Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ
Tiếp
Chúng tôi ngồi quanh một cái bàn trong phòng khách chiếm đến một phần ba toa giám đốc. Ông trưởng ga bỏ mũ ra và xoa tay. Ông ta nói rằng sau Thế chiến II ông ta đã được đề nghị một số công việc lương cao, nhưng thay vào đó ông đã lựa chọn quay lại công việc cũ của mình trong ngành đường sắt. Ông yêu những đoàn tàu và tin rằng Đường sắt Việt Nam sẽ có tương lai rạng rỡ. Ông ta nói, “Sau khi chúng tôi mở lại tuyến đi Lộc Ninh, chúng tôi sẽ đi tới Thổ Nhĩ Kỳ.”
Tôi hỏi ông ta làm thế nào mà được thế.
“Chúng tôi đi lên Lộc Ninh nhé, rồi chúng tôi sẽ xây một tuyến đi Phnom Penh. Tuyến đó sẽ đi tới Băng Cốc, đúng không? Rồi đi qua chỗ này chỗ kia – Ấn Độ chăng? – rồi đến Thổ Nhĩ Kỳ. Ở Thổ Nhĩ Kỳ cũng có đường tàu hỏa mà.”
Ông ta chắc như đinh đóng cột rằng Thổ Nhĩ Kỳ chỉ đâu đó bên kia những ngọn đồi và khó khăn duy nhất ông trù liệu – thực ra, dường như đây là tính cách chung của những người miền Nam Việt Nam khi tìm hiểu về địa lý chính trị – đó là chiếm Lộc Ninh từ tay cộng sản Việt Nam và đặt đường ray xuyên lục địa của ông ta, đi qua tám quốc gia rộng lớn, chỉ có một trở ngại duy nhất: đuổi địch quân ra khỏi cái thị trấn biên giới nhỏ bé này. Với những công dân Việt Nam, phần còn lại của thế giới thật đơn giản và thanh bình; ông ta có nét vị kỷ của một bệnh nhân, người tin rằng mình là người xui xẻo bị bệnh duy nhất trong cả một thế giới khỏe mạnh. Ông trưởng ga kể, “Thỉnh thoảng chúng tôi bị phục kích ở đây. Vài tuần trước, khoảng bốn người đã trúng đạn súng trường.” Tôi nói, “Vậy có lẽ chúng ta nên đóng cửa sổ lại nhỉ.”
“À! Hay đấy!” ông ta cười và dịch lại câu chuyện đùa đó cho người phó của mình đang bày ra những cốc Coca Cola.
Đây là đường một tuyến, nhưng những người dân nhảy dù chiếm đất đã chuyển những túp lều của họ đến thật gần đường tàu, tôi có thể nhìn vào trong cửa sổ nhà họ, nhìn qua những căn phòng nơi trẻ con đang ngồi chơi trên sàn; tôi có thể ngửi thấy mùi nấu ăn – cá và thứ thịt cháy rộp – và nhìn thấy mọi người đi lại, mặc quần áo; ở một cửa sổ có một người đàn ông đang đưa võng chỉ cách mũi tôi có vài phân. Trên bậu cửa sổ có hoa quả, bậu cửa lay động – một quả cam bắt đầu lăn – khi đoàn tàu lao qua. Tôi chưa bao giờ rõ cảm giác thật đến như thế, như thể tôi đang ở trong căn phòng mà tàu đi ngang qua, tôi liên tục có cảm giác khuôn mặt mình xía vào những công việc gia đình nhà người ta. Nhưng đấy là tôi tưởng tượng về cuộc xâm phạm của mình thôi: người sống trong những căn nhà nghèo khổ đó dường như không để ý đến những người lạ bên ngoài cửa sổ nhà họ.
Từ phía cuối con tàu tôi có thể thấy những phụ nữ họp chợ, trẻ con tái chiếm đường tàu và một lần – tôi thấy thoáng qua nhanh hình bóng một người đàn ông đang nhảy – tôi nghĩ đấy là một người Mỹ, anh ta để râu, mặc bộ pyjama bay phần phật, cao, da trắng, lưng còng, đôi chân to lộ liễu và sải chân dài. Anh ta biến mất giữa hai khu nhà gỗ đang lung lay và được che kín bởi những dây đồ giặt đã phai màu. Chính tại khu ổ chuột đông đúc nhất ở ngoại ô Sài Gòn, và chính hình ảnh lờ mờ của người đàn ông này, người có thân hình chẳng phù hợp với khu vực đó – sự lóng ngóng càng tôn thêm chiều cao của anh ta giữa những người xung quanh – khiến sau này tôi phải tìm hiểu về anh ta. Dial nói với tôi có thể anh ta là một lính đào ngũ, nằm trong số hai trăm tên vẫn còn ở lại đất nước này, chủ yếu là ở vùng Sài Gòn. Có gã nghiện heroin, có gã kiếm được việc làm hợp pháp và lấy vợ Việt, có gã thì là những tên tội phạm – rất nhiều vụ phá phách và đột nhập ở Sài Gòn có thể quy cho những lính đào ngũ đồng thời là những tội phạp tháo vát này: họ biết cần lấy gì ở PX[5], họ có thể ăn cắp ô tô mà ít bị để ý hơn nhiều so với những tên trộm Việt Nam. Không có ai trong số bọn họ có giấy tờ tùy thân nên rất khó để rời khỏi Việt Nam. Hy vọng duy nhất của họ là đi một chuyến tàu ngược Mê Kông vào Thái Lan; hoặc họ có thể ra hàng. Đó là một cộng đồng kỳ dị của những kẻ đào tẩu trên thực tế là không có tên, và ý nghĩ về họ – về người đàn ông râu rậm mặc pyjama băng qua đường ray trong một ngày sáng sủa, lộ diện thoáng qua – đã dâng lên trong tôi nỗi tò mò và thương cảm như nhau. Tôi thấy trong họ khả năng hư cấu để viết truyện, một tình huống bao gồm cả sự bí ẩn lẫn những gợi ý để giải quyết bí ẩn đó. Nếu có ai đó định viết về Việt Nam theo bất cứ một cách chặt chẽ nào, người ta hẳn phải bắt đầu với những người “ngoài” này.
[5] Trạm bán hàng quân đội.
Tôi rời toa riêng và di chuyển dọc đoàn tàu. Trên tàu chật ních người chen chúc, những người cụt chân cụt tay mà đốt cụt đã lên da, những binh sĩ mặc quân phục nhàu nhĩ và một ông già có bộ râu xơ xác, đứng chống gậy. Một người đàn ông mù đội mũ cao bồi bằng rơm đang chơi ghi ta và hát những điệu chói tai cho một nhóm lính nghe. Nhưng đoàn tàu không hoàn toàn chỉ có những người hom hem và bị bỏ rơi. Ấn tượng tôi có trên chuyến tàu đến Biên Hòa, ấn tượng đã in trong tôi suốt thời gian tôi ở đây, là khả năng xoay xở của người Việt Nam. Dường như là không thể tin nổi, nhưng ở đây có những em học sinh gái đeo cặp sách, phụ nữ mang những bọc rau to bự, đàn ông xách gia cầm bị trói và những người khác nữa, đứng ở cửa của một thứ về cơ bản là toa vận tải, đi tới làm việc tại Biên Hòa. Sau rất nhiều năm, người ta tưởng như họ sẽ gục ngã; đáng ngạc nhiên là họ còn hơn cả những người sống sót. Dù có những gián đoạn của cuộc chiến thảm khốc, họ vẫn kiên cường cứu vãn được cuộc sống hằng ngày: trường học, chợ búa, nhà máy. Đoàn tàu bị phục kích ít nhất mỗi tháng một lần, những vụ tấn công được người ta nói đến với giọng điệu rằng không thể tránh được, như thể đấy là gió mùa vậy. Nhưng những hành khách này vẫn thường nhật đi trên hành trình của mình. Đó là một hành trình nguy hiểm. Họ đã quá quen với nguy hiểm. Với họ cuộc sống chẳng bao giờ thay đổi và mối đe dọa từ quân địch cũng như thời tiết, đều có thể dự báo và không biến đổi.
Một bà dắt một đứa trẻ lai Mỹ đi theo tôi suốt con tàu, khi tôi dừng lại một chỗ nối giữa hai toa để chuẩn bị nhảy một cách cẩn thận thì bà lôi tay tôi và cố gắng trao đứa bé cho tôi. Đó là một đứa trẻ khoảng hai tuổi, nước da đẹp, bụ bẫm mắt tròn. Tôi mỉm cười nhún vai. Bà cho tôi xem mặt thằng bé, véo má nó và giơ nó ra. Thằng bé bắt đầu khóc, bà bắt đầu nói lớn tiếng và một nhóm người nhỏ tụ tập lại nghe. Bà chỉ vào tôi, làm bộ với đứa bé để buộc tội.
Dial nói: “Ta nên đi tiếp thôi.”
Anh ta giải thích rằng đứa bé đã bị bỏ rơi. Người phụ nữ ấy đã tìm thấy nó và chăm sóc nó. Nhưng nó không phải con bà – đó là một đứa trẻ Mỹ. Bà muốn trao đứa trẻ cho tôi và bà không hiểu tại sao tôi không muốn nó. Bà vẫn la hét – tôi vẫn có thể nghe thấy bà rõ mồn một khi chúng tôi tiến qua toa tàu đông nghẹt tiếp theo.
Chúng tôi đã đi tới tận đầu máy, một đầu máy diesel mới, rồi vào trong chính toa dầu máy, dọc theo ban công ra tới hiên trước, đối mặt với gió và nheo mắt mỗi khi còi rúc. Nhưng quang cảnh chẳng hay ho lắm, Dial chỉ vào một ngọn đồi phía bên phải và nói, “Đó là nơi cộng sản Việt Nam tấn công bằng rốc két vài tuần trước. Nhưng đừng lo – họ không ở đó bây giờ đâu. Họ chạy vào, bắn vài quả rốc két, rồi lại đi.”
Treo mình trên dải ban công ở phía trước đoàn tàu, tôi có thể nhìn thấy tuyến đường trải ra phía trước chúng tôi và phía xa trên cái khung cảnh vàng vọt đổ nát, không có cây cối, ở phía chân trời nơi Biên Hòa tọa lạc, có một mớ bòng bong những mái nhà và ống khói xám xịt. Gió thổi lại mùi xú uế và dọc theo đường ray là một cơn lũ tởm lợm toàn phân, còn kinh hơn bất cứ thứ gì tôi từng thấy ở Ẩn Độ, tràn thẳng đến tuyến đường và vẫn còn cháy ra từ những cống mở dẫn xuống đằng sau những khối nhà tạm bợ. Đó không phải những lều lán của dân nhảy dù chiếm đất được xây thô lậu, mà là những căn nhà nhỏ, do những nhà thầu xây dựng và đã được cấp phép xây dựng đàng hoàng. Những căn nhà này chẳng có cống xả nước thải. Chúng phù hợp với một đất nước nơi mà những con đường lớn chẳng dẫn đến đâu, nơi mà máy bay bay chẳng có mục đích gì và chính phủ vẫn là một chế độ chuyên chế chỉ phục vụ lợi ích của mình. Trong suy nghĩ thông thường của người dân thì người Mỹ là những tên đế quốc, nhưng đó là một quan niệm không hoàn toàn đúng. Phái bộ của Mỹ ở đây chỉ mang tính quân sự và ra vẻ lên mặt dạy đời; không có bằng chứng thường thấy của một nước muốn đô hộ nhảy vào giữ chỗ, bằng cách sửa đường, làm cống thoát, hoặc xây những tòa nhà cao tầng vĩnh cửu. Ở Sài Gòn, một kiến trúc sư được cử tới, vắt kiệt sức suốt chín năm để xây lên tòa Đại sứ quán và thư viện Abraham Lincoln. Hai tòa nhà này sẽ chống chịu được một cuộc tấn công vì ông kiến trúc sư đã biết cách kết hợp tấm chắn rốc két với một hình thức trang trí bên ngoài tường – nhưng đó không thể coi là thành tựu khi so sánh với những công trình do người Pháp xây như bưu điện, nhà thờ, trường học, các câu lạc bộ vững chãi như Cercle Sportif Saigonnais và các khu nhà ở hoành tráng, mà nhà của Hổ Mang Một là một ví dụ còn tương đối khiêm tốn. Ở ngoài này, ngoại ô của Biên Hòa, nơi được dựng lên do áp lực chiếm đóng của người Mỹ, những con đường bị xé ra thành từng mảnh và bệnh tả chảy vào tận sân trong các ngôi nhà. Một đế chế dù hung bạo nhất và tồn tại ngắn ngủi nhất cũng đều thực hiện công tác quy hoạch và bảo trì; nhưng ngoài một thể chế dựa trên hệ thống luật pháp, ở đây chẳng có thêm ưu điểm nào của một đế quốc. Thậm chí người Mỹ còn chẳng quan tâm đến việc bảo trì. Nhà ga Biên Hòa được xây năm mươi năm trước. Nó sắp sập, nhưng đó không phải điều đáng lưu ý. Chẳng có dấu hiện nào cho thấy nó từng được người Mỹ sửa chữa, và dù nhà ga đang võng xuống với những cuộn dây thép gai, trông nó vẫn còn kiên cố hơn những nhà chứa máy bay ở căn cứ không quân Biên Hòa.
Tới ga Biên Hòa. Dial nhảy xuống khỏi toa đầu máy, nói rằng: “Nếu cộng sản Việt Nam tấn công đoàn tàu này, chúng ta sẽ là những kẻ đầu tiên bị hạ gục.”
Chiều hôm đó tôi giảng bài – lại là bài khoác lác như mọi khi về cuốn tiểu thuyết – tại Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn. Bài giảng này khiến thính giả đặt ra nhiều câu hỏi đối lập về vị trí của người da đen ở Mỹ, mà tôi cố gắng trả lời trung thực nhất có thể. Sau đó, ngài hiệu trưởng, Đại đức Thích Huyền Vi, một nhà sư Phật giáo, gửi tôi một bản luận án tiến sĩ do ngài đề tặng, đề tài là A critical study of the life and woks of Sariputta Thera (Nghiên cứu sâu về cuộc đời và thành tựu của Tôn giá Xá Lợi Phất), rồi tôi đi đến câu lạc bộ Cercle Sportif.
Hổ Mang Một nói: “Chúng ta đang ở trong một Sài Gòn bị bao vây.” Anh ta đưa tôi đi vòng quanh một không gian khoảng bốn héc ta nơi những người Hoa, người Việt và có lẽ khoảng một tá người Pháp uể oải đang chơi thể thao (cầu lông, quần vợt, đấu kiếm, judo, bóng bàn, bowling) dưới ánh điện. Chúng tôi chơi vài ván bi-a rồi đến nhà hàng Những đôi tình nhân rên rỉ ở một số bàn và câu “… mở một chi nhánh” tuôn ra từ một nhóm đàn ông. Hổ Mang Một lại nói: “Chúng ta đang ở trong một Sài Gòn bị bao vây.” Chúng tôi đến một hộp đêm trên phố Tự Do, phố chính của Sài Gòn. Ở bên trong rất tối. Chúng tôi được phục vụ những cốc bia uống với đá viên. Rồi đèn đỏ bật lên và một cô gái người Việt mặc váy ngắn lên hát một bản nhịp nhanh bài bài “Where have all the flowers gone?” (Những cánh hoa đã xa nơi nào?) Những người nhảy múa cuồng nhiệt theo bài hát đầu nhấp nhô trong bóng tối lờ mờ. Tôi thấy Hổ Mang Một đứng tạo dáng ở cuối bàn và vượt lên tiếng hát giọng mũi của cô ca sĩ, tôi nghe thấy câu Sài Gòn bị bao vây.”
Ngày hôm sau – vì không có tàu, tôi bay đến thành phố đồng bằng Cần Thơ trên một máy bay thân màu bạc méo mó, giống như miếng giấy thiếc lấy từ một bao thuốc lá cũ. Cần Thơ từng là nơi tập trung của hàng nghìn lính Mỹ. Khi những nhà thổ và quán bar đã bị đóng cửa, trông thành phố tiêu điều như bãi đất họp chợ để hoang sau một mùa hè bận rộn. Giữa tình trạng đổ nát đó, người ta có thể thấy toát lên ý: chúng tôi không muốn ở lại Việt Nam và chưa từng đề ra kế hoạch dài hơi nào cho đất nước này, ngoài những ý niệm mơ hồ về trật tự chính trị và quân sự. Sân bay Cần Thơ gần như bị phá hủy, con phố chính thì lỗ chỗ ổ gà; và những ngôi nhà hiện nay đều mang dáng vẻ lòe loẹt tạm bợ – những ngôi nhà đúc sẵn, những căn lán, những căn nhà gỗ dán. Chúng sẽ bị cướp phá và bị kéo sập để lấy gỗ – rồi theo thời gian, ít năm thôi, sẽ chỉ còn rất ít bằng chứng rằng người Mỹ đã từng ở đây. Có những cánh đồng lúa bị đầu độc nằm giữa những nhánh lan ra của châu thổ Mê Kông, và có hàng trăm đứa trẻ tóc vàng tóc xoăn, nhưng chỉ trong một thế hệ thôi, những đặc điểm bất thường ấy cũng sẽ thay đổi.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.