tính của anh ta và gõ bàn phím. Lát sau, khi đã đọc những đường cong hình sin trên màn hình, anh ta nói, “Âm lượng và chất lượng tín hiệu cho giả thiết là nó được ghi âm từ một Chương trình ti vi. Truyền hình cáp”
“Nhãn hiệu máy ghi âm?”
“Sanoya. Trung Quốc.” Cooper gõ mấy lệnh, rồi nghiên cứu một cơ sở dữ liệu mới. “Mua được ở chừng mười nghìn cửa hiệu trên toàn quốc. Không có số sê-ri.”
“Còn gì nữa không?”
“Không dấu vân tay hay bất cứ dấu vết nào khác, trừ taramasalata.”
“Chiếc máy phát điện?”
Cooper và Sachs xem xét nó cẩn thận, trong lúc Tucker McDaniel bồn chồn gọi điện thoại ở góc phòng. Chiếc máy phát điện hóa ra mang nhãn hiệu Power Plus, của Công ty Sản xuất William-Jonas, có trụ sở ở New Jersey.
“Chiếc máy này từ đâu ra?” Rhyme hỏi.
“Để xem” Sachs nói.
Hai cuộc điện thoại – một đến văn phòng bán hàng trong khu vực của công ty và một đến tổng thầu mà công ty giới thiệu – cho họ biết nó đã bị ăn trộm từ một công trường xây dựng ở Manhattan. Theo cảnh sát khu vực thì không có manh mối gì về kẻ trộm. Công trường xây dựng không có camera an ninh.
“Có một số dấu vết lạ lùng.” Cooper thông báo. Anh ta cho chạy qua máy sắc ký khí/khối phổ kêu ì ì.
“Có cái này…” Cooper khom lưng vươn về phía màn hình. “Hừm!”
Thái độ này thông thường sẽ kéo theo ánh mắt gay gắt hỏi “Thế nghĩa là thế nào?” của Rhyme. Nhưng anh vẫn còn cảm thấy mệt mỏi vì choáng váng sau cơn bệnh. Anh kiên nhẫn đợi người kỹ thuật viên giải thích.
Cuối cùng, “Tôi không nghĩ trước đây mình từng bắt gặp nó. Một lượng lớn thạch anh và amoni clorua. Tỷ lệ là khoảng mười trên một.”
Rhyme ngay lập tức biết câu trả lòi. “Chất làm sạch đồng.”
““Dây điện đồng?” Pulaski gợi ý. “Galt đang làm sạch chúng chăng?”
“Ý kiến hay đấy, cậu tân binh. Nhưng tôi không chắc chắn” Rhyme không nghĩ thợ điện vốn vẫn làm công việc này. Ngoài ra, anh giải thích, “Chủ yếu nó được dùng để làm sạch những chi tiết bằng đồng trong các tòa nhà. Gì nữa, Mel?”
“Một ít bụi đá không hay bắt gặp ở Manhattan. Chất liệu sành sử dụng trong kiến trúc.” Cooper lúc bấy giờ đang nhìn vào thấu kính hiển vi. Anh ta bổ sung thêm, “Và một ít hạt nhỏ trông giống như cẩm thạch trắng.”
Rhyme thốt lên, “Bạo loạn cảnh sát năm năm bảy. Tức là năm một nghìn tám trăm năm bảy”
“Cái gì?” McDaniel hỏi.
“Vài năm trước. Vụ Delgado ấy?”
“Ồ, phải.” Sachs nói.
Sellitto hỏi, “Chúng ta đã làm vụ ấy à?”
Cái nhăn mặt của Rhyme truyền thông điệp: Ai làm vụ ấy không thành vấn đề. Khi nào cũng không thành vấn đề. Cảnh sát khám nghiệm hiện trường – chết tiệt, đúng ra là mọi cảnh sát phải biết về tất cả các vụ án nghiêm trọng trong thành phố, hiện tại và quá khứ. Càng nạp nhiều thông tin vào đầu, càng có cơ hội để tạo nên những mối liên hệ giúp giải quyết một vụ án nhất định.
Bài tập về nhà…
Rhyme giải thích: Vài năm trước, Sleven Delgado, một bệnh nhân tâm thần phân liệt hoang tưởng, đã lên kế hoạch giết người hàng loạt để bắt chước những cái chết trong vụ Bạo loạn Cảnh sát Thành phố New York năm 1857 đầy tai tiếng. Kẻ tâm thần chọn đúng địa điểm xảy ra vụ tàn sát một trăm năm mươi năm trước: Công viên Tòa Thị chính. Hắn bị bắt ngay sau khi thực hiện vụ giết người thứ nhất, vì Rhyme đã lần theo dấu vết hắn tới một căn hộ ở khu Bờ Tây Hạ, nơi dấu vết hắn đế lại bao gồm chất làm sạch đồng, bụi sành từ tòa nhà WoolWorth và bụi cẩm thạch trắng từ tòa án thành phố, lúc đó đang được sửa chữa, cũng giống như bây giờ.
“Anh cho là hắn chuẩn bị tấn công Tòa Thị chính à?” McDaniel hỏi gấp gáp, ống nghe điện thoại tuột khỏi bàn tay anh ta, buông xuống lủng lẳng trên sợi dây.
“Tôi cho là có một mối liên hệ. Tôi chỉ có thể nói như thế. Ghi lên bảng đi và chúng ta sẽ suy nghĩ. Anh còn tìm thấy gì ở máy phát điện?”
“Tóc.” Cooper thông báo, giơ cao chiếc nhíp lên. “Màu vàng, khoảng hai mươi ba centimet.” Anh ta đưa nó vào kính hiển vi, từ từ đẩy lên đẩy xuống khay mẫu. “Không nhuộm. Màu vàng tự nhiên. Chưa bị nhạt màu, không khô. Tôi cho là của một người dưới năm mươi tuổi. Cũng có biến đổi khúc xạ ở một đầu. Tôi có thể đưa qua máy sắc ký khí, nhưng tôi chắc đến chín mươi phần trăm đó là…”
“Keo xịt tóc.”
“Phải.”
“Có thể là tóc phụ nữ. Còn gì nữa?”
“Một sợi tóc nữa. Màu nâu. Ngắn hơn. Kiểu đầu đinh. Cũng dưới năm mươi tuổi.”
“Vậy”, Rhyme nói, “không phải Galt. Có thể chúng ta đã có mối liên hệ với Công lý cho Trái Đất. Hoặc vài đối tượng nữa. Tiếp tục đi.”
Những thông tin khác không đáng khích lệ lắm. “Chiếc đèn pin có thể mua được ở hàng nghìn cửa hiệu. Không dấu vân tay, không dấu vết gì. Sợi dây thuộc loại thông thường. Còn sợi cáp hắn dùng để buộc các cánh cửa? Là cáp Bennington, cùng loại hắn vốn vẫn dùng. Bu lông thông thường, tương tự những cái lúc trước.”
Đưa mắt nhìn chiếc máy phát điện, Rhyme ý thức được rằng các suy nghĩ của anh đang xoay mòng mòng. Một phần vì cơn bệnh anh vừa trải qua. Nhưng một phần vì chính vụ án. Có cái gì đó nhầm lẫn. Những mảnh ghép của trò ghép hình bị thất lạc.
Câu trả lời ắt phải nằm trong đám chứng cứ. Và cũng quan trọng y như thế: là cái đang không nằm trong đám chứng cứ. Rhyme lướt nhìn những tấm bảng trắng, cố gắng giữ sự điềm tĩnh. Không phải để đề phòng một cơn tăng phản xạ nữa, như mệnh lệnh của bác sĩ. Mà vì chẳng có gì khiến người ta mù quáng nhanh hơn nỗi sốt ruột.
HỒ SƠ TỘI PHẠM
– Được xác định danh tính là Raymond Galt, 40 tuổi, độc thân, sống ở quận Manhattan, số 227 phố Suffolk.
– Liên quan đến khủng bố? Có quan hệ với Công lý cho Trái đất? Nhổm khùng bố? Cá nhân mang tên Rahman dính líu vào? Có những tín hiệu mã hóa về các khoản tiền chi trả, các động thái nhân sự và thứ gì đó “lớn”.
– Sự vi phạm an ninh tại trạm điện của Algonquin ở Philadelphia có thể có liên quan.
– Thông tin từ SIGINT: từ ngữ mã hóa ám chỉ vũ khí, “giấy và các nguyên vật liệu” (súng, thuốc nổ? ).
– Những người dính líu tới bao gồm một phụ nữ, một nam giới.
– Chưa xác định được sự dính líu của Galt.
– Bệnh nhân ung thư; trữ nhiều vinblastine và prednisone, có dấu vết của etoposide. Máu trắng.
– Galt có vũ khí là Colt45 li 1911.
– Cải trang thành nhân viên lao công trong bộ quần yếm màu nâu. Cũng có cả chi tiết màu xanh lá cây sẫm nữa?
– Đeo găng tay da màu nâu vàng.
HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN:
TRẠM MANHATTAN-10 CÔNG TY ALGONQUIN PHỐ NĂM MƯƠI BẢY MẠN TÂY
– Nạn nhân (đã tử vong): Luis Martin, phó quản lý cửa hàng sản phẩm âm nhạc.
– Không có dấu vân tay trên bất cứ bề mặt nào.
– Mảnh kim loại nóng chảy, hậu quả của cung hồ quang.
– Sợi cáp cỡ 0 bện bằng dây nhôm có bọc lớp cách điện.
– Nhà máy sản xuất linh kiện điện Bennington, AM-MV-60, chịu được dòng điện lên tới 60.00UV.
– Cắt tay, bằng cưa kim loại, lưỡi mới, gãy mắt một răng.
– Hai “bu lông có chốt hãm”, đường kính trong lòng 1,9cm.
– Không thể truy nguyên.
– Dấu vết riêng biệt của dụng cụ để lại trên bu lông.
– Lõi dẫn điện đồng thau, đấu với sợi cáp bằng hai bu lông đường kính 0,6cm.
– Tất cả đều không thể truy nguyên.
– Dấu giày cao cổ.
– Sản phẩm của Albertson-Fenwick Model E-20 dành cho thợ điện, cỡ 11.
– Lưới kim loại được cắt ra để chui vào trạm điện, có dấu vết riêng bỉệt của dụng cụ là kéo cắt bu lông.
– Cánh cửa và khung cửa dưới tầng hầm.
– Lấy được ADN. Đã gửi xét nghiệm.
– Đồ ăn Hy Lạp, taramasalata.
– Tóc vàng, dài 2,5cm, tự nhiên, của người từ 50 tuổi trở xuống, được phát hiện ở tiệm cà phê bên kia phố đối diện trạm điện.
– Đã gửi phân tích độc tố – hóa chất
– Dấu vết khoáng chất tro núi lửa.
– Không tìm thấy trong tự nhiên khu vực New York.
– Từ triển lãm, bảo tàng, trường đào tạo về địa chất chăng?
– Phần mềm Trung tâm Điều khiển Algonquin bị truy cập bằng mật khẩu nội bộ, không phải bởi hacker bên ngoài.
THƯ YÊU SÁCH
– Được đưa tới nhà cho Andỉ Jessen.
– Không có nhân chứng.
– Viết tay.
– Đã gửi cho Parker Kincaid để phân tích.
– Nguồn giấy và mực không đặc thù.
– Không thể truy nguyên.
– Không có dấu vân tay của ai khác ngoài A. Jessen, người gác cửa, nhân viên văn thư.
– Không có dấu vết rõ ràng nào lưu lại trên giấy.
HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN:
KHÁCH SẠN CÔNG VIÊN BATTERY VÀ KHU VỰC LÂN CẬN
– Các nạn nhân (đã tử vong):
+ Linda Kepler, thành phố Oklahoma, khách du lịch.
+ Morris Kepler, thành phố Oklahoma, khách du lịch.
+ Samuel Vetter, Scottsdale, doanh nhân.
+ Ali Mamoud, thành phố New York, phục vụ bàn.
+ Gerhart Schiller, Frankfurt, Germany, giám đốc quảng cáo.
– Điện được đóng bằng thiết bị điều khiển từ xa.
– Các bộ phận không thể truy nguyên.
– Cáp Bennington và bu lông có chốt hãm, hoàn toàn giống ở vụ tấn công thứ nhất
– Đồng phục Algonquin của Galt, mũ bảo hộ và túi đựng dụng cụ chỉ có dấu vân tay của hắn, không có dấu vân tay của ai khác.
– Cờ lê tạo dấu vết phù hợp với dấu vết để lại trên bu lông ở hiện trường thứ nhất.
– Giũa đuôi chuột bám bụi thủy tinh có thể liên hệ với chiếc chai được tìm thấy ở hiện trường trạm điện khu Hariem.
– Có khả năng hành động một mình.
– Dấu vết từ công nhân của Algonquin, Joey Barzan, nạn nhân bị Galt tấn công.
– Nhiên liệu thay thế sử dụng cho máy bay phản lực.
– Dự định tấn công căn cứ quân sự?
HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN: CĂN HỘ CỦA GALT,
1227 PHỐ SUFFOLK, KHU BỜ ĐÔNG HẠ
– Bút Bic SoftFeel ngòi nhỏ, mực màu xanh lam, giống mực được sử dụng trong thư yêu sách.
– Giấy dùng cho máy in loại thông thường màu trắng, khổ A4, giống với thư yêu sách.
– Phong bì loại thông thường cỡ 10, giống với phong bì đựng thư yêu sách.
– Kéo cắt bu lông, cưa kim loại có dấu vết phù hợp với dấu vết để lại tại hiện trường thứ nhất.
– Các trang in ra từ máy tính:
+ Các nghiên cứu y khoa về chứng ung thư và mối liên quan tới đường điện cao thế.
+ Các bài viết của Galt đăng trên blog, cùng một nội dung như trên.
– Giày cao cổ nhãn hiệu Albertson-Fenwick Model E-20 dành cho công nhân điện lực, cỡ 11, rãnh đế phù hợp với dấu vết để lại tại hiện trường thứ nhát.
– Thêm dấu vết của nhiên liệu thay thế dùng cho máy bay phản lực.
– Dự định tấn công căn cứ quân sự?
– Không phát hiện được manh mối rõ ràng nào về nơi hắn có thể đang ẩn náu hay những địa điểm tấn công tiếp theo.
HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN: TRẠM MH-7 CỦA ALGONQUIN PHỐ 119 MẠN ĐÔNG, KHU HARLEM
– Chai cháy: vỏ chai rượu vang 750ml, không thể xác định nguồn gốc.
– Xăng BP được sử dụng làm chất xúc tác.
Những dải vải bông, có lẽ từ một chiếc áo phông màu trắng, được sử dụng làm tim dầy, không thẻ xác định nguồn gốc.
THƯ YÊU SÁCH THỨ HAI
– Được đưa cho Bernard Wahl, giám đốc an ninh Algonquin.
– Đ| Oalt tấn công.
– Không có tiếp xúc cơ thể, nên không có dấu vết.
– Không có manh mối gì về địa điểm ẩn náu hay khu vực tấn công tiếp theo.
– Giấy và mực giống với loại tìm thấy trong căn hộ của Galt
– Giày có dấu vết của nhiên liệu thay thế dùng cho máy bay phản lực.
– Định tấn công căn cứ quân sự?
HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN: TÒA VĂN PHÒNG 235 MẠN TÂY PHỐ NĂM MƯƠI TƯ
– Các nạn nhân (đâ tử vong): + Larry Fỉshbein, thành phố New York, nhân viên kế toán.
+ Robert Bodine, thành phố New York, luật sư.
+ Franklin Tucker, Paramus, New Jersey, nhân viên bán hàng.
– Một dấu vân tay của Raymond Galt.
– Cáp Bennington và bu lông có chốt hãm, cùng loại ở các hiện trường khác.
– Hai thiết bị chuyển mạch tự chế.
+ Một để cắt điện cáp cho thang máy.
+ Một để hoàn thành mạch đỉện và làm buồng thang máy nhiễm điện.
– Bu lông và dây điện nhỏ hơn nối bảng điều khiển vớỉ thang máy, không thể truy nguyên.
– Giày các nạn nhân ngấm nước.
– Dấu vết:
+ Thảo mộc Trung Quốc, sâm và kỷ tử.
+ Dây tóc (có kế hoạch sử dụng thiết bị hẹn giờ thay cho thiết bị điều khiển từ xa trong các vụ tấn công sắp tới? )
+ Sợi vải bông bền chắc màu xanh lá cây sẫm.
– Chứa đựng dấu vết của nhiên liệu thay thế dùng cho máy bay phản lực.
– Dự định tấn công cân cứ quân sự?
+ Sợi vải bông bền chắc màu nâu.
– Chứa đựng dấu vết của nhiên liệu diesel.
– Chứa đựng dấu vết của thảo mộc Trung Quốc.
HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN: NGÔI TRƯỜNG BỎ HOANG, CHINATOWN
– Cáp Bennington, giống hệt loại được dùng ở các hiện trường khác.
– Máy phát điện, Power Plus của Công ty Sản xuất Williams-Jonas, ăn trộm từ công trường xây dựng ở Manhattan.
– Máy ghi âm kỹ thuật số, nhãn hiệu Sanoya, ghi âm một đoạn từ Chương trình ti vi. Truyền hình cáp.
– Thêm dấu vết taramasalata.
– Đèn pin Brite-Beam.
– Không thể truy nguyên.
– Sợi dây dài 183cm treo đèn pin.
– Không thể truy nguyên.
– Dấu vết, liên quan tới khu vực xung quanh Tòa Thị chính:
+ Thạch anh và chốt làm sạch đồng amonl clorua.
+ Bụi sành, tương tự ở các kiến trúc mặt tiền trong khu vực.
+ Bụi cẩm thạch trắng.
– Tóc, dài 23cm, màu vàng, xịt keo, của người dưới 50 tuổi, có thể là phụ nữ.
– Tóc, dài 0,9cm, màu nâu, của người dưới 50 tuổi.
THƯ YÊU SÁCH THỨ BA
– Gửi qua email.
– Không thể truy nguyên, sử dụng một proxy ở châu Âu.
Nhưng hóa ra Rhyme đã sai.
Đúng như anh vẫn cảm thấy, chứng cứ – kèm theo tất cả các khía cạnh khác trong vụ án này – hoàn toàn chưa đầy đủ. Nhưng anh đã sai ở chỗ chìa khóa để làm sáng tỏ điều bí ẩn sẽ không được tìm thấy trên những tấm bảng xung quanh anh. Mà nó đang ào vào phòng thí nghiệm ngay lúc bấy giờ, cùng với Thom, trong bộ dạng một người đàn ông cao lêu đêu, mồ hôi mồ kê, da đen, mặc bộ quần áo màu xanh lá cây tươi roi rói.
Lấy lại hơi thở, Fred Dellray gật đầu chào nhanh tất cả mọi người trong phòng, rồi phớt lờ họ khi sải bước tới trước Rhyme. “Tôi cần đưa ra giả thiết này, Lincoln. Và anh sẽ nói tôi nghe xem nó có hợp lý không.”
“Fred.” McDaniel bắt đầu. “Cái quái quỷ gì…”
“Lincoln?” Dellray nhắc lại.
“Tất nhiên rồi, Fred. Nói đi.”
“Anh nghĩ thế nào về giả thiết Ray Galt không phải con người thật. Anh ta đã chết, theo tôi thì chết hai ngày nay rồi. Một kẻ khác dàn dựng toàn bộ sự việc này. Ngay từ đầu.”
Rhyme im lặng giây lát – tình trạng mất phương hướng do ảnh hưởng của cơn bệnh làm chậm quá trình phân tích ý tưởng Dellray vừa đưa ra. Nhưng cuối cùng, anh mỉm một nụ cười yếu ớt và nói, “Tôi nghĩ thế nào ư? Ý tưởng cực kỳ xuất sắc. Thế đấy.”