Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ

Tiếp



Đúng 9 giờ 35, chúng tôi dừng lại ở ga Domodos-sola, nước Ý, tại đây có một người đàn ông rót cà phê và bán đồ ăn trên một cái xe đẩy khá nặng. Anh ta bán hoa quả, bánh mì miếng, bánh mì ổ, và loại salami, những túi đồ ăn trưa mà anh ta nói là “rất nhiều đồ ngon”. Anh ta cũng bán cả rượu vang, Molesworth mua một chai Bardolino và ba chai Chianti để phòng xa, tôi mua một chai Orvieto và một chai Chianti, Duffill cầm một chai vang đỏ.

Molesworth nói: “Tôi sẽ mang cái này về khoang. Lấy giúp tôi một túi đồ ăn trưa nhé?”

Tôi mua hai túi đồ ăn trưa và vài quả táo.

Duffill nói: “Tiền của Anh quốc, tôi chỉ có tiền Anh quốc thôi.”

Anh chàng người Ý cầm lấy một bảng của ông già rồi trả lại bằng đồng lira.

Molesworth quay lại bảo: “Cần phải rửa táo đấy. Ở đây có bệnh tiêu chảy.” Gã lại nhìn chiếc xe đẩy và nói: “Tôi nghĩ sẽ lấy hai túi đồ ăn trưa cho yên tâm.”

Trong khi Molesworth mua thêm đồ ăn và một chai Bardolino nữa, Duffill nói: “Tôi đã đi chuyến tàu này năm 1929.”

“Đi lúc đó rất đáng đấy,” Molesworth nói. “Con tàu này trước đây cực kỳ tuyệt.”

“Chúng ta sẽ ở đây bao lâu?” tôi hỏi.

Chẳng ai biết. Molesworth gọi anh bảo vệ tàu: “Này, George, chúng ta sẽ dừng ở đây bao lâu?”

Anh ta nhún vai và cũng làm như thế khi tàu bắt đầu chuyển bánh.

“Các ông nghĩ chúng ta sắp đi chưa?” tôi hỏi.

“Nó đang đi giật lùi,” Molesworth nói. “Tôi nghĩ là họ đang rẽ.”

Người bảo vệ tàu nói: “Andiamo.”[3]

[3] Nguyên văn tiếng Ý: Ta đi nào!

“Người Ý thích mặc đồng phục,” Molesworth nói. “Nhìn anh ta mà xem. Mà bộ đồng phục trông rõ rẻ tiền. Bọn họ cứ như những học sinh lớn quá khổ. Có phải anh đang nói với chúng tôi không đấy George?”

“Tôi nghĩ anh ta muốn ta lên tàu,” tôi đáp. Tàu ngừng đi giật lùi. Tôi nhảy lên tàu rồi nhìn xuống. Molesworth và Duffill đang ở bậc thang dưới.

“Anh cầm túi,” Duffill bảo, “anh lên trước đi.”

“Tôi ổn mà,” Molesworth nói. “Ông lên đi.”

“Nhưng anh có mang túi đồ mà,” Duffill nói. Ông ta lấy một cái tẩu từ trong túi áo khoác ra và bắt đầu ngậm tẩu. “Lên đi.” Ông ta lùi lại nhường chỗ cho Molesworth.

Molesworth hỏi: “Ông chắc chứ?”

Duffill nói: “Tôi không đi đường dài, cho đến năm 1929. Rồi tôi cũng không đi nữa, cho đến tận sau Thế chiến II.” Ông ta lại cho tẩu vào miệng và mỉm cười.

Molesworth trèo lên tàu – chậm chạp vì gã còn mang một chai rượu vang và túi đồ ăn trưa thứ hai. Duffill túm lấy thanh tay vịn cạnh cửa ra vào, đúng lúc đó tàu bắt đầu rời đi và ông ta buông tay ra. Hai bảo vệ tàu lao đến sau lưng ông ta, giữ tay rồi xô ông già đang chạy trên thềm ga và cố vươn tới bậc thang của toa 99. Duffill cảm nhận thấy bàn tay của những người Ý, cố gạt ra và chạy lảo đảo, rồi lùi lại; ông ta liếc nhìn và cười nhạt khi thấy cái cửa vụt qua. Trông ông như già đến một trăm tuổi. Tàu lướt nhanh qua trước mặt ông.

“George!” Molesworth gào ầm lên. “Dừng tàu lại!”

Tôi nghiêng người ra cửa: “Ông ấy vẫn đang trên thềm ga.”

Có hai người Ý đứng cạnh chúng tôi, một người soát vé và một người dọn giường. Họ cứ như sắp nhún vai.

“Kéo phanh khẩn cấp đi!” Molesworth nói.

“Không, không, không được,” người soát vé nói. “Nếu kéo phanh khẩn cấp, chúng tôi sẽ phải trả năm nghìn lira. Đừng chạm vào đó!”

“Liệu có tàu khác không?” tôi hỏi.

“Có,” người dọn giường nói với giọng khó chịu. “Ông ấy có thể bắt kịp chúng ta ở Milan.”

“Mấy giờ thì có chuyến tàu kế tiếp đi Milan?” tôi hỏi.

“2 giờ.”

“Khi nào chúng ta tới Milan?”

“1 giờ,” người soát vé nói. “Chúng ta sẽ rời đó lúc 2 giờ.”

“Bố khỉ -”

“Ông già ấy có thể đi xe ô tô,” người dọn giường giải thích. “Đừng lo. Ông ấy có thể đi taxi ở Domodossola, taxi đi vèo một cái là đến, ông ấy sẽ tới Milan trước chúng ta!”

Molesworth nói: “Mấy tên khốn đó nên học hành thêm về cách điều hành xe lửa.”

Bữa ăn sau khi Duffill bị bỏ rơi thật buồn chán. Đó là một bữa ăn pinic trong khoang của Molesworth; cô gái người Bỉ tên Monique mang pho mát tới nhập cuộc cùng chúng tôi. Cô hỏi xin nước khoáng và bị Molesworth càu nhàu: “Xin lỗi, tôi giữ nước khoáng để làm sạch răng.” Chúng tôi ngồi vai kề vai trên giường của Molesworth, thẫn thờ lấy ra phần ăn của mình trong túi ăn trưa.

“Tôi không lường trước tình huống này,” Molesworth nói. “Tôi nghĩ mỗi quốc gia nên có toa ăn riêng. Bố trí ở biên giới và phục vụ những bữa thật ngon.” Gã nhâm nhi quả trứng luộc kỹ và nói: “Có lẽ chúng ta nên cùng nhau viết thư cho Cook.”

Đoàn tàu tốc hành Phương Đông từng cung cấp dịch vụ đặc biệt không đâu có, giờ đây so với các đoàn tàu khác, nó lại chẳng có dịch vụ đặc biệt gì. Tàu tốc hành Rajdhani Ấn Độ phục vụ món cà ri trong toa ăn, tàu thư vận Khyber Pakistan cũng vậy, tàu tốc hành Meshed phục vụ món kebab gà Iran và tàu đi Sapporo ở Bắc Nhật Bản có món cá hun khói và cơm nếp. Các hộp đồ ăn trưa được bán ở ga Rangoon còn đường sắt Malaysia luôn có toa ăn trông giống như một quầy phở, tại đây bạn có thể mua món xúp meehoon; và Amtrak, tôi luôn nghĩ rằng đó là hãng xe lửa tồi tệ nhất thế giới, cũng có món hamburger trên tàu James Whitcomb Riley (tuyến Washington – Chicago). Đói cồn cào làm chuyến đi không còn thú vị nữa và xét theo quan điểm này thì tàu tốc hành Phương Đông còn thiếu thốn hơn cả đoàn tàu Madrasi nghèo nàn nhất, đi trên tàu Madrasi, bạn phải đổi những phiếu ăn cũ nát để lấy một khay rau nhỏ xíu với một tí cơm.

Monique nói: “Hy vọng ông ấy bắt được taxi.”

“Tội nghiệp ông già,” Molesworth than. “Anh thấy đấy, ông ấy rất hoảng hốt lúc bắt đầu bước lùi lại. ‘Ông mang túi mà,’ ông ấy nói, ‘ông lên trước đi.’ Nếu không hoảng hốt thì chắc ông ấy đã lên được tàu rồi. Để xem liệu ông ấy có thể tới được Milan không. Ông ấy phải đến được. Tôi lo là có thể ông ấy lên cơn đau tim. Ông ấy trông không khỏe lắm, đúng không? Anh biết tên ông ấy chứ?”

“Duffill,” tôi đáp.

“Duffill,” Molesworth nói. “Nếu ông ấy tỉnh táo, ông ấy sẽ ngồi xuống uống chút gì đó. Rồi bắt taxi đi Milan. Không xa lắm, nhưng nếu hốt hoảng lần nữa, ông ấy sẽ bị lạc.”

Chúng tôi tiếp tục ăn uống. Nếu có toa ăn, chúng tôi có thể ăn một bữa đơn giản và bỏ đồ thừa ở đó. Vì không có nên chúng tôi ăn suốt trên đường đến Milan, nỗi lo sợ bị đói làm người ta càng đói hơn. Monique bảo chúng tôi giống người Bỉ, cứ ăn liên tục.

Chúng tôi đến Milan lúc hơn một giờ. Chẳng thấy bóng dáng Duffill trên thềm ga cũng như trong đám đông ở phòng đợi. Nhà ga ở đây giống một nhà thờ, trần có vòm cao và những tấm biển đơn giản ghi những dòng kiểu “Lối ra” cho thấy phép ẩn dụ trong phương châm tôn giáo ở đây, từ kích thước cho đến vị trí đặc biệt trên tường; ban công chẳng để làm gì ngoài việc là chỗ đậu cho những con đại bàng bằng đá, có vẻ như trông chúng quá mập để có thể bay được. Chúng tôi mua thêm vài túi đồ ăn, một chai rượu vang và tờ Herald Tribune.

“Tội nghiệp ông già,” Molesworth nói, nhìn quanh quất để tìm Duffill.

“Có vẻ như ông ấy không đến kịp đây.”

“Họ đã cảnh cáo trước rồi, đúng không? Lỡ tàu. Anh nghĩ nó chuyển hướng, nhưng thực ra nó vẫn đi đúng hướng cũ. Đặc biệt là tàu tốc hành Phương Đông. Tờ Observer có nói đôi chút về chuyện này. Mọi người đều lỡ tàu. Đây cũng là đặc trưng nổi tiếng của đoàn tàu này.”

Ở toa 99, Molesworth nói: “Tôi nghĩ tốt hơn là ta nên lên tàu. Tôi không muốn mình bị ‘duffill’.”

Giờ chúng tôi đang trên đường tới Venice, chẳng còn hy vọng tìm thấy Duffill. Chẳng có mảy may cơ hội nào ông ấy sẽ bắt kịp. Chúng tôi uống hết một chai vang nữa rồi tôi đi về khoang của mình. Va li của Duffill, túi đồ, mấy bọc giấy chất đống ở một góc. Tôi ngồi xuống nhìn ra ngoài cửa sổ, cố kiềm chế ham muốn lục lọi đồ của Duffill để tìm ra lý do ông ta đi Thổ Nhĩ Kỳ. Trời bắt đầu nóng lên, những cánh đồng ngô như được nướng vàng ươm, rải rác những đụn lúa và rơm. Đi qua Brescia, hàng dãy cửa sổ của những ngôi nhà làm tôi nhức óc. Ít phút sau, như bị say bởi cái nóng của nước Ý, tôi chìm vào giấc ngủ.

Sau khi đi qua những miền đất công nghiệp khô cằn, chúng tôi tới Venice. Thành phố giống như một căn phòng hội họa trong một trạm xăng, những đường rãnh cống đen ngòm, nhớp nháp dầu chạy ngang dọc, những cái thùng và lò khổng lồ của các nhà máy lọc dầu, tất cả đều như đang đe dọa thành phố mong manh và nhỏ bé này. Những dòng chữ vẽ trên tường dọc theo đường đi đều được bố trí một cách chuyên nghiệp vì đó là tên của các công ty như: MOTTA GELAT – XỔ SỐ CỘNG SẢN[4], AGIP – CHÚNG TA ĐỀU LÀ KẺ SÁT NHÂN[5], RENAULT – ĐOÀN KẾT[6]. Eo biển nơi đây với những mảng dầu lấp lánh, như thể được danh họa Canaletto chấm phá vài đường nét, và cũng là một bãi chứa rác vụn, chai nhựa, những bệ toa lét vỡ, rác chưa xử lý và một nhà máy đang xả nước thải có bọt trắng lềnh bềnh. Khu vực rìa thành phố đã và đang mục ruỗng dần vì ngành công nghiệp, thứ phô ra trước mắt chúng tôi là những khung cửa sổ vỡ toác của những biệt thự vô chủ bị ngập nước ở lối đi sau nhà, một vài tháp chuông kiểu Venice sắp vỡ, ở phía xa xa, nằm khá thấp, gần như khuất tầm mắt là những bức tường trát vữa màu vàng và những mái nhà đỏ, trên đó có những đàn chim sẻ đang dạy bồ câu tập bay.

[4] Nguyên văn tiếng Ý: Lotta Comunista.

[5] Nguyên văn tiếng Ý: Noi siamo tutti assassini.

[6] Nguyên văn tiếng Ý: Unita.

“Chúng ta đến nơi rồi, mẹ nó ơi.” Ông chồng người Mỹ đang giúp vợ bước xuống bậc thang, một người khuân vác cũng đỡ bà xuống thềm ga. Thật trùng hợp, cặp vợ chồng này từng đến Venice vào thời điểm thành phố này còn chưa bị tàn phá: giờ đây cả thành phố và hai vị khách này đều đã tàn úa vì căn bệnh tuổi tác. Nhưng bà Ketchum (đó là tên bà ta, đây cũng là điều cuối cùng bà ấy nói với tôi) trông rất ốm yếu; bà ta bước đi, vịn vào chiếc gậy, đau đớn vì những khớp gối gần như hóa đá. Vợ chồng Ketchum có thể sẽ tới Istanbul sau vài hôm nữa, tôi thấy rõ là điên rồ khi họ đi đến một đất nước khỉ ho cò gáy trong tình trạng tập tễnh như vậy.

Tôi đưa hành lý của Duffill cho người soát vé ở Veneto[7] và bảo anh ta liên hệ với Milan để biết về Duffill. Anh ta nói mình sẽ làm, nhưng nói với kiểu vô tâm của người Ý như thế thì khó mà tin được. Tôi xin hóa đơn. Anh ta nhượng bộ, liệt kê các gói đồ của Duffill vào giấy biên nhận với vẻ bực dọc và chậm chạp. Ngay khi chúng tôi rời Venice, tôi xé tờ biên nhận vứt ra ngoài cửa sổ. Tôi yêu cầu làm thế chỉ để làm khó anh ta.

[7] Một trong hai mươi vùng địa lý của Ý, có thủ phủ là thành phố Venice.

Ở Trieste, Molesworth phát hiện ra rằng tay soát vé người Ý đã xé nhầm tất cả vé trong cái ví hiệu Cook của gã. Tay soát vé người Ý ở Venice đã khiến Molesworth không có vé đi Istanbul và cả Nam Tư. Nhưng Molesworth vẫn bình tĩnh. Gã nói kế sách của mình lúc này là nói không có tiền và chỉ biết tiếng Anh: “Như vậy là đã đẩy bóng sang sân của bọn chúng.”

Nhưng tay soát vé mới này rất kiên quyết. Hắn cứ đứng ở cửa khoang của Molesworth. Hắn nói: “Ông không có vé.” Molesworth không trả lời. Gã tự rót cho mình một ly rượu vang và nhấp một chút. “Ông không có vé.”

“Lỗi của anh, George.”

“Ông,” người soát vé bảo. Hắn vẫy một chiếc vé trước mặt Molesworth. “Ông không có vé.”

“Xin lỗi, George,” Molesworth nói, vẫn tiếp tục uống. “Anh phải gọi điện cho Cook thôi.”

“Ông không có vé. Ông phải trả tiền.”

“Tôi không trả. Không có tiền.” Molesworth cau mày đoạn nói với tôi: “Ước gì hắn biến đi.”

“Ông không thể đi được.”

“Tôi cứ đi.”

“Không có vé! Không đi được.”

“Trời đất ơi,” Molesworth thốt lên. Cuộc tranh luận còn kéo dài thêm một lúc nữa. Molesworth đã bị thuyết phục phải xuống ở ga Trieste. Tay soát vé toát mồ hôi. Hắn giải thích tình hình với người quản lý nhà ga, ông này đứng lên đi khỏi văn phòng nhưng rồi không quay lại. Một gã nhân viên khác xuất hiện. “Nhìn bộ đồng phục kìa,” Molesworth nói, “Rõ là cũ rích!” Gã nhân viên này cố gọi điện đi Venice. Hắn quay số bằng ngón tay mũm mĩm. “A lô! A lô!” Nhưng máy điện thoại không hoạt động.

Cuối cùng Molesworth cũng nói: “Tôi bỏ cuộc. Tiền đây này.” Gã lấy ra một nắm tiền tờ mười nghìn lira. “Tôi mua vé mới.”

Tay soát vé cầm lấy tiền. Molesworth rút lại khi gã soát vé định chộp lấy.

“Nhìn này George,” Molesworth nói. “Anh đưa vé cho tôi, nhưng trước khi làm như vậy, anh hãy ngồi xuống viết giấy đảm bảo để tôi có thể lấy lại tiền. Rõ chứ?”

Nhưng tất cả những gì Molesworth nói khi chúng tôi tiếp tục lên đường là: “Tôi nghĩ bọn chúng rất láu cá.”

Ở Sezana, biên giới Nam Tư, người ta cũng rất láu cá. Những viên cảnh sát Nam Tư mặt tròn căng, đeo đai đen chéo qua ngực, tràn lên hành lang tàu kiểm tra hộ chiếu. Tôi đưa hộ chiếu của mình ra. Viên cảnh sát vày vò cuốn hộ chiếu, liếm ngón tay cái lật giở từng trang, để lại những vết bẩn trên đó, cho đến khi tìm thấy visa của tôi. Hắn trả lại cho tôi. Tôi bước đi cùng hắn để lấy lại cốc rượu vang bên khoang của Molesworth. Viên cảnh sát đặt bàn tay xòe rộng lên ngực tôi rồi ấn mạnh; tôi ngã dúi dụi về phía sau, hắn mỉm cười, nhếch mép, để lộ ra hàm răng kinh khủng.

“Anh có thể tưởng tượng ra mấy tên cảnh sát Nam Tư này cư xử thế nào đối với khách hạng ba,” Molesworth nói, hiếm khi gã bộc lộ lòng trắc ẩn với xã hội như vậy.

“Nàng vẫn khóc và trái đất vẫn quay,” tôi nói. “Đàn gảy tai trâu.”[8] “Ai nói bài thơ ‘The waste land’ (Miền đất hoang) là vô lý?”

[8] Nguyên văn: Jug Jug in dirty ears.

Từ “Jug”[9] này chưa thực sự chính xác, ở bên ngoài tàu, những đứa bé Nam Tư đang đùa nghịch trên đường ray, bố mẹ chúng khép nép đứng xếp hàng, tay giữ va li cho cân, những viên cảnh sát đeo túi da để tiền xu và cầm dùi cui đi tuần, miệng phì phèo thuốc lá, hơi một chút là hô: “Dừng lại!”

[9] Jug – từ viết tắt nói về người Jugoslavia hay còn gọi là Yugoslavia (Nam Tư cũ).

Có thêm hành khách lên toa 99 ở Venice: một phụ nữ người Armenia đến từ Thổ Nhĩ Kỳ (cùng một cô em gái ở Watertown, Massachusetts), bà này đi du lịch cùng con trai – mỗi lần tôi nói chuyện với người phụ nữ xinh đẹp, cậu bé lại khóc ré lên, cho đến khi tôi tự hiểu và biến đi chỗ khác; một bà sơ người Ý có gương mặt như một hoàng đế La Mã với hàng ria mép lờ mờ; Enrico, em trai bà sơ, giờ đang nằm trên giường của Duffill; ba người Thổ, bọn họ cố xoay xở để ngủ trên hai chiếc giường; và một bác sĩ đến từ Verona.

Ông bác sĩ là một chuyên gia về ung thư, đang trên đường đi dự hội nghị về ung thư ở Belgrade, ông này đang tán tỉnh Monique, cô cũng đáp trả và dẫn ông ta tới khoang của Molesworth để uống rượu. Ông này có hơi sưng sỉa mặt mày cho đến khi cuộc nói chuyện chuyển sang chủ đề ung thư; giống như bác sĩ Benway của William Burroughs (“Ung thư! Tình yêu đầu đời của tôi!”), ông ta trở nên nồng nhiệt và hào hứng như thể đang tóm tắt lại bài thuyết trình sẽ nói ở hội nghị.Tất cả chúng tôi đều cố gắng ra vẻ hiểu biết về ung thư, nhưng tôi để ý thấy ông bác sĩ đang véo vào tay Monique, cảm giác hình như ông ta đã tìm thấy một triệu chứng nào đó ở cô và đang định khám kỹ hơn, tôi nói chúc ngủ ngon rồi lên giường đọc cuốn Little Dorrit (Dorrit bé nhỏ). Tôi tìm thấy nguồn cảm hứng trong câu nói của Meagles: “Người ta thường tha thứ cho một nơi chốn ngay khi đi qua nơi đó,” nó cứ liên tục hiện hữu trong đầu tôi, cho đến khi tôi chìm vào giấc ngủ, giống như những hành khách đang say ngủ trong toa tàu, giống như những đứa trẻ sơ sinh đang nằm trong chiếc nôi đu đưa.

Sáng hôm sau, tôi cạo râu; Enrico ngạc nhiên với máy cạo râu điện cầm tay của tôi, cũng như Duffill lúc trước. Lúc ấy tàu chúng tôi bắt kịp đoàn tàu bên thành gắn tấm biển bằng sứ tráng men khắc hàng chữ Moskva – Beograd. Tàu Phương Đông trực tuyến dừng lại, những chỗ nối các toa kêu ken két, Enrico lao ra ngoài cửa. Đã đến Belgrade, ở đây có điểm đáng chú ý là nhiều từ viết tắt như Centrocoop, Ateks, Rad và từ mà tôi rất thích: Transjug. Tại nhà ga Belgrade này, tôi nghĩ phải dùng máy ảnh mới được. Tôi thấy một nhóm nông dân Nam Tư, bà mẹ, ông bố, bà cụ già cùng một đám trẻ con; người đàn ông có bộ râu kiểu Halloween còn người phụ nữ mặc váy xa tanh màu xanh lá cây trùm lên cái quần nam giới; bà già quấn khăn choàng che kín mặt, chỉ hở mỗi cái lỗ mũi to tướng, xách một chiếc túi Gladstone cũ rích. Phần hành lý còn lại của bọn họ là một đống thùng các tông phân loại lộn xộn và những bó hàng đóng gói gọn ghẽ, hành lý đang được chuyển qua đường ray từ thềm ga bên này sang bên kia. Bất cứ một thùng hàng nào cũng có thể làm trật đường ray. Những người di cư ở Belgrade: một bức chân dung chua chát về sự phù phiếm. Tôi ngắm và chuẩn bị chụp ảnh, nhưng nhìn qua ống kính, tôi thấy bà già thì thầm với người đàn ông, anh này quay ra, ra dấu đe dọa tôi.

Ở xa xa phía dưới thềm ga, tôi lại có cơ hội tuyệt vời khác. Một người đàn ông trong trang phục giám sát đường sắt, với một chiếc mũ nhọn, áo có cầu vai và quần là phẳng phiu đang tiến về phía tôi. Nhưng điều thú vị để đưa lên ảnh là anh ta hai tay cầm hai chiếc giày và đi chân trần. Đôi bàn chân anh ta to bẹt, trông bè ra và trắng giống củ cải. Tôi đợi anh ta đi qua, rồi bấm máy. Anh ta nghe thấy tiếng tách nên đã quay lại văng ra những lời chửi bới khiếm nhã. Sau sự việc đó, tôi chụp ảnh lén lút hơn.

Molesworth nhìn thấy tôi đang thẫn thờ trên thềm ga nên nói: “Tôi lên tàu đây. Tôi chẳng thể tin con tàu này được nữa.”

Nhưng mọi người đều đang đứng ở thềm ga; thực ra là tất cả các thềm ở sân ga đều chật ních khách đi tàu, khiến tôi không thể quên được hình ảnh này của Belgrade, như thể ta đứng ở bến cuối và mọi người đang đợi một con tàu không bao giờ xuất hiện, quan sát những đầu tàu không ngừng chuyển hướng. Tôi nói điều đó với Molesworth.

Gã bảo: “Giờ tôi cũng nghĩ về điều đó, khi có cảm giác mình bị ‘duffill’. Tôi không muốn bị như thế. Gã leo lên toa 99 rồi nói to: “Đừng để bị ‘duffill’ đấy!”

Chúng tôi bỏ gã soát vé người Ý ở Venice; tại Belgrade, người soát vé Nam Tư được thay bằng anh soát vé người Bulgaria.

“Người Mỹ à?” anh chàng Bulgaria hỏi tôi khi thu hộ chiếu.

Tôi nói đúng vậy.

“Agnew,” anh ta nói và gật đầu.

“Anh biết Agnew?”

Anh ta cười toét. “Ông ta đang khốn khổ đấy.”

Molesworth hỏi: “Anh là soát vé hả?”

Anh chàng Bulgaria nhún chân, hơi cúi người xuống.

“Tuyệt quá!” Molesworth nói. “Giờ thì tôi muốn anh dọn mấy cái chai này đi.” Gã chỉ xuống sàn khoang của gã, có cả đống chai vang trên sàn.

“Chai rỗng hả?” anh chàng Bulgaria cười nhếch mép.

“Đúng rồi. Hay lắm. Làm đi nhé,” Molesworth nói, rồi ra ngồi với tôi cạnh cửa sổ.

Chúng tôi rời nhà ga vào khoảng giữa trưa, ngoại ô Belgrade rợp bóng cây và khá thú vị, khi chúng tôi đi qua, những người lao động đã tạm rời đồ nghề, ngồi vắt chân trong bóng râm, vừa ăn trưa, vừa ngắm đoàn tàu. Tàu đi rất chậm, ta có thể nhìn thấy những đĩa bắp cải hầm và thậm chí đếm được có bao nhiêu quả ô liu đen trong những chiếc bát sứt. Mấy nhóm người đang ăn chuyền tay nhau những ổ bánh mì to bằng quả bóng đá, bẻ thành nhiều miếng lớn, rồi quệt vào đĩa từng mẩu nhỏ.

Mãi lâu sau trong chuyến đi này, tại một quán bar cho tàu thủy Nga ở biển Nhật Bản, trên hành trình xe lửa từ Nhật đi Liên Xô bắt đầu từ vịnh Nakhodka, tôi gặp một anh chàng người Nam Tư vui tính tên là Nikola, anh ta nói với tôi: “Ở Nam Tư, chúng tôi có ba thứ hay: tự do, đàn bà và bia rượu.” “Nhưng không phải cả ba trong cùng một lúc, đúng không?” Tôi nói với hy vọng anh ta sẽ không tự ái. Lúc đó tôi bị say sóng nên quên mất nước Nam Tư cũ.

Buổi chiều tháng Chín thật dài, tôi ngồi suốt trên tàu từ Belgrade đi Dimitrovgrad, trong một góc, cạnh chai rượu vang đầy và khoan khoái hút tẩu.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.