Những đường xoáy 3D của vân tay hình thành nên chẳng phải để giúp các chuyên gia khám nghiệm hiện trường xác định danh tính và kết án những kẻ phạm tội, mà đơn giản chỉ là để các ngón tay của chúng ta có độ bám chắc chắn, để bất cứ thứ gì chúng ta đang cầm, dù quý giá hay cần thiết hay không được thừa nhận, sẽ không tuột khỏi cái nắm lỏng lẻo của con người.
Chúng ta, suy cho cùng, đã mất hết móng vuốt, và sức mạnh cơ bắp của chúng ta – xin lỗi những thành phần hâm mộ việc luyện tập thể hình – thực sự tầm thường so với mọi động vật hoang dã có trọng lượng tương tự.
Những dạng xoắn ốc khác nhau trên ngón tay (cả ngón chân nữa) được gọi một cách chính thức là gợn ma sát, cách gọi này cho thấy ý nghĩa đích thực của chúng.
Lincoln Rhyme thoáng đưa mắt sang Amelia Sachs, người đang ở cách anh ba mét, co mình nằm ngủ trên chiếc ghế dựa, trong điệu bộ toại nguyện và e lệ lạ lùng. Mái tóc đỏ dày dặn buông xuống, che đi nửa gương mặt cô.
Gần giữa đêm.
Anh quay lại với dòng suy nghĩ về “gợn ma sát”. Chúng xuất hiện trên các ngón, bao hàm cả ngón tay lẫn ngón chân, và trong lòng bàn tay, gan bàn chân. Người ta có thể dễ dàng bị kết tội qua dấu gan bàn chân cũng y như qua một dấu vân tay vậy, tuy hoàn cảnh phạm tội liên quan tới một dấu gan bàn chân chắc chắn là hơi hiếm.
Từ lâu, người ta đã biết về tính riêng biệt của dấu vân tay – từ tám trăm năm trước chúng đã được dùng để điểm chỉ vào các giấy tờ chính thức – nhưng phải tới những năm 1890 chúng mới được thừa nhận là một cách để liên hệ kẻ phạm tội với tội ác. Bộ phận phụ trách dấu vân tay thuộc cơ quan thực thi pháp luật đầu tiên trên thế giới có trụ sở ở Calcutta, Ấn Độ, thành lập dưới sự chỉ đạo của ngài Edward Richard Henry, tên của ngài đã được đặt cho hệ thống phân loại dấu vân tay mà cảnh sát sử dụng trong suốt một trăm năm sau đó.
Lý do cho dòng suy tưởng của Rhyme về dấu vân tay là anh hiện tại đang nhìn những dấu vân tay của chính mình. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm.
Lần đầu tiên kể từ vụ tai nạn ở nhà ga tàu điện ngầm.
Cánh tay phải của anh giơ lên, duỗi ra ở khuỷu, bàn tay gập lại ở cổ tay, đối diện với mắt, và anh đang chăm chú nhìn những dấu vân tay. Khắp người anh rộn ràng, đầy ắp nỗi xúc động, y như khi anh tìm thấy sợi vải bé xíu ấy, cái dấu vết mơ hồ ấy, dấu vân tay mờ nhạt trong bùn cho phép anh kết nối một đối tượng tình nghi với hiện trường vụ án.
Ca mổ đã thành công: Nó cấy những sợi dây điện, có chức năng của chiếc máy tính, được điều khiển bằng các cử động của đầu và vai anh, phía trên khu vực bị thương tổn. Anh đã căng cơ cổ và vai để thận trọng nâng cánh tay lên, thận trọng xoay cổ tay. Trông thấy dấu vân tay của chính mình là giấc mơ bao lâu nay anh hằng ôm ấp, anh đã quyết định rằng nếu có ngày nào đó anh lại cử động được cánh tay, việc đầu tiên anh làm là ngắm những vòng xoắn ấy.
Tất nhiên, phía trước vẫn còn nhiều giai đoạn trị liệu. Cũng còn những lần mổ tiểp theo. Định tuyến lại dây thần kinh, việc này hầu như không có tác dụng đối với chức năng vận động, nhưng có tác dụng cải thiện một số chức năng khác. Rồi trị liệu tế bào gốc. Cả phục hồi thể chất nữa: các bài tập vận động khớp, các bài tập với máy chạy bộ và xe đạp.
Tất nhiên, vẫn còn các hạn chế – nên công việc của Thom sẽ không hề bị đe dọa. Thậm chí nếu anh cử động được cánh tay và bàn tay, hay nếu phổi anh hoạt động tốt hơn bao giờ hết và những sự vụ bên dưới thắt lưng sẽ có thể được như người bình thường, thì anh vẫn bị mất cảm giác, vẫn có nguy cơ nhiễm trùng huyết và vẫn không đi được – chắc hẳn mãi mãi không đi được, hoặc ít nhất nhiều năm nữa sẽ chưa đi được. Nhưng điều này không khiến Rhyme phiền muộn. Anh đã thấy từ công việc khám nghiệm hiện trường của mình là người ta hiếm khi đạt được một trăm phần trăm những gì mình tìm kiếm. Nhưng thông thường, bằng lao động chăm chỉ và trùng hợp ngẫu nhiên – lẽ dĩ nhiên, theo quan điểm của Rhyme, không bao giờ có cái gọi là “may mắn” – những gì người ta đạt được là đủ… cho việc xác định danh tính, cho việc bắt giữ và kết tội. Ngoài ra, Lincoln Rhyme là người đàn ông cần có các mục tiêu. Anh sống để thực hiện những nhiệm vụ nhất định tại những thời điểm nhất định, để – như Sachs biết rất rõ – thỏa mãn những khao khát. Cuộc đời anh sẽ trở nên vô ích nếu không có chỗ nào đó để đi tới, luôn luôn là chỗ nào đó để đi tới.
Bây giờ, một cách thận trọng, bằng những cử động khẽ khàng ở cổ, anh xoay lòng bàn tay lại và hạ nó xuống giường, giống như chú ngựa con vừa chào đời đang loay hoay phối hợp cơ để đặt được vó xuống đất.
Rồi cảm giác kiệt sức và dư lượng của các thứ thuốc xâm chiếm anh. Rhyme chắc chắn mình đã sẵn sàng chìm vào giấc ngủ. Nhưng anh quyết định trì hoãn lệnh ân xá đó thêm mấy phút, dừng ánh mắt trên gương mặt Amelia Sachs – gương mặt xanh xao lộ một nửa sau những lọn tóc, như mảnh trăng giữa kỳ nguyệt thực.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.