Ngay khi họ rời khỏi, tôi lao vào trong nhà. Trên giá treo áo khoác, tạp dề Rosaleen được vắt rúm ró lên trên trong lúc mợ vội vã chạy ra ngoài. Tôi vớ lấy nó và cho tay vào túi.
“Tamara, cô đang làm gì vậy?” Weseley đang đứng sát sau lưng tôi. “Có lẽ tôi nên chuẩn bị cho cô một cốc trà hay thứ gì đó để cô bình tĩnh lại… cái quái gì thế kia?”
Anh ta đang hỏi về lọ thuốc tôi cầm trên tay.
“Tôi hy vọng anh có thể nói cho tôi biết điều đó,” tôi đưa cho anh mấy viên thuốc. “Tôi bắt gặp Rosaleen cho chúng vào bữa sáng của mẹ tôi.”
“Cái gì? Ái chà, Tamara,” Weseley nói. “Bà ấy bỏ thuốc vào đồ ăn của mẹ cô?”
“Tôi thấy bà mở vỏ và trút thứ bột bên trong vào món cháo ngũ cốc, sau đó trộn đều. Bà ấy không biết tôi đã nhìn thấy bà ấy.”
“À, có thể chúng là thuốc được kê đơn.”
“Anh nghĩ thế à? Vậy chúng ta thử xem xem sao. Bất chấp việc Rosaleen thích giả bộ là tôi chẳng biết chút gì về việc dùng thuốc của mẹ tôi, tôi vẫn biết tên bà không phải là…” tôi đọc cái tên ghi trên lọ, “Helen Reilly.”
“Đó là mẹ Rosaleen. Để tôi xem nào,” anh ta cầm mấy viên thuốc từ tay tôi. “Chúng là thuốc ngủ.”
“Làm thế nào anh biết được?”
“Trên nhãn có ghi mà. Oxyzepam. Đó là thuốc ngủ. Bà ấy cho thứ này vào đồ ăn của mẹ cô à?”
Tôi nuốt khan, nước mắt trào ra.
“Cô tin chắc mình thấy bà ấy làm thế chứ?”
“Phải tôi tin chắc. Và suốt hai tuần qua mẹ tôi chẳng lúc nào ngừng ngủ cả. Li bì.”
“Mẹ cô có hay dùng chúng ko? Biết đâu mợ cô chỉ đang cố muốn giúp bà ấy?”
“Weseley, mẹ tôi bị mê man đến mức gần như chẳng nhớ nổi tên mình nữa, như thế không phải là giúp bà. Có vẻ như Rosaleen đang cố làm tình trạng mẹ tôi nặng thêm thì đúng hơn. Chuyện này rõ ràng làm tình trạng mẹ tôi nặng hơn.”
“Chúng ta cần nói cho ai đó biết.”
Cảm giác nhẹ nhóm khi nghe thấy hai từ chúng ta ùa tới như một đợt thủy triều.
“Tôi cần nói với ba tôi. Ông ấy sẽ nói với ai đó, được chứ?”
“Okay.”
Sau đó tôi cảm thấy thật nhẹ nhõm, rằng mình không còn đơn độc nữa. Tôi ngồi xuống cầu thang trong khi anh ta gọi điện cho ba mình để báo cho ông biết chuyện.
“Thế nào?” tôi bật dậy ngay khi anh ta gác máy.
“Họ đang ở cùng phòng với ba tôi, thế nên ông không thể nói gì về chuyện này được. Ba tôi chỉ nói ông sẽ để ý tới nó. Trong lúc chờ đợi, chúng ta chỉ việc giữ an toàn cho mấy viên thuốc này.”
“Okay,” tôi hít một hơi thật sâu. Chuyện gì phải đến sẽ đến. “Vậy anh giúp tôi lấy dụng cụ của Arthur nhé, làm ơn được không?”
“Cô cần nó để làm gì?” anh ta hỏi, vô cùng bối rối.
“Để phá khóa nhà kho.”
“Cái gì?!”
“Chỉ là …” tôi cố tìm lời phù hợp, “Làm ơn hãy giúp tôi. Chúng ta không có nhiều thời gian, tôi sẽ giải thích mọi thứ sau. Nhưng bây giờ anh làm ơn, làm ơn giúp tôi có được không? Mấy người họ chẳng mấy khi ra khỏi nhà, đây là cơ hôi duy nhất của tôi.”
Anh ta im lặng nghĩ ngợi hồi lâu. Vừa nghĩ vừa xoay xoay lọ thuốc trong tay. “Okay.”
Trong khi Weseley chạy vào ga ra kiêm nhà xưởng bên cạnh ngôi nhà, tôi sốt sắng đi đi lại lại ngoài vườn, hy vọng họ sẽ không quay về trước khi tôi có cơ hội tìm kiếm rõ ràng. Tôi ngừng bước đi để nhìn sang ngôi nhà một tầng, muốn xem xem liệu miếng thủy tinh đã phản chiếu ánh sáng thẳng vào phòng tôi có còn đó hay không. Nó đã biến mất. Nhưng có một vật trong vườn thu hút sự chú ý của tôi. Một cái hộp. Tôi bước lại gần hơn.
“Weseley,” anh ta lập tức nghe thấy âm sắc cảnh báo trong giọng nói của tôi liền quay lại nhìn theo hướng tay tôi chỉ.
“Cái gì thế?” anh ta hỏi.
Tôi sang đường để xem xét cái hộp. Weseley đi theo sau tôi. Nó được bọc ngoài bằng giấy nâu, phía trước mặt có ghi tên tôi cùng một dòng chữ “Chúc mừng sinh nhật.”
Tôi cầm hộp lên và nhìn quanh. Chẳng có ai sau những ô cửa sổ, hay đằng sau tấm rèm lưới. Tôi gỡ giấy nâu ra, và bên trong là cái hộp đựng giày màu nâu. Tôi nhắc nắp hộp lên, trong đó là chùm đèn xoay bằng thủy tinh đẹp nhất trên đời, những chuỗi những viên hình giọt nước mắt đủ cỡ xen lẫn những khối hình trái tim, được nối với nhau bằng những sợi dây xỏ qua những cái lỗ nhỏ tí xíu. Tôi nhắc nó lên, giơ nó ra trước ánh sáng, chùm đèn sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời và quay tròn trong làn gió hây hẩy. Tôi mỉm cười và nhìn vào trong nhà để vẫy tay, để mỉm cười, để cảm ơn một người nào đó.
Chẳng có gì.
“Cái quái gì…” Weseley nói trong lúc ngắm nghía món đồ thủy tinh.
“Một món quà. Dành cho tôi.”
“Tôi không biết hôm nay là ngày sinh nhật cô,” anh cầm lấy chùm đèn và xem xét.
“À, bà ấy thì có.”
“Ai cơ? Mẹ Rosaleen à?”
“Không…” tôi nhìn chăm chăm vào ngôi nhà một tầng thêm lần nữa. “Người phụ nữ.”
Anh ta lắc đầu. “Vậy mà tôi đã nghĩ cuộc sống của mình thật kì lạ rồi cơ đấy. Người phụ nữ đó là ai nhỉ? Ba mẹ tôi không nghĩ còn ai đó ngoài bà Reilly sống ở đó.”
“Tôi không biết nữa.”
“Chúng ta hãy gặp bà ấy. Để nói lời cảm ơn.”
“Anh nghĩ tôi nên làm thế?”
Anh ta đảo mắt. “Cô nhận được món quà, đó là cơ hội hoàn hảo để đi vào trong kia.”
Tôi cắn môi và nhìn vào ngôi nhà.
“Trừ phi cô sợ, tất nhiên rồi.”
Và chính xác như thế.
“Không, ngay lúc này chúng ta có nhiều việc quan trọng hơn để làm,” tôi nói. Tôi băng qua đường, hối hả đi ra vườn sau để tới chỗ ga ra.
“Cô biết đấy, xơ Ignatius đã phát điên khi cố gắng tìm gặp cô. Hôm trước cô cứ thế bỏ chạy, cô làm bà ấy phát hoảng. Cô làm cả hai chúng tôi phát hoảng.”
Tôi liếc mắt nhìn Weseley trong khi anh ta lục lọi trong hộp dụng cụ để tìm thứ thích hợp cho việc phá khóa.
“Tôi đã nghe nói về những gì xảy ra. Cô không sao chứ?”
“Vâng, tôi ổn cả. Tôi không muốn nói về chuyện đó,” tôi gắt gỏng. “Cảm ơn anh,” tôi nói thêm nhẹ nhàng hơn.”
“Nghe nói bạn trai cô gặp chút rắc rối.”
“Tôi đã nói tôi không muốn nhắc tới chuyện đó rồi cơ mà,” tôi gắt lên. “Và anh ta không phải bạn trai tôi.”
Nghe đến đó, anh ta bắt đầu phá lên cười. “Vậy thì cô biết tôi cảm thấy thế nào rồi đấy.”
Bất chấp tất cả những gì đã xảy ra sáng hôm đó, tôi mỉm cười.
Weseley không mất mấy thời gian để mở khóa. Chúng tôi bước vào trong, ngay lập tức tôi đối diện với cuộc sống cũ của mình, tất cả chúng đang được xếp chồng đống lên nhau, lẫn lộn chẳng theo thứ tự nào, phòng bếp lẫn vào phòng khách, phòng ngủ của tôi trùm lên phòng chơi, phòng ngủ dành cho khách lẫn với khăn tắm trong buồng tắm. Chúng ăn nhập với nhau cũng hoàn hảo như ý nghĩ trong đầu tôi vậy. Ghế xa lông bọc da, ti vi plasma, những món đồ có hình dạng kì cục trông có vẻ rẻ tiền và vô hồn sau thế giới tôi đã sống trong vài tháng vừa qua.
Điều làm tôi bận tâm nhiều hơn là được thấy tận mắt thứ Rosaleen và Arthur giấu trong này. Weseley lật tấm phủ bụi ở tận trong cùng nhà kho lên, tôi thực sự chẳng bị ấn tượng mấy. Chỉ lại thêm những món đồ cũ, bị thời gian hủy hoại, bị mặc cho mối xông mọt gặm. Tôi không rõ mình trông đợi cái gì nữa – có thể là một hai xác chết. Một máy in tiền, những hộp đựng súng đạn, một lối đi bí mật xuống tầng hầm của Rosaleen. Bất cứ thứ gì, ngoại trừ đống đồ đạc mối mọt nặng mùi này.
Tôi quay lại chỗ đồ đạc của mình. Weseley liền đi theo, thỉnh thoảng lại ô a trước vài món đồ, trong khi lượn quanh thùng hộp. Tạm nghỉ giữa cuộc điều tra phần cuộc sống giấu kín của Arthur và Rosaleen, chúng tôi ngồi xuống cái ghế xa lông từng được kê trong phòng khách của gia đình tôi, ngắm qua quyển album ảnh của tôi trong khi Weseley bật cười trước những giai đoạn khác nhau trên chặng đường vị thành niên của tôi.
“Đây là ba cô à?”
“Phải,” tôi mỉm cười, ngắm khuôn mặt tươi vui rạng rỡ của ông, ông đang đứng trên sàn nhảy tại một đám cưới của người bạn. Ba rất thích nhảy. Ông nhảy rất cừ.
“Ba cô trẻ quá.”
“Phải.”
“Chuyện gì xảy ra vậy?”
Tôi thở dài.
“Cô không cần phải kể về nó nều không muốn.”
“Không có gì,” tôi nuốt khan. “Chỉ là ông ấy vay nhiều tiền quá và không có tiền trả. Ba tôi là nhà đầu tư bất động sản và rất thành công. Ông ấy có tài sản khắp thế giới. Mẹ con tôi không biết rõ, nhưng ba gặp rắc rối lớn. Ông bắt đầu bán đi mọi thứ để trả nợ.”
“Ba cô không nói với cô việc ông ấy gặp rắc rối sao?”
Tôi lắc đầu. “Ông ấy quá kiêu hãnh. Ông ấy sẽ có cảm giác làm mẹ con tôi thất vọng.” Mắt tôi ướt nhòa, “Nhưng chắc tôi cũng sẽ chẳng buồn quan tâm. Thực sự là thế.” Tôi phản đối quá nhiều. Tôi có thể hình dung cảnh ba đang cố nói cho tôi biết ba đang muốn bán đi mọi thứ. Tất nhiên tôi hẳn sẽ quan tâm, hẳn tôi sẽ rên rẩy và ngúng nguẩy, tôi sẽ chẳng chịu hiểu, tôi sẽ thấy bẽ mặt về những gì mọi người nghĩ về chúng tôi. Tôi chắc sẽ thấy nhớ Marbella vào mùa hè, Verbiers vào dịp Năm Mới. Chắc tôi sẽ gắt vào mặt ông, gọi ông là đủ thứ trên đời, và chắc là tôi sẽ đùng đùng bỏ vào phòng và đóng sầm cửa lại. Hồi đó tôi đúng là một con heo tham lam. Tôi ước gì ba tôi đã cho tôi cơ hội để hiểu, tôi ước gì ông đã bảo tôi ngồi xuống, nói khó khăn ông gặp phải và đáng ra chúng tôi cần cùng nhau vượt qua nó. Tôi hẳn sẽ chấp nhận sống ở bất cứ nơi nào, trong một căn phòng, trong một tòa lâu đài đổ nát ngay bây giờ nếu điều đó có nghĩa là tất cả chúng tôi được ở bên nhau.
“Giờ tôi chẳng bận tâm tới chuyện bị mất thứ gì nữa, tôi muốn có ba ở bên mỗi ngày hơn,” tôi thút thít. “Giờ thì mẹ con tôi đã mất hết mọi thứ, kể cả ông. Ý tôi là, có gì đáng chứ. Khi bọn họ tịch thu ngôi nhà, tôi nghĩ đó là đòn chí tử với ông ấy.” Tôi nhớ lại khi ông ấy đánh golf cùng mẹ, khuôn mặt ông ấy đầy nghiêm túc khi ông ấy nhìn ra xa dõi theo trái banh của mình. “Họ có thể lấy đi tất cả, nhưng không phải là ngôi nhà.”
Tôi giở sang trang và cả hai chúng tôi cùng bật cười. Trong ảnh là tôi, mất cả hai răng cửa, đang ôm lấy chuột Mickey trong Disney World.
“Cô không… tôi không biết nữa, giận ông ấy chứ? Nếu ba tôi làm thế, tôi sẽ…” Weseley lắc đầu, không tài nào hình dung nổi điều đó.
“Có chứ,” tôi đáp. “Tôi đã rất giận ba trong một thời gian dài. Nhưng trong mấy tuần vừa rồi, tôi đã nghĩ về những điều chắc hẳn ông ấy phải trải qua. Thậm chí cả vào những ngày tệ hại nhất đời mình, tôi cũng không thể nào làm điều ông ấy đã làm, chắc hẳn ba đã phải chịu đựng áp lực khủng khiếp lắm, chắc ông phải khổ sở lắm. Hẳn ông ấy đã cảm thấy bị mắc kẹt, hẳn ông ấy không còn muốn ở lại thêm nữa. Và… vậy đấy, khi ông ấy mất họ không thể lấy thêm gì nữa. Mẹ và tôi được bảo vệ.”
“Cô nghĩ ông làm thế vì cô?”
“Tôi nghĩ ba làm thế vì rất nhiều lí do.Vì mọi lí do sai lầm, nhưng với ông, tất cả chúng đều đúng đắn.”
“À, tôi nghĩ cô rất dũng cảm,” Weseley nói và tôi ngước lên nhìn anh ta, cố không òa khóc.
“Tôi chẳng cảm thấy dũng cảm chút nào cả.”
“Có đấy,” anh ta nói. Mắt chúng tôi gặp nhau.
“Tôi đã phạm phải những lỗi lầm ngu ngốc đáng hổ thẹn nhất trên đời,” tôi lẩm bẩm.
“Cái đó cũng chẳng sao. Chúng ta ai cũng phạm sai lầm cả,” anh ta mỉm cười tươi tắn.
“À, tôi không nghĩ tôi đã phạm sai lầm nhiều bằng anh,” tôi nói cố thêm, cố làm không khí nhẹ nhõm hơn. “Dường như anh luôn phạm những sai lầm khác nhau với những người khác nhau mỗi tối.”
Anh ta bật cười. “Okay, hãy xem Rosaleen giấu cái gì dưới này nào.”
Không tài nào rời mắt khỏi những quyển album ảnh, tôi bắt đầu xem sang một quyển khác và tìm ra những bức ảnh chụp hồi còn bé của mình. Tôi đắm chìm trong thế giới khác, trong quãng thời gian đã mất. Ở đâu đó đằng sau tôi có thể nghe thấy Weseley đang bình phẩm về những gì anh ta tìm thấy, nhưng tôi mặc kệ anh ta. Thay vì thế, tôi nhìn chằm chằm vào ba đẹp đẽ cuả tôi, thật hạnh phúc phong độ, và cả mẹ nữa. Rồi đến bức ảnh chụp lễ rửa tội của tôi. Chỉ có tôi và mẹ. Tôi thật bé bỏng trong vòng tay mẹ, đến nỗi tất cả những gì có thể nhìn thấy dưới lớp tã trắng bong là cái đầu tí xíu hồng hồng.
“Ái chà chà, Tamara, thử nhìn cái này xem.”
Tôi mặc kệ anh ta, đắm chìm trong bức ảnh tôi và mẹ chụp ở nhà thờ, mẹ bồng tôi trên tay, khuôn mặt bà rạng rỡ nụ cười tươi rói. Người chụp bức ảnh, tôi đoán là ba, đã để ngón tay lên ống kính để che đi khuôn mặt vị tu sĩ. Biết rõ về ba, tôi đoán nhiều khả năng đây là có chủ ý. Tôi vuốt ve ngón tay to tướng sáng lên vì đèn flash của ông và bật cười.
“Tamara, nhìn tất cả những thứ này xem.”
Bức ảnh chụp nửa người tu sĩ, mẹ, tôi trên tay bà ở bên chậu nước thánh rửa tội, một người nữa bị cắt bỏ bên phải nhờ những thủ thuật nhiếp ảnh ma lanh, nhưng có bàn tay ai đó đang đặt lên đỉnh đầu tôi. Một bàn tay phụ nữ, tôi có thể đoán được từ chiếc nhẫn trên tay người này. Rất có thể là Rosaleen, mẹ đỡ đầu của tôi, người dường như chẳng bao giờ làm như mẹ đỡ đầu bạn tôi vẫn làm, nghĩa là gửi thiệp mừng tới vào mọi dịp, kèm theo tiền trong đó. Không đâu, mẹ đỡ đầu của tôi muốn dành thời gian cho tôi kìa. Thật muốn ói.
“Tamara,” Weseley nắm lấy tôi khiến tôi nhảy dựng lên. “Hãy nhìn cái này xem,” mắt anh ta mở to. Anh ta cầm lấy tay tối, cảm giác râm ran vụt chạy khắp cánh tay tôi.
Tôi nhét bức ảnh lễ rửa tội vào túi quần rồi đi theo anh ta.
Mọi cảm giác kì cục tôi cảm thấy với anh ta nhanh chóng bốc hơi hết trọi. Tôi nhìn quanh khu vực Weseley vừa vén vải phủ lên.
“Có chuyện gì to tát vậy?” tôi hỏi, chẳng hề cảm thấy ấn tượng nào. Cảnh tượng trước mắt đâu có đáng kích động như anh ấy tỏ vẻ. Những món đồ cũ nhất tôi từng được thấy qua. Sách, bài poker, đồ gốm, tranh vẽ, tất cả đều được trùm kín, những cuộn vải rèm, thảm trải sàn, lò sưởi xếp tựa đầu giường, rồi đủ loại đồ trang trí.
“Có chuyện gì to tát ư?” mắt anh ta mở to trong khi anh ta nhảy từ chỗ nọ sang chỗ kia nhặt cái này rồi cái khác lên, vén vải phủ mấy bức tranh xơn dầu vẽ mấy đứa trẻ bộ dạng xấu xa với cổ áo dựng lên cao quá vành tai, và những quý bà béo phị chẳng hấp dẫn chút nào với bộ ngực xồ xề, hông rộng kềnh càng và đôi môi mỏng quẹt. “Hãy nhìn tất cả những thứ này coi, Tamara, nhìn coi, cô không nhận ra gì sao?”
Anh ta lôi một tấm thảm lăn trải trên sàn nhà bụi bặm.
“Weseley, đừng có làm bừa bộn,” tôi gắt gỏng, “Chúng ta không có nhiều thời gian trước khi họ quay về đâu.”
“Tamara, mở mắt ra nào. Hãy nhìn những chữ cái viết tắt.”
Tôi săm soi tấm thảm, món đồ bụi bặm trông giống thảm treo tường hơn là thảm trải sàn. Trên khắp mặt thảm là những chữ K.
“Và nhìn cái này coi,” Weseley mở một thùng sứ ra. Lần này cũng vậy, tất cả đĩa, tách uống trà, dao ăn và nĩa đều mang chữ K ở trên. Một con rồng uốn quanh một thanh kiếm leo lên từ ngọn lửa. Rồi tôi nhớ từng thấy cùng biểu tượng này trên vòm lò sưởi trong phòng khách của ngôi nhà bên cổng.
“K,” tôi lí nhí. “Tôi không hiểu nó. Tôi không…” Tôi lắc đầu, nhìn quanh gian kho thoạt đầu có vẻ như một nhà chứa rác song giờ đây lại giống như một kho báu.
“K nghĩa là…” Weseley chậm rãi nói như thể tôi là một cô nhóc con, và anh nhìn tôi, nín thở.
“Kangaroo,” tôi nói, “Tôi không biết đâu, Weseley, tôi thấy rối tinh rối mù, tôi không…”
“Kilsaney,” anh ta nói, một cơn ớn lạnh lan khắp người tôi.
“Cái gì? Không thể nào,” tôi nhìn quanh. “Làm thế nào bọn họ có tất cả những thứ này?”
“À, hoặc bọn họ đã đánh cắp chúng…”
“Đúng rồi!” chuyện này nghe thật có lý đối với tôi. Họ là kẻ trộm, không phải Arthur mà là Rosaleen. Tôi có thể tin điều đó.
“Hoặc họ cất giữ chúng cho nhà Kilsaney,” Weseley ngắt lời tôi. “Hoặc…” anh ta cười cợt nhìn tôi, hai bên lông mày hết nhướng lên rồi hạ xuống.
“Hoặc là gì?”
“Hoặc họ chính là người nhà Kilsaney.”
Tôi xì một cái, bác bỏ ý tưởng ngay lập tức rồi trở nên trở nên bị phân tâm vì một ánh đỏ lấp ló dưới cuộn thảm Weseley đã hất nhào. “Quyển album ảnh!” tôi thốt lên, nhìn chằm chằm vào quyển album đỏ tôi tìm thấy trong thư viện phòng khách vào tuần đầu tiên tôi tới đây. “Tôi đã biết tôi không hề tưởng tượng ra nó mà.”
Chúng tôi ngồi xuống xem qua quyển album, trong khi cận kề thời điểm Arthur và Rosaleen có thể sẽ quay về. Trong đó là những bức ảnh đen trắng chụp những đứa trẻ, một số có màu nâu đỏ.
“Có nhận ra ai không?” Weseley hỏi.
Tôi lắc đầu và anh ta tăng tốc lật giở các trang.
“Đợi đã.” Một bức ảnh chợt đập vào mắt tôi. “Giở ngược lại.”
Có một bức ảnh chụp hai đứa trẻ, xung quanh là cây cối. Một cô bé và cậu bé lớn hơn vài tuổi. Hai đứa trẻ đứng đối diện nhau, nắm tay nhau, trán chạm trán. Một hình ảnh về cử chỉ chào hỏi kì lạ giữa Arthur và mẹ vào ngày đầu tiên ở đây của chúng tôi chợt lóe trong tâm trí tôi.
“Đó là mẹ tôi và Arthur,” tôi mỉm cười nói. “Chắc lúc đó mẹ mới chỉ khoảng năm tuổi.”
“Nhìn Arthur xem, thậm chí lúc còn nhỏ ông ấy cũng chẳng đẹp trai lắm,” Weseley đùa cợt, nghiêng đầu ngắm nghía bức ảnh kĩ hơn.
“A, đừng xấu tính thế chứ,” tôi bật cười. “Nhìn họ xem tôi chưa bao giờ thấy ảnh mẹ hồi bé.”
Trang tiếp theo có một bức ảnh chụp mẹ tôi, Arthur, Rosaleen và một cậu bé khác.
Tôi há hốc miệng thảng thốt.
“Mẹ cô và Rosaleen biết nhau hồi còn bé,” Weseley nói. “Cô có biết chuyện này không?”
“Không,” tôi không thở nổi. Tôi thấy chóng mặt. “Không thể nào, chưa từng có ai nhắc tới chuyện này.”
“Anh chàng cuối hàng là ai thế nhỉ?”
“Tôi không biết.”
“Mẹ cô có còn anh em trai nào nữa không? Anh ta có vẻ trông lớn tuổi nhất.”
“Không, mẹ tôi không có. Ít nhất là bà chưa bao giờ nhắc đến…”
Weseley luồn bàn tay vào dưới lớp ni lông và lấy bức ảnh ra.
“Weseley!”
“Chúng ta đã đi xa đến mức này, cô có muốn biết toàn bộ chuyện này không?”
Tôi nuốt khan rồi gật đầu.
Weseley lật mặt sau bức ảnh lên.
Trên đó viết: Artie, Jen, Rose, Laurie. 1979
“Có vẻ là Laurie,” Weseley. “Có gợi ý gì cho cô không? Tamara, trông cô cứ như vừa nhìn thấy ma ấy.
Dòng chữ Laurence Kilsaney HÃY YÊN NGHỈ trên tấm bia mộ.
Arthur đã gọi Rosaleen là “Rose” trong xe trên đường từ Dublin quay về.
Ba từ Rose yêu Laurie được khắc trên cây táo.
“Ông ta chính là người chết trong đám cháy ở lâu đài. Laurence Kilsaney. Tên ông ta có trên một ngôi mộ tại khu nghĩa địa của gia đình Kilsaney.”
“Ồ.”
Tôi nhìn chằm chằm vào bức ảnh bốn người họ, tất cả đều mỉm cười, khuôn mặt thật ngây thơ, mọi thứ vẫn còn phía trước họ, một tương lại đầy hứa hẹn. Mẹ và Arthur đang nắm chặt tay nhau, Laurence thoải mái đưa cánh tay quàng lên cổ Rosaleen, bàn tay nhẹ nhàng thả lỏng buông xuống ngực bà. Ông ta đứng trên một chân trụ, chân kia bắt chéo qua nó làm dáng. Trông ông ta có vẻ đầy tự tin, thậm chí kênh kiệu. Cằm ông ta nghếch lên, ông ta mỉm cười nhìn vào ống kính với bộ dạng như thể vừa hét lên điều gì đó với người chụp hình.
“Vậy là mẹ tôi, Arthur và Rosaleen từng cùng chơi với một người nhà Kilsaney,” tôi nói to suy nghĩ của mình thành tiếng. “Thậm chí tôi còn chẳng biết bà đã từng sống ở đây.”
“Cũng có thể không, có khi mẹ cô tới đây vào kỳ nghỉ.” Weseley tiếp tục lật giở. Tất cả bức ảnh đều chụp cùng bốn người họ, tất cả cùng ở các độ tuổi khác nhau, tất cả cùng kề vai bên nhau. Một vài bức ảnh chụp riêng từng người, vài bức chụp hai người một, nhưng phần lớn chụp cả bốn người. Mẹ tôi là người trẻ nhất, Rosaleen và Arthur gần tuổi nhau hơn, còn Laurence lớn tuổi nhất, luôn nở một nụ cười hết cỡ với một cái nhìn tinh quái ánh lên trong đôi mắt. Thậm chí từ khi còn là một cô bé, Rosaleen đã có vẻ già hơn, với ánh mắt cứng rắn, và nụ cười chẳng bao giờ mở rộng hơn những người khác.
“Nhìn này, tất cả bọ họ đang ở trước ngôi nhà bên cổng,” Weseley chỉ về bốn người bạn đang ngồi trên bức tường của khu vườn. Không có gì thay đổi ngoại trừ một số thân cây trong vườn giờ đã lớn lên và to ra nhiều, nhưng hồi đó chỉ vừa được trồng và còn là cây con. Cánh cổng, ngôi nhà, mọi thứ vẫn y nguyên như thế.
“Đây là mẹ tôi trong phòng khách, vẫn cái lò sưởi đó.” Tôi xem xét bức ảnh thật kỹ. “Vẫn là giá sách đó. Thử nhìn phòng ngủ xem,” tôi há hốc miệng. Đó là căn phòng tôi đang ở bây giờ. Nhưng tôi không hiểu. Bà đã sống ở đây, đã lớn lên ở đây.
“Cô thực sự không biết gì về những chuyện này sao?”
“Không,” tôi lắc đầu, cảm thấy cơn đau đang tới, cái đầu khốn khổ của tôi đang bị quá tải với quá nhiểu thông tin và quá ít câu trả lời. “Ý tôi là, tôi biết mẹ từng sống ở vùng nông thôn nhưng… tôi nhớ khi chúng tôi tới thăm Arthur và Rosaleen hồi tôi còn bé, ông tôi vẫn luôn ở đây, bà tôi mất khi mẹ còn trẻ. Tôi nghĩ chắc ông cũng đang tới thăm Arthur và Rosaleen, nhưng… Chúa ơi, chuyện gì đang diễn ra vậy? Sao tất cả họ đều nói dối?”
“Nhưng chính xác thì họ đâu có nói dối, phải không nào?” Weseley cố làm dịu cơn choáng váng.” Chỉ là họ không cho cô biết họ đã sống ở đây. Điều đó, nói chính xác ra, cũng chẳng phải bí mật đáng kinh ngạc nhất trên thế giới.”
“Và họ chẳng hề nói cho tôi biết thực ra họ đã biết Rosaleen trong suốt cuộc đời, rằng họ đã sống trong ngôi nhà bên cổng và họ từng quen biết gia đình Kilsaney. Cũng chẳng phải gì nhiều, nhưng vẫn là có nếu anh giữ nó như một bí mật. Nhưng tại sao họ lại giấu giếm chuyện đó? Còn có gì họ đang giấu tôi nữa đây?”
Weseley rời mắt khỏi tôi, tiếp tục lật giở các trang album ảnh như thể để tìm câu trả lời của tôi. “Này, nếu ông cô từng sống trong ngôi nhà bên cổng, nghĩa là ông ấy làm việc quản lý lãnh địa ở đây. Ông ấy từng làm việc của Arthur.”
Một hình ảnh khiến tôi sững sờ vụt qua hiện qua trong tâm trí, lúc ấy tôi vẫn còn nhỏ, ông tôi đang quỳ xuống, hai bàn tay ngập trong đất mùn. Tôi còn nhớ thứ cáu đen ở móng tay ông, một con giun ngoằn nghèo bò trong đất, ông chộp lấy nó và giơ lên đong đưa gần sát mặt tôi, tôi kêu ré lên, còn ông thì bật cười, và đưa tay ôm tôi. Ở ông luôn tỏa ra mùi đất và cỏ. Các móng tay ông luôn cáu đen.
“Tôi không biết liệu có bức ảnh nào chụp người phụ nữ không,” tôi lật giở sang các trang tiếp theo.
“Người phụ nữ nào?”
“Người phụ nữ trong ngôi nhà một tầng đã chế tạo nên những mảnh thủy tinh.”
Chúng tôi chăm chú xem những trang tiếp theo, tim tôi đập thình thịch thật to trong lồng ngực, tôi nghĩ mình sắp lăn nhào ra ngất xỉu mất. Tôi bắt gặp những bức ảnh nữa chụp Rosaleen và Laurence cùng nhau.
Rose và Laurie, 1987.
“Tôi nghĩ Rosaleen đã yêu Laurence,” tôi nói, đưa ngón tay lần theo khuôn mặt họ.
“Ừ, à,” Weseley nói, tay lật sang một trang khác. “Nhưng Laurence không yêu Rosaleen.”
Tôi nhìn vào bức ảnh tiếp theo mắt mở to. Ở trang kế bên là một bức ảnh mẹ, một cô gái vị thành niên, xinh đẹp, tóc vàng để dài, cười tươi hết cỡ, hàm răng hoàn hảo, Laurence đang khoác một cánh tay ôm người mẹ, và đang hôn má bà cạnh thân cây có khắc chữ.
Jen và Laurie 1989.
Tôi nhìn phía sau bức ảnh.
“Có khi họ chỉ là bạn bè thôi…” Weseley chậm rãi nói.
“Weseley, nhìn họ mà xem.”
Đó là tất cả những gì tôi cần nói. Phần còn lại đã rõ rành rành để có thể nhìn thấy, đang nằm ngay đó trước mắt chúng tôi. Họ là hai người yêu nhau.
Tôi nghĩ về những gì mẹ nói với tôi khi tôi từ khu vườn hồng quay về hôm đầu tiên tôi gặp xơ Ignatius. Tôi đã nghĩ bà nói không chuẩn xác, tôi cứ ngỡ rằng bà muốn nói với tôi là tôi xinh đẹp như một bông hồng. Nhưng nhỡ đâu bà có hàm ý chính xác như những gì bà đã nói thì sao, rằng “Con xinh đẹp hơn Rose.”
Và ở cách xa hai người, bên phía rìa đối diện bức ảnh, Rosaleen ngồi trên một tấm thảm vải kẻ ca rô, bên cạnh một cái giỏ đựng đồ ăn picnic, đang lạnh lùng nhìn chằm chằm vào ống kính.