Lưới Điện Tử Thần

CHƯƠNG 7



Sachs và Pulaski mặc bộ áo liền quần có mũ trùm màu xanh lơ nhạt hiệu Tyvek, đi bao chân, đeo mặt nạ và kính bảo hộ. Như Rhyme vẫn luôn hướng dẫn, mỗi người còn đeo một vòng cao su xung quanh bàn chân để” phân biệt dấu chân mình với dấu chân người khác. Rồi, đeo thắt lưng cài thiết bị phát radio/video cùng vũ khí, Sachs bước qua sợi dây màu vàng, động tác này khiến mấy cơn đau chợt xuất hiện, lan khắp các khớp xương bị viêm. Những ngày thời tiết ẩm ướt, hay sau một cuộc khám nghiệm hiện trường vất vả, sau khi chạy đuổi theo ai đó, đầu gối và hông lại đau nhức nhối, cô ngấm ngầm ghen tỵ với tình trạng tê liệt của Rhyme. Tất nhiên, cô không bao giờ nói ra ý nghĩ ấy, thậm chí chẳng bao giờ giữ ý nghĩ điên rồ ấy quá một hai giây, nhưng quả là có ý nghĩ ấy thật. Mọi hoàn cảnh đều có cái hay.
Sachs dừng lại trên vỉa hè. Cô đã hoàn toàn ở trong vành đai chết chóc. Hồi Rhyme còn phụ trách bộ phận Điều tra, bộ phận chịu trách nhiệm về khám nghiệm hiện trường của Sở Cảnh sát New York, anh từng yêu cầu nhân viên khám nghiệm hiện trường một mình, trừ trường hợp hiện trường đặc biệt rộng. Anh làm vậy là vì tâm lý người ta có xu hướng thiếu tận tâm hơn nếu làm việc với cộng sự, vì người ta nghĩ rằng cộng sự bao giờ cũng sẽ hỗ trợ, phát hiện những thứ gì mình bỏ sót. Một vấn đề nữa là nếu tội phạm để lại chứng cứ tại hiện trường thì nhân viên khám nghiệm hiện trường, dù mang trang phục bảo hộ kỹ lưỡng thế nào, cũng sẽ để lại dấu vết y như vậy. Những dấu vết ấy có thể phá hỏng vụ án. Càng đông người khám nghiệm hiện trường, nguy cơ càng cao.
Sachs nhìn vào ô cửa mở toang đen ngòm, khói vẫn đang bay ra, sau đấy nhìn khẩu súng ngắn đeo bên hông. Kim loại.
Những đường dây cắt điện rơi..
Chà, vào thôi, cô tự nhủ. Hiện trường càng được khám nghiệm sớm, chứng cứ tìm thấy càng có chất lượng. Những giọt mồ hôi, chứa đầy ADN hữu ích, sẽ bay hơi và không thể bị phát hiện. Những sợi vải, những sợi tóc quý giá bị thổi bay, trong khi những thứ chẳng liên quan lại trôi nổi vào hiện trường, gây bối rối và làm lạc hướng điều tra.
Sachs nhét microphone vào tai, bên dưới mũ trùm. Cô bật bộ phát đeo bên hông và nghe thấy giọng Rhyme. “… em có đó không, Sachs? Em… À, được rồi, em đã kết nối. Anh đang băn khoăn. Cái gì thế?” Anh hỏi.
Rhyme đang nhìn thấy chính những thứ mà Sachs đang nhìn, nhờ một camera nhỏ, độ nét cao cô đeo trước trán. Cô nhận ra mình đang vô tình nhìn vào cái lỗ cháy xuyên thủng cây cột. Cô giải thích cho anh nghe sự việc đã xảy ra: tia lửa điện, con mưa những giọt kim loại nóng chảy.
Rhyme im lặng một chút. Rồi anh nói, “Thứ vũ khí ghê gớm quá… Thôi, bắt đầu đi. Khám nghiệm theo ô bàn cờ.”
Có một vài phương pháp khám nghiệm hiện trường. Một phương pháp phổ biến là bắt đầu từ góc ngoài cùng, rồi tiến dần vào theo những vòng tròn đồng tâm cho tới khi vào đến chính giữa.
Nhưng Lincoln Rhyme thích phương pháp khám nghiệm theo ô bàn cờ hơn. Đôi khi anh bảo học trò là hãy hình dung phương pháp khám nghiệm theo ô bàn cờ như thể cắt một bãi cỏ vậy – chỉ có điều ta tiến hành làm hai lần. Di chuyển thẳng từ bên này sang bên kia hiện trường, rồi quay đầu, bước qua bên trái hay bên phải độ một bước, di chuyển trở về phía lúc hãy đã xuất phát. Di chuyển hết hiện trường theo chiều này xong thì di chuyển theo chiều vuông góc, lặp lại cách thức thực hiện.
Rhyme khăng khăng đòi hỏi sự kỹ lưỡng quá mức ấy vì lần khám nghiệm hiện trường đầu tiên mang ý nghĩa quyết định. Nếu lần khám nghiệm đầu tiên ta làm đại khái thì ta bất giác đã tự thuyết phục mình rằng chẳng có gì mà tim kiếm cả. Những lần khám nghiệm tiếp theo hầu như chỉ vô ích.
Sachs ngẫm nghĩ về sự mỉa mai này: Cô chuẩn bị bước đi theo ô bàn cờ ở một phần của hệ thống ô bàn cờ rất khác biệt (Ý nói lưới điện). Cô sẽ phải chia sẻ điều này với Rhyme, nhưng để sau. Bây giờ, cô cần tập trung chú ý.
Công việc khám nghiệm hiện trường là cuộc săn mồi của những động vật ăn xác thối. Mục tiêu đơn giản thôi: tìm thấy cái gì đó, bất cứ cái gì thủ phạm để lại – và cả cái gì đó thủ phạm đáng lẽ sẽ để lại. Nhà hình sự học người Pháp, Edmond Locard, cách đây gần một trăm năm đã nói rằng mỗi khi một tội ác diễn ra, bao giờ cũng có quá trình trao đổi dấu vết giữa thủ phạm với hiện trường hoặc nạn nhân. Có thể nó hầu như không tài nào nhìn thấy được, tuy nhiên nó hiện diện ở đó để ta tìm ra, nếu ta biết cách tìm, và nếu ta kiên nhẫn, cẩn thận.
Amelia Sachs lúc bấy giờ bắt đầu cuộc tìm kiếm, trước hết là từ bên ngoài trạm điện, với thứ vũ khí đã được sử dụng: sợi cáp buông lòng thòng.
“Trông có vẻ như hắn..
“Hoặc bọn chúng..” Rhyme đính chính lại qua bộ tai nghe. “Nếu Công lý cho đứng đằng sau vụ việc này, bọn chúng có lẽ có số lượng thành viên kha khá đấy.”
“Chính xác, Rhyme.” Anh đang cố gắng đảm bảo rằng Sachs không bị rơi vào vấn đề hàng đầu đối với các nhân viên khám nghiệm hiện trường: thiếu tư duy mở. Một thi thể, máu và một khẩu súng ngắn nóng hổi gợi ý rằng nạn nhân đã bị bắn chết. Nhưng nếu để đầu óc mình tin tưởng vào tình huống đó thì người ta có thể sẽ bỏ qua con dao thực tế đã được sử dụng.
Sachs tiếp tục, “Ờ, hắn hoặc bọn chúng đã thả sợi cáp từ bên trong ra. Nhưng em vẫn nghĩ tại thời điểm nào đó, hắn phải ở vỉa hè bên ngoài này, kiểm tra khoảng cách và góc độ.”
“Để nhằm vào chiếc xe buýt?”
“Chính xác.”
“Được rồi, tiếp tục đi… coi như, từ vỉa hè.”
Sachs tiếp tục nhìn chăm chăm xuống đất. “Mẩu thuốc lá, nắp lon bia. Tuy nhiên, không có gì gần cửa chính hay cửa sổ mà qua đó sợi cáp buông xuống.”
“Đừng mất công để ý tới chúng. Hắn sẽ không uống hay hút gì trong lúc hành động đâu. Hắn quá thông minh… nếu xem xét cách hắn phối hợp tất cả các chi tiết với nhau. Nhưng sẽ có dấu vết ở chỗ hắn đứng. Sát tòa nhà”.
“Có cái bậc, thấy không?” Sachs nhìn xuống một bậc đá thấp, cao hơn vỉa hè gần một mét. Mặt bậc đá cắm chấn song nhọn đầu để lũ bồ câu, và người, không đứng lên trên được, nhưng có thể tì chân vào nếu muốn với lấy gì đó ở ô cửa sổ kia. “Có mấy dấu chân, trên bậc đá. Chẳng đủ rõ ràng để chụp tĩnh điện.”
“Hãy xem xem thế nào.”
Sachs cúi đầu và vươn người về phía trước. Rhyme đang nhìn vào thứ mà cô đang nhìn: những hình dạng có lẽ là dấu mũi giày nằm sát tòa nhà.
“Em không chụp được à?”
“Không, không đủ rõ ràng. Nhưng nhìn chúng, em có thể bảo đó là dấu giày đàn ông. Rộng, mũi vuông, em chỉ quan sát được đến thế. Không nhìn thấy gót và đế. Nhưng nó nói với chúng ta rằng nếu “bọn chúng” dính dáng tới vụ việc, thì có lẽ chỉ có “hắn” ở bên ngoài bố trí cái bẫy.”
Sachs tiếp tục kiểm tra vỉa hè nhưng không phát hiện được bằng chứng vật thể nào xem ra có liên quan.
“Hãy thu thập các dấu vết, Sachs, rồi khám xét bên trong trạm điện.”
Theo hướng dẫn của Sachs, hai kỹ thuật viên từ Queens sang đã bố trí những bóng đèn halogen công suất lớn ngay bên trong khung cửa. Cô chụp ảnh, thu thập các dấu vết trên vỉa hè và trên bậc đá gần sợi cáp.
“Và đừng quên…” Rhyme cất lời.
“Những chứng cứ lớp dưới.”
“A, đi trước anh một bước rồi đấy, Sachs.”
Không hẳn, cô nghĩ, vì anh đã là ngươi thầy của cô bao nhiêu năm nay, và nếu tới bây giờ cô vẫn chưa tiếp thu được các nguyên tắc khám nghiệm hiện trường của anh thì cô chẳng nên theo đuổi công việc này làm gì. Cô di chuyển sang khu vực ở ngay bên ngoài vành đai chết chóc và tiến hành rà soát lần thứ hai… Những chứng cứ lớp dưới, những mẫu đối chứng để so sánh với những mẫu đầu tiên. Bất kỳ sự khác biệt nào giữa những thứ thu thập được bên ngoài hiện trường và ở vị trí được xác định là đối tượng đã đứng sẽ có thể nói lên đặc điểm riêng biệt nào đó của đối tượng hoặc nơi đối tượng cư trú.
Tất nhiên, có thể không… nhưng đó là bản chất của công tác khám nghiệm hiện trường. Chẳng bao giờ có gì chắc chắn cả, tuy nhiên bạn vẫn làm những gì có thể và những gì phải làm.
Sachs đưa những chứng cứ đã bỏ vào túi nhựa cho các kỹ thuật viên. Cô vẫy người nhân viên giám sát của Algonquin lúc nãy cô đã trao đổi.
Người nhân viên giám sát thực địa, vẫn nghiêm trang y như lúc nãy, vội vã đi tới. “Sao, Thám tử?”
“Bây giờ, tôi sẽ khám xét bên trong kia. Ông có thể cho tôi biết chính xác tôi phải khám xét cái gì không – hắn đã bố trí sợi cáp như thế nào? Tôi cần xác định được nơi hắn đã đứng, những thứ hắn đã động vào.”
“Để tôi tìm một người làm công việc bảo dưỡng thường lệ ở đây.” Ông ta nhìn đám công nhân, rồi gọi một người mặc đồng phục quần yếm màu xanh lam thẫm của Liên hợp Điện lực Algonquin. Mũ bảo hộ màu vàng. Người công nhân ném điếu thuốc lá đang hút sang một bên, đi tới chỗ họ. Nhân viên giám sát thực địa giới thiệu Sachs và người công nhân với nhau, sau đấy nói lại với anh ta yêu cầu của Sachs.
“Vâng, thưa cô.” Anh ta nói, ánh mắt rời khỏi trạm điện đi du ngoạn ngang qua ngực Sachs, tuy hầu hết thân hình cô đã được giấu kín trong bộ áo liền quần rộng lùng bùng màu xanh lơ hiệu Tyvek. Cô cũng có ý nghĩ muốn liếc xuống cái bụng ngoại cỡ của anh ta nhưng tất nhiên cô không làm thế. Chó vốn vẫn tè ở chỗ người ta không muốn chúng tè, ai suốt ngày nhắc nhở được.
Cô hỏi, “Tôi có thể xem vị trí hắn kết nối sợi cáp với nguồn điện không?”
“Vâng, tất cả đều được bộc lộ”. Người đàn ông bảo Sachs. “Tôi nghĩ chỗ hắn kết nối sát các aptomat. Chúng nằm ở tầng chính. Là tầng phía bên tay phải khi cô đi vào.”
“Hãy hỏi anh ta xem đường dây có điện không khi đối tượng thực hiện đấu nối.” Rhyme nói vào tai Sachs. “Chúng ta sẽ biết được điều gì đó về kỹ năng của đối tượng.”
Cô hỏi người công nhân.
“Ồ, có. Hắn đã đấu nối vào một đường dây có điện.”
Sachs sửng sốt. “Làm thế nào mà hắn làm được?”
“Sử dụng thiết bị bảo hộ cá nhân. Ngoài ra, bảo đảm rằng hắn được cách điện cực kỳ tốt”.
Rhyme nói thêm, “Anh có một câu hỏi nữa cho anh ta. Hỏi anh ta xem làm sao anh ta hoàn thành được công việc nếu mất lắm thời gian nhìn chằm chằm vào ngực phụ nữ như thế!”.
Sachs giấu một nụ cười.
Nhưng trong lúc cô bước về phía cửa trạm điện, dọc theo vỉa hè chi chít những chấm kim loại nóng chảy, mọi sự khôi hài đều biến mất. Cô dừng bước, quay lại nói với người nhân viên giám sát, “Tôi chỉ muốn khẳng định một lần cuối cùng. Điện đã cắt rồi, phải không?” Cô hất đầu chỉ trạm điện. “Không còn điện trong các dây ấy.”
“Ồ, vâng.”
Sachs quay lưng bước tiếp.
Rồi người nhân viên giám sát nói thêm, “Trừ điện trong ắc-quy.”
“Ắc-quy à?” Sachs dừng lại, ngoảnh nhìn.
Người nhân viên giám sát giải thích, “Đấy là điện vận hành các aptomat. Nhưng nó không thuộc lưới điện. Nó không kết nối với sợi cáp”.
“Được rồi. Ăc-quy. Nó có thể gây nguy hiểm không?” Những vết thương tròn xoe như những chấm bi bao phủ thân hình người hành khách cứ hiện lên.
“Ờ, có chứ.” Đây xem ra là một câu hỏi thật ngây thơ. Người nhân viên giám sát nói thêm, “Nhưng các cực được bọc mũ cách điện”.
Sachs quay bước về phía trạm điện. “Em vào bên trong đây, Rhyme.”
Cô tiến đến, nhận ra rằng, bởi một lẽ gì đó, những bóng đèn công suất lớn kia khiến không gian bên trong thậm chí còn đe dọa hơn cả lúc nó tối om.
Cánh cửa mở vào địa ngục, cô nghĩ.
“Anh chóng hết cả mặt, Sachs. Em đang làm gì?”
Cô nhận ra việc mình đang làm là do dự, nhìn xung quanh, dán ánh mắt vào khung cửa mở toang. Cô cũng nhận ra rằng, tuy Rhyme không trông thấy, các ngón tay mình đang vô thức cào vào lớp biểu bì dưới đầu móng ngón cái. Đôi khi, hành động này khiến lớp biểu bì ấy xước ra, và cô tự ngạc nhiên khi nhìn thấy những giọt hoặc những vệt máu. Nhưng bây giờ, chắc chắn cô không muốn làm rách lớp găng cao su, để dây dấu vết của chính mình lên hiện trường. Cô duỗi thẳng các ngón tay và nói, “Em chỉ đang tập trung chú ý thôi.”
Nhưng họ đã biết nhau quá lâu rồi, chẳng ai dối ai được. Rhyme hỏi, “Có chuyện gì thế?”
Sachs hít sâu một hơi. Cuối cùng, cô trả lời, “Phải thú thực là em thấy sờ sợ. Cái tia lửa điện ấy. Cái cách nạn nhân đã chết. Nó khá kinh khủng.”
“Em còn muốn chần chừ à? Hãy gọi vài chuyên gia của Algonquin. Họ có thể đi cùng em trong lúc em xem xét các thứ.”
Sachs có thể nhận ra qua giọng nói của Rhyme, qua sắc giọng, qua tốc độ lời nói, rằng anh không muốn cô làm như thế. Đó là một trong những điều cô yêu ở anh: Sự trân trọng anh bày tỏ chẳng bằng cái cách nuông chiều cô. Ở nhà, khi ăn tối, lúc lên giường, họ hai người là một. Nhưng bây giờ, họ là chuyên gia tội phạm học và là cảnh sát khám nghiệm hiện trường.
Sachs nghĩ tới câu châm ngôn của riêng mình, do cha cô truyền lại, “Khi ta hành động, sẽ không kẻ nào bắt được ta.”
Thế thì, hành động thôi!
“Không, em không sao.” Amelia Sachs bước vào địa ngục.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.