Nhật Ký Của Ngày Mai

CHƯƠNG 22 – CĂN PHÒNG TỐI



Tôi không biết chúng tôi còn bao nhiêu thời gian nữa cho tới khi Rosaleen và Arthur quay về cùng mẹ tôi, hay liệu họ có quay về cùng bà hay không, nhưng tôi không còn bận tâm về việc bị bắt quả tang nữa. Tôi đã phát chán với những bí mật của họ, phát mệt vì việc phải nhón chân rón rén đi vòng quanh, cố tìm hiểu những gì đang bị che đậy khi không ai để mắt tới. Weseley, hoàn toàn ủng hộ trước hành động tiếp theo của tôi, dẫn tôi đến ngôi nhà một tầng nằm bên kia đường. Cả hai chúng tôi đã tìm kiếm những câu trả lời, và chưa bao giờ trong đời mình tôi gặp một người như Weseley, luôn sẵn sàng giúp tôi nhiều đến thế. Tôi nghĩ tới xơ Ignatius và tim tôi thắt lại. Tôi đã bỏ rơi bà, tôi cũng cần phải gặp bà nữa. Tôi nhớ một trong những lần gặp đầu tiên giữa hai chúng tôi, xơ đã nắm lấy tay tôi và nói bà sẽ không bao giờ nói dối tôi như thế nào. Bà sẽ luôn nói cho tôi sự thật. Xơ biết điều gì đó. Bây giờ nghĩ lại, tôi chợt hiểu thực ra bà đã nói với tôi ngay lần tôi gặp bà là bà biết chuyện gì đó, bà đã rất rõ ràng yêu cầu tôi hỏi bà, và tôi chưa bao giờ nhận ra điều đó cho tớ tận lúc này.
Weseley dẫn tôi đi xuôi xuống lối đi bên hông nhà, hai đầu gối tôi run lẩy bẩy trong lúc bước đi, và tôi chờ đợi chúng quỵ xuống bất cứ lúc nào, làm tôi đổ ập xuống đất như một ngôi nhà dựng bằng các lá bài. Buổi sáng đang tối sầm lại và gió đang nổi lên mỗi lúc một mạnh thêm. Bây giờ mới tầm giữa trưa, vậy mà bầu trời đã đầy mây, những đám mây to xám xịt đã tập hợp lại, cứ như thể đôi mắt của bầu trời đã bị che phủ dưới đôi lông mày rậm rịt, vầng trán của nó cau lại đầy quan ngại trong lúc theo dõi tôi.
“Tiếng động gì vậy?” Weseley hỏi khi chúng tôi đi đến cuối con đường.
Chúng tôi dừng lại lắng nghe. Đó là tiếng lanh canh.
“Thủy tinh,” tôi thì thầm. “Chúng va đập vào nhau trong gió.”
Một âm thanh khiến người ta thoáng bất an. Không giống tiếng lanh canh của chuông gió, nghe như tiếng thủy tinh vỡ, khi những viên thủy tinh nhỏ, tròn trịa hay có góc cạnh, va vào nhau trong gió. Bị nhân lên hàng trăm lần, chúng tạo thành thứ âm thanh thật quái lạ.
“Tôi sẽ tới đó kiểm tra xem sao,” Weseley nói khi chúng tôi bước vào vườn rau. “Cô sẽ ổn thôi, Tamara. Chỉ cần nói với bà ấy là xong. Sau đó bà ấy có thể nói với cô nhiều hơn.”
Tôi bồn chồn nhìn theo anh ta bước đi qua bãi cỏ, qua trước mặt nhà xưởng và biến mất vào bãi thủy tinh.
Tôi quay sang phía sau ngôi nhà và nhìn qua các ô cửa sổ. Phòng bếp vắng tanh. Tôi khẽ gõ lên cửa sau và đợi, không có ai trả lời. Bằng một bàn tay run rẩy, và tôi thầm mắng mình vì đã xúc động như thế, tôi nắm lấy tay cầm cửa và kéo xuống. Cánh cửa mở ra. Tôi kéo cánh cửa hé ra một chút và ngó vào trong. Có một lối đi hẹp quẹo thẳng qua góc phải. Có ba cánh cửa phía trong lối đi, tất cả đều đóng. Một cửa bên phải, hai cửa bên trái. Cánh cửa thứ nhất dẫn vào bếp, và tôi đã biết trước chẳng có ai trong đó. Tôi bước vào trong, cố gắng giữ cánh cửa để không cảm thấy mình không bị sập bẫy và để không cảm thấy mình bị cắt đứt với bên ngoài, nhưng gió thổi mạnh đến mức làm cánh cửa đóng sập lại. Tôi giật bắn mình và một lần nữa nhủ thầm mình thật ngốc nghếch làm sao. Một bà lão, còn là người tặng tôi một món quà, khó lòng có thể làm hại tôi. Tôi gõ nhẹ lên cánh cửa bên phải. Không có tiếng trả lời, vậy là tôi nhẹ nhàng vặn tay nắm và từ tốn mở cửa. Đó là phòng ngủ, hiển nhiên là của một bà lão. Trong phòng sực mùi ẩm mốc, bột talc và thuốc khử trùng TCP. Trong phòng có một cái giường gỗ cũ kỹ sẫm màu có chăn lông vịt vải hoa, cạnh giường để một đôi dép và một tấm thảm trải giường màu xanh cổ vịt từ những năm tám mươi đã trải qua không ít lần giũ và hút bụi. Có một cái tủ đứng trơ trọi một mình, có lẽ là nơi chưa đựng tất cả của nả trần tục của chủ nhân. Một bàn trang điểm nhỏ có tấm gương đã ố mờ kê áp vào bức tường có gắn cửa, một cây lược chải tóc, mấy lọ thuốc, chuỗi tràng hạt cầu nguyện và quyển Kinh Thánh được để ngăn nắp trên mặt bàn. Đối diện với giường là khung cửa sổ nhìn về vườn sau. Ngoài ra trong phòng chẳng có thứ gì khác, chẳng có ai.
Tôi nhẹ nhàng đóng cửa lại và tiếp tục bước xuôi hành lang. Thảm trải sàn được phủ bởi một tấm lót nhựa là lạ, như thể để giữ cho gạch lát luôn sạch. Nó làm vang lên những kèn kẹt dưới chân tôi, và tôi lấy làm ngạc nhiên khi chẳng ai nghe thấy tôi đang tới. Trừ khi người phụ nữ trong nhà xưởng, nghĩa là có thể bà sẽ gặp Weseley. Tôi lạnh cứng người và thiếu chút nữa thối lui ra ngoài, nhưng tôi đã đi xa tới mức này và không lùi lại được nữa. Tôi đi tới tận cùng hành lang, đến chỗ nó quẹo qua phải. Có thêm một cánh cửa nữa ở cuối phòng dẫn đến phòng coi tivi, căn phòng tôi đã nhìn qua cửa sổ. Với tiếng tivi mở lớn đến mức tôi có thể nghe thấy tiếng đồng hồ đếm lùi tích tắc, tôi đoán mẹ Rosaleen đang ở trong đó, nhưng nói cho cùng tôi có bận tâm về bà lão thì lúc này không phải lúc giới thiệu bản thân. Mà cũng chẳng phải tôi đang kiếm bà. Có một sảnh nhỏ ở phía cửa trước, và bên trái tôi có một cánh cửa nữa, đằng sau nó tôi đoán là phòng ngủ thứ hai.
Tôi gõ cửa khẽ đến mức thậm chí cả chính tôi cũng chẳng thể nghe thấy. Lần thứ hai, tôi gõ mạnh hơn và đợi lâu hơn, nhưng chẳng có tiếng động nào.
Tôi xoay tay nắm cửa. Cửa không khóa, nó có thể mở ra.
Với trí tưởng tượng hoạt động quá mức của mình, tôi đã hình dung nhiều về những bí mật của Rosaleen trong mấy tháng vừa qua, nhưng cũng có thể trong nhiều năm, nhưng trên thực tế tất cả chúng đã làm thất vọng; những thứ tìm được trong ga ra, trong khi khiến tôi kinh ngạc và bị tổn thương vì đã không biết Arthur và mẹ từng là bạn bè từ thưở bé, chúng vẫn chẳng hề đạt tầm cỡ của những kịch bản tôi đã hình dung trong đầu mình. Bí ẩn ban đầu đằng sau ngôi nhà hóa ra lại là bà mẹ ốm yếu của mợ, những xác chết trong ga ra thực ra lại là tất cả những gì lột khỏi lâu đài. Trong khi làm tôi tò mò, khám phá này có phần thất vọng vì nó không tương xứng với mức độ căng thẳng tôi cảm thấy quanh Rosaleen. Nó không tương xứng với mức độ bí hiểm Rosaleen đã che đậy.
Lần này tôi đã không bị thất vọng.
Lần này tôi đã ước được thấy những tấm thảm từ thập kỷ bảy mươi, những món đồ gỗ sẫm màu, mùi ẩm mốc và một phòng ngủ bài trí tệ hại. Vì những gì nhìn thấy làm tôi choáng váng đến tận xương tủy, tôi chỉ đứng đó, cứng đờ như đóng băng, mồm há hốc, không thể thở được bình thường.
Trên cả ba bức tường còn lại, phủ kín từ sàn tới tận trần nhà là những bức ảnh của tôi. Tôi khi còn bé xíu, tôi trong lễ ban thánh thể, tôi trong một lần tới thăm ngôi nhà bên cổng hồi ba tuổi, bốn tuổi, sáu tuổi. Tôi trong các vở kịch tại trường, các buổi tiệc sinh nhật và các bữa tiệc khác, tôi trong vai cô bé cầm hoa trong đám cưới người bạn mẹ, mặc đồ phù thủy dịp Halloween, rồi một bức vẽ nguệch ngoạc của tôi năm đầu tiên đi học. Có một bức ảnh tôi ở lối vào ngôi nhà bên cổng chỉ mới chụp tuần trước, ngồi trên tường, vung vẩy hai chân, mặt ngước lên trời. Cố một bức ảnh chụp tôi và Marcus, trong lần đầu anh tới ngôi nhà này, vào hôm trước khi chúng tôi leo lên chiếc xe buýt và thực hiện một chuyến đi dài. Có một bức ảnh chụp buổi sáng mẹ, Barbara và tôi tới ngôi nhà bên cổng lần đầu tiên. Rồi lúc tôi khoảng tám tuổi đứng giữa con đường dẫn tới lâu đài cạnh ngôi nhà, trông có vẻ chán ngán trong lúc mẹ nói chuyện với Arthur và Rosaleen bên những chiếc sandwich kẹp trứng và cốc trà đặc. Có một bức ảnh chụp chỉ mới cách đây một tuần ở nghĩa địa, đàn đặt hoa lên mộ Laurence Kilsaney. Rồi một bức ảnh tôi đang bước đi về phía lâu đài. Những bức ảnh tôi chụp cùng xơ Ignatius, đi dạo, nói chuyện, nằm dài trên cỏ, và một bức chụp tôi trong lâu đài, đang ngồi trên bậc tam cấp vào buổi sáng đầu tiên phát hiện ra quyển nhật ký, đôi mắt nhắm tịt hướng về mặt trời. Khi đó tôi đã biết có người theo dõi mình. Tôi đã viết lại điều đó. Ở đó có vô vàn bức ảnh, giống như một câu chuyện kể lại cả cuộc đời tôi, nhưng tôi đã quên từ lâu, thậm chí những cảnh tôi chưa bao giờ biết đến, tất cả đều ghi lên giấy ảnh.
Trong góc phòng có một cái giường đơn, nhem nhuốc và bừa bộn. Cạnh giường kê một cái tủ có khóa, trên mặt để đầy thuốc. Trước khi quay bước rời khỏi phòng, mắt tôi chợt bắt gặp một bức ảnh quen thuộc. Tôi bước tới bức tường phía xa và lấy bức ảnh đã nhàu nát trong túi ra. Tôi áp nó lên tường, hai bức ảnh trùng nhau đến hoàn hảo, mặc dù bức ảnh trên tường rõ hơn nhiều. Không có ngón tay chắn trước ống kính nữa, vậy là khuôn mặt người tu sĩ xuất hiện, bên cạnh ông ta là mẹ đang bế tôi trên tay. Đặt lên cái đầu hồng hồng của tôi là một bàn tay có đeo nhẫn. Bức ảnh trên tường to hơn nhiều so với bức ảnh tôi đã tìm thấy, nó được phóng to và chụp cận cảnh, nên chiếc nhẫn hiện lên rất rõ, tôi có thể lập tức nhận ra chủ nhân của nó.
Xơ Ignatius.
Phía dưới bức ảnh rửa tội là bức mẹ nâng tôi phía trên bồn rửa, còn người tu sĩ đang rẩy nước thánh lên đầu tôi. Tôi nhận ra cái bồn đó. Giờ nó đầy nhóc nhện và bụi bặm trong nhà nguyện cạnh khu nghĩa địa. Bên cạnh đó là khuôn mặt đỏ lựng của mẹ, bà đang nằm trên giường, tóc dính bết vào vầng trán ướt đẫm, còn tôi vừa mới chào đời, được quấn tã lót, nằm trong vòng tay bà. Một bức ảnh khác chụp xơ Ignatius đang bế tôi. Lúc mới sinh.
Tôi không chỉ là một nữ tu, tôi cũng được đào tạo để làm bà đỡ. Bà đã nói vậy chỉ mới vài ngày trước.
“Ôi chúa ơi,” tôi run lẩy bẩy, hai đầu gối như rụng rời. Tôi với tay về phía tường, nhưng chẳng có gì tôi bấu víu vào, ngoại trừ nhưng bức ảnh của chính tôi. Các ngón tay tôi chộp lấy chúng, lột chúng khỏi tường trong khi tôi ngã lăn ra sàn. Tôi không ngất đi nhưng cũng không tài nào đứng dậy nổi. Tôi muốn rời khỏi nơi này. Tôi cúi gục đầu vào giữa hai chân và chậm chạp hít vào rồi thở ra.
“Hôm nay cháu gặp may đấy,” tôi nghe thấy một giọng nói vang lên sau lưng mình, và vụt trở nên cảnh giác. “Thường thì cánh cửa này luôn khóa trái. Thậm chí mợ cũng chưa bao giờ vào trong này. Ông ấy luôn bận rộn.”
Rosaleen đang đứng trên ngưỡng cửa, tựa người vào khung cửa, hai cánh tay đưa ra sau lưng. Và thật bình thản.
“Rosaleen,” tôi lạc giọng. “Chuyện gì đang diễn ra vậy?”
Mợ tặc lưỡi. “Ồ, cô bé, cháu biết chuyện gì đang diễn ra mà. Đừng vờ vịt với ta là cháu không hề rình mò.” Bà nhìn tôi lạnh lùng.
Tôi bồn chồn nhún vai, biết ngay rằng bộ dạng của mình đầy vẻ tội lỗi.
Mợ ném thứ gì đó về phía tôi, và chúng rơi xuống sàn.
Hai cái phong bì tôi đã lấy lúc sáng và giấu dưới tấm ván lát sàn. Tôi thấy rất tức giận vì mợ đã lục lọi phòng ngủ của mình, nhưng cảm thấy lúc này không phải thời điểm thích hợp để phản đối. Sau đó mợ ném một thứ khác nặng hơn, nó kêu bị một tiếng khi rơi xuống tấm thảm trải sàn và lớp ván sàn bên dưới. Tôi lập tức biết ngay nó là gì. Tôi đưa tay ra chộp quyển nhật ký. Tôi mò mẫm với chốt khóa để cố mở ra xem liệu những trang giấy bị cháy sém đã biến mất chưa. Có thể tôi đã làm thay đổi tiến trình rồi. Song các câu hỏi của tôi đã được trả lời trước khi tôi kịp có thời gian tìm ra chúng.
“Cháu đã làm hỏng niềm vui của ta khi đốt những trang giấy đó,” mợ mỉm cười, nụ cười nhếch một bên mép. “Arthur và mẹ cháu đang ở trong nhà. Có lẽ ta không nên rời khỏi họ…” bà đưa mắt nhìn về phía ngôi nhà trong khi nhai nhai trong miệng. Lúc đó trông mợ thật mong manh, Rosaleen đáng mến đang cố gánh cả thế giới lên vai thiếu chút nữa tôi đã đưa tay về phía mợ, nhưng mợ ngoảnh lại về phía tôi, vẻ lạnh lùng tái hiện trong đôi mắt bà. “Nhưng ta cần rời khỏi họ. Ta biết cháu đang ở đây. Lát ta có hẹn với cảnh sát viên Garda Murphy. Ta đoán cháu không biết là việc gì, phải không nào?”
Tôi khó nhọc nuốc khan và lắc đầu.
“Một kẻ dối trá tệ hại,” bà khẽ nói, “hệt như mẹ cháu vậy.”
“Mợ không có quyền nói mẹ cháu như thế,” giọng tôi run lên.
“Ta chỉ muốn giúp bà ta, Tamara,” bà nói. “Bà ta không chịu ngủ. Bà ta giày vò chính bản thân mình. Lúc nào cũng nghĩ về quá khứ, rồi bắt đầu hỏi đủ thứ mỗi lần ta mang đồ ăn lên…” đến đây bà chuyển sang nói với chính mình, gần như thể đang muốn thuyết phục bản thân. “Ta đã làm thế vì bà ta. Không phải vì ta. Và bà ta hầu như chẳng chịu ăn mấy, thế nên bà ta có vẻ cũng chưa ngấm nhiều thuốc cho lắm. Ta làm thế là vì bà ấy.”
Tôi cau mày, không biết nên ngắt lời hay là để mợ tự tiếp tục nói ra. Trong khi bà đang đắm chìm trong suy nghĩ, tôi với lấy hai cái phong bì. Và đọc tên ghi bên ngoài.
Điền sản Kilsaney
Nhà bên cổng,
Kilsaney Demesne,
Kilsaney,
Meath
Phong bì tiếp theo có cùng địa chỉ được in bên ngoài, song lần này nó mang tên của cả Arthur và Rosaleen.
“Nhưng,” tôi nhìn từ phong bì này sang phong bì kia. “Nhưng… cháu không…”
“Nhưng, nhưng, nhưng,” Rosaleen nhại lại, mỗi lời nói của bà làm từng cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng tôi.
“Họ của Arthur là Bryne. Cũng giống như mẹ cháu,” tôi nói với giọng rít lên chói tai.
Mắt Rosaleen mở to, bà mỉm cười. “Được, được, được. Cô mèo không đến mức tò mò như ta nghĩ.”
Tôi cố hết sức để đứng dậy. Khi tôi đứng lên, Rosaleen dường như đã sẵn sàng, sẵn sàng để làm gì đó với một cánh tay vẫn để sau lưng.
Tôi nhìn hai cái phong bì lần nữa, cố hình dung xem chuyện gì đã xảy ra.
“Mẹ cháu không phải là người nhà Kilsaney. Họ của bà là Bryne.”
“Phải. Bà ta không phải là người nhà Kilsaney, chưa bao giờ là người nhà Kilsaney, nhưng vẫn luôn muốn thế,” đôi mắt bà lạnh ngắt. “Bà ta chỉ muốn cái tên. Bà ta luôn muốn những thứ không phải của mình, đồ chó cái cướp giật,” bà ta hằn học. “Bà ta giống cháu đấy, luôn chường mặt ra khi không hề được mong muốn.”
Miệng tôi há hốc, “Rosaleen,” tôi thở dốc. “Có… có chuyện gì không ổn với mợ vậy?”
“Có gì không ổn với ta ấy à? Chẳng gì hết, ta phải trải qua hai tháng vừa nấu ăn vừa lau dọn, chăm lo cho mọi người, duy trì mọi thứ như bình thường cho hai kẻ vô ơn…” đến đây mắt bà mở lớn, miệng bà há rộng và bà hét lên giận giữ đến mức tôi phải bịt cả hai tai lại, “…ĐỒ DỐI TRÁ!”
“Rosaleen!” tôi hét lên. “Thôi đi! Có chuyện gì đang xảy ra vậy?” Tôi lại đang khóc. “Cháu không biết chuyện gì đang xảy ra cả.”
“Có đấy, cháu biết đấy, bé con ạ,” bà rít lên.
“Cháu không phải bé con, cháu không phải bé con, cháu không phải bé con!” cuối cùng tôi gào lên, những lời tôi đã luôn nói trong đầu rốt cuộc cũng vang lên, mỗi lúc một lớn hơn theo từng nhịp thở.
“À, có đấy, đáng ra cháu phải là CON TA!” mợ hét lên, “Bà ta đã cướp mất cháu của ta!” bà lại hét lớn. “Đáng ra cháu phải là của ta. Giống như ông ấy. Ông ấy là của ta. Bà ta đã cướp ông ấy đi mất!” Rồi sau đó những lời nói ấy đã lấy hết sức lực của bà, Rosaleen dường như đang suy sụp từ trong nội tâm.
Tôi im lặng trong lúc căng đầu suy nghĩ. Không thể nào có chuyện mợ nói đến Laurence Kilsaney, đó là chuyện nhiều năm trước, từ trước khi tôi ra đời, chắc hẳn bà đang nói về…
“Ba cháu,” tôi thì thầm. “Mợ đã yêu ba cháu.”
Đến đây mợ ngẩng đầu nhìn tôi, khuôn mặt đầy đau đớn, tôi gần như thấy thương cảm thay cho bà.
“Đó là lý do vì sao ba không quay về đây cùng mẹ, đó là lí do ông ấy luôn ở lại Dublin. Có chuyện gì đó đã xảy ra giữa mấy người trong suốt những năm qua.”
Thế rồi khuôn mặt Rosaleen dãn ra và bắt đầu cười khẽ. Thoạt đầu nhìn là những tiếng cười khúc khích nho nhỏ, rồi sau đó bà ngửa đầu ra sau và phá lên cười thật to.
“Geogre Goodwin ư? Cháu nghiêm túc đấy chứ? Geogre Goodwin luôn là một kẻ thất bại, kể từ khi ông ấy mò tới đây trong chiếc xe bé choắt hợm hĩnh của mình cùng ông bố cũng hợm hĩnh không kém để đề nghị mua lại nơi này. “Nó sẽ trở thành một khách sạn tuyệt vời, một khu spa tuyệt hảo,” bà nhại lại và tôi có thể hình dung ba đã nói những lời ấy, có thể hình dung ông tới đây trong bộ vest kẻ sọc cùng ông nội Timothy, và chỉ còn thiếu nước bấm nút gọi xe ủi tới ủi sập tòa lâu đài, ba hẳn là hiện thân của quỷ dữ đối với những người này, những người muốn bảo vệ lâu đài và đất đai của họ. “Ông ta muốn mọi thứ, kể cả mẹ cháu, cho dù bà đã có một đứa con. Điều tốt ông ta từng làm là mang mẹ cháu và cháu ra khỏi nơi này. Không! Kỳ thực điều tốt nhất ông ấy làm là kết kiễu đời mình để những vụ kiện tụng không cướp nốt khu đất này đi. Đó là điều tốt nhất và duy nhất Geogre Goodwin từng làm. Và ông ta cũng biết, ta dám cược là ông ta biếu rõ điều đó cho tới tận khi ông ta uống hớp whisky đầu tiê…”
“THÔI ĐI!” tôi rít lên. “THÔI ĐI,” tôi lao tới phía mợ để đánh bà, làm bất cứ điều gì để ngăn không cho bà nói những lời dối trá bẩn thỉu khủng khiếp, nhưng bà đã lao tới tôi trước khi tôi kịp xông tới bà. Hai cánh tay mạnh mẽ đó, được tôi luyện qua việc nhào bột, nặn bánh táo suốt ngày, qua việc chăm bón tưới nước cho những luống rau hữu cơ, qua việc bê khay lên xuống cầu thang mỗi buổi sáng, quả là mạnh mẽ. Với một cánh tay giơ ra, bà thật đẩy mạnh vào ngực tôi, làm tôi choáng váng, như thể ngực tôi bị đè bẹp. Tôi ngã vật ra sau và đập đầu vào góc tủ. Tôi nằm dưới sàn thở dốc. Rồi tôi bắt đầu òa khóc. Tầm nhìn của tôi trở nên nhòe nhoẹt, tôi cảm thấy vị máu trong miệng nhưng không biết vì sao khi tôi bị va đầu. Tôi quay cuồng mất phương hướng, không thể dứng dậy, không thể tìm ra cửa.
Sau một hồi, tôi cũng không rõ bao lâu, cuối cùng tôi cũng nhìn thấy Rosaleen ở ngưỡng cửa, hình ảnh của mợ hiện lên lờ mờ. Tôi chao đảo ngồi dậy, sờ tay lên đầu, máu dính lên ngón tay run rẩy của tôi.
“Nào, nào,” Rosaleen dịu giọng nói, “Tại sao cháu lại làm thế, cô bé? Tại sao cháu buộc ta phải làm thế? Chúng ta cần phải bàn xem mình sẽ nói những gì,” bà nói. “Chúng ta không thể để cháu quay lại như thế này, sau khi đã nhìn thấy tất cả những cái này. Không. Không, ta phải nghĩ đã. Bây giờ ta cần suy nghĩ.”
Tôi lúng búng gì đó đến mức không hề có ý niệm chính xác mình đang cố nói gì. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ tới là mợ vừa nói ba đã đưa tôi cùng mẹ rời khỏi nơi này, và lúc đó mẹ có tôi rồi. Không thể có chuyện đó, nghe chẳng có lí chút nào. Ba mẹ đã gặp nhau trong một buổi dạ tiệc, một buổi dạ tiệc có rất đông người tham gia, và ngay khi ông nhìn thấy mẹ, ông đã muốn phải có bà. Tự ba đã nói thế, ông luôn nói như thế. Ba mẹ đã yêu nhau ngay lập tức. Họ có tôi. Tất cả câu chuyện là như thế, đó là những gì ba đã kể cho tôi nghe. Có thể tôi đã nghe nhầm, có thể mợ đã dựng chuyện. Nhưng tôi đau đầu khủng khiếp và lúc này tôi thấy mệt rã rời, hai mí mắt chỉ chực nhắm lại. Sau đấy tôi nhận ra Rosaleen đang nói, nhưng không phải tôi. Tôi lại mở mắt ra. Bà đang nhìn dọc hành lang, trông vẻ hơi hoảng hốt.
“Ồ,” bà lại nói khe khẽ. “Tôi không nghe thấy ông vào. Tôi nghĩ ông đang ở trong nhà xưởng.”
Người chế tác thủy tinh. Nếu la lên, tôi có thể được trợ giúp, nhưng tôi lại nghe thấy giọng đàn ông, điều đó khiến tôi bồn chồn. Đó không phải giọng của Arthur. Cũng không phải Weseley, ôi, anh ta đâu rồi nhỉ? Hay anh ta bị thương rồi? Anh ta đã đi vào vườn thủy tinh, tới chỗ đám thủy tinh đó, tôi đã gặp những cơn ác mộng về chúng hầu như hàng đêm. Bị thổi tung lên trong gió, chúng sẽ va đập vào nhau, cọ xát vào nhau, cắt xẻ và đâm toạc trong lúc tôi hối hả chạy trong vườn cố thoát ra ngoài, và người phụ nữ vẫn quan sát tôi. Người phụ nữ đó đâu rồi?
“Sao ông không đi vào trong bếp, tôi sẽ mang cho ông một cốc trà? Như thế chẳng phải tốt sao? Ý ông là gì? Ông đứng đó bao lâu rồi? Nhưng con bé xông vào tôi, tôi chỉ cố gắng tự vệ thôi. Tôi sẽ đưa nó về nhà ngay khi tôi giải quyết xong chuyện với nó.”
Người đàn ông nói thêm gì đó, tôi có thể nghe thấy âm thanh từ những miếng nhựa lót sàn. Một bước chân, tiếp theo là một bước kéo lê, rồi lại một bước chân, rồi lại một bước kéo lê.
Tôi kéo mình ngồi dậy, bám vào giường để cố đứng lên. Rosaleen mải nói chuyện với người đàn ông nên không hề nhận ra tôi đứng dậy. Tôi không thể nghe thấy những gì người đàn ông nói, nhưng lúc này giọng mợ trở nên khắc nghiệt hơn, mất đi vẻ yếu đuối bối rối và trở lại là Rosaleen lúc trước. Chiếm hữu.
“Chiếm hữu,” xơ Ignatius đã ngẫm nghĩ về lời nhận xét của tôi dành cho Rosaleen mấy tuần trước. “Con chọn từ thú vị đấy.”
“Đây là lí do ông không bao giờ cho tôi vào phòng này phải không? Đây là cách ông muốn tôi tìm ra sự thật sao? Thế này thật không đúng, ông biết mà.”
Giọng nói của ông ta lại vang lên, tiếp theo là tiếng dậm chân, rồi tiếng kéo lê.
“Và là cái gì đây?”
Cuối cùng, cánh tay bà giơ ra sau lưng, bà chìa tay thật nhanh nhặt chùm đèn thủy tinh đã tặng cho tôi. Tôi muốn hét lớn nó thuộc về tôi, nhưng ngoài lối đi đã có quá nhiều biến động.
“Đây không phải là một phần trong thỏa thuận, ông biết thế mà, tôi rất vui lòng để ông chơi với thủy tinh vì ông muốn vậy đến thế, tôi nghĩ lửa và thủy tinh sẽ giúp ông hồi phục sau… à phải, sau mọi chuyện, ông đã đi quá xa. Ông đã làm hỏng mọi thứ, ông đã hoàn toàn làm hỏng mọi thứ. Có nhiều chuyện cần phải thay đổi từ bây giờ, nhiều chuyện cần phải thay đổi.”
Laurie. Laurence Kilsaney HÃY YÊN NGHỈ.
Tôi chợt lạnh toát người. Mợ đang tưởng tượng ra ông ta. Hoặc bà đang nhìn thấy một hồn ma. Không, không phải thế, tôi cũng nghe thấy ông ta.
Những từ ngữ giận dữ vang lên, rồi Rosaleen vung cách tay ra sau và ném đèn chùm thủy tinh ra hành lang. Tôi nghe thấy một tiếng hét. Rosaleen lao vào người đàn ông, và tôi thấy một cây gậy chống vung lên, nó đánh mợ bật ra, bà ngã ra sau, đập mạnh vào tường. Bà nhìn người đàn ông đầy kinh hoàng, và tôi lùi lại một góc, vùi đầu thật chặt vào giữa hai chân, chỉ muốn thoát ra khỏi nơi này, muốn được ở bất cứ nơi nào khác ngoài nơi này, muốn được ở bất cứ nơi khác ngoài nơi này song không tài nào nhúc nhích được.
“Rose,” tôi nghe thấy một tiếng gọi.
“Vâng, mẹ à,” mợ nói, loạng choạng cố đứng dậy, giọng run rẩy. “Con đến ngay đây mẹ.” Bà nhìn người đàn ông lần cuối rồi chạy dọc hành lang tới cửa phòng xem tivi.
Người đàn ông bước vào ngưỡng cửa, và tôi đã chuẩn bị tinh thần nhưng khi nhìn thấy ông ta, tôi vẫn kêu thét lên. Phía dưới mái tóc dài rối bù, một khuôn mặt méo mó khủng khiếp đang nhìn chằm chằm vào tôi. Một bên khuôn mặt trông như thể đã bị nấu chảy, bị kéo ra rồi lớp da được đắp lại nhầm chỗ. Người đàn ông vội vàng đưa tay lên tóc để cố che đi khuôn mặt. Ông ta mặc áo dài tay, nhưng khi ông ta đưa tay lên mặt, khúc tay cụt bị lộ ra. Cả phần người bên trái bị bỏng hoàn toàn, vai rũ xuống như một dòng sáp nến chảy xuôi xuống cơ thể người đàn ông. Đôi mắt ông thật to và có màu xanh da trời, một bên nằm hoàn hảo giữa da thịt lành lặn, bên kia bị kéo xệ xuống nhiều đến mức trông như trồi ra khỏi hố mắt, để lộ tròng trắng và tất cả những gì nằm bên dưới. Ông ta bắt đầu lại gần tôi, và tôi bắt đầu òa lên khóc.
Tôi nghe thấy tiếng cửa sau bật mở, và gió ùa vào. Tôi nghe thấy tiếng bước chân lên trên tấm nhựa lót sàn, và người đàn ông Rosaleen gọi là Laurie hoảng sợ quay ngoắt lại.
“Để cô ấy yên!” Tôi nghe thấy Weseley la lên, là Laurie giơ cao hai tay lên, choáng váng, buồn bã, run rẩy. Weseley nhìn vào và trông thấy tôi, hẳn trông tôi phải thảm lắm vì khuôn mặt anh ta biến sắc, cơn giận bùng lên, và anh ta dẩy Laurie vào sát tường, bàn tay chộp vào cổ ông ta.
“Ông đã làm gì cô ấy?” anh hét vào mặt người đàn ông.
“Bỏ ông ấy ra,” tôi nghe tiếng mình nói, thật khẽ, tôi không thể nói thành tiếng nữa.
“Tamara rời khỏi đó,” Weseley nói, khuôn mặt đỏ lựng, các mạch máu treo trên cổ phập phồng vì nỗ lực phải bỏ ra để giữ người đàn ông kia lại. Tôi không rõ bằng cách nào, nhưng cuối cùng tôi cũng đứng dậy và thúc mình bước tới trước được. Tôi cố gắng đặt một bàn tay lên tay Weseley để ngăn anh ta lại. Anh ta buông Laurie ra, nắm lấy tay tôi và lôi tôi ra khỏi phòng, đẩy Laurie vào trong, đóng sầm cửa và khóa trái. Anh rút chìa khóa ra, cho vào túi, trong khi tôi nghe thấy người đàn ông gào thét đòi ra.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.