Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ

CHƯƠNG 26: CHUYẾN TÀU NHANH HATSUKARI (CHIM BUỔI SỚM) ĐẾN AOMORI



Ở Nhật Bản, tôi dự định sẽ đi Siberia. Đương nhiên là có tàu và các bài giảng là để trả tiền cho chúng. Nhưng quần áo chuẩn bị cho chuyến đi mới là điều tôi phải bận tâm đầu tiên. Tôi đến Tokyo với những bộ quần áo đã theo tôi ba tháng ở miền nhiệt đới, đống quần áo ướt nhèm. Những cái áo vẫn dính xốt cà ri, hơi sờn, những mông quần được mài bóng trong các chuyến đi, không phù hợp với cái lạnh tê cóng thời tiết Nhật Bản, tiên đoán trận ốm mà tôi đã được báo trước (bảng giờ tàu chạy của Liên Xô có dự báo nhiệt độ trung bình), theo đó nhiệt độ sẽ là âm ba mưa ơi độ C ở Khabarovsk. Khi ấy là vào tháng Mười hai. Mùa đông Tokyo thê thảm với gió rít, khói thải và những thứ đó bay lên giữa các tòa nhà, tất cả đặc trưng cho mùa đông của một thành phố lớn. Tôi dành hai ngày tìm quần áo ấm. Nhưng quần áo Nhật không được thiết kế cho mùa đông Siberia, chúng được sản xuất theo các cỡ nhỏ nhưng giá thì trên trời.

Điều này đi kèm với niềm tự hào đắc chí, Nhật Bản đã cho thấy đất nước của họ trở nên đắt đỏ như thế nào. Đây là tiêu chuẩn đánh giá sự thịnh vượng, nhưng đấy cũng là thước đo của lạm phát và tôi bắt đầu băn khoăn liệu điều đó có khập khiễng với những gì người ta đã nói. Tôi hỏi về chuyện ấy, nhưng thắc mắc nhỏ nhoi này thường là câu đầu tiên những người nước ngoài hỏi, và những cư dân hiểu chuyện đã được chuẩn bị để làm bạn sốc với các trò đùa về các mức giá. Một bộ kimono giá bao nhiêu? “Anh có thể mua được một bộ đẹp với giá một nghìn đô la.” Một bữa ăn? “Ở hầu hết các quán ăn, anh sẽ phải bỏ ra hai mươi đô la – cho một người.” Một chai gin? “Giá những chai nhập khẩu có thể là hai mươi đô la trở lên.” Và khi tôi phá lên cười, nghĩ đấy là sự dọa dẫm vô căn cứ, thì một người Mỹ quay ra nói với tôi: “Nghe này, anh không thể nào gọi một cốc cà phê ở đây với giá dưới một đô la!” Sau này tôi nghe người ta nói có một chỗ ở ngoại ô Tokyo bán một cốc cà phê (kèm đường và kem) giá bốn mươi đô la. Thông tin này được đưa ra một cách tình cờ, như kiểu đồng lõa trong trường học, ở đây bọn học sinh lớp lớn tự động trả lời một cậu học sinh mới, hù dọa nhằm loại cậu bé ra. Người Mỹ ở Thái Lan sẽ vỡ lòng cho bạn bằng câu nói, “Đừng bao giờ gõ vào đầu người Thái – cái đầu rất được tôn trọng ở đây. Anh có thể bị giết vì hành động đó.” Những chuyện thần bí trong tôn giáo Thái hay chuyện thần bí về tiền ở Nhật Bản sẽ khiến bạn nghĩ ngợi về việc chết đói. Không ai nói bạn sẽ sống được ở Nhật Bản với giá rẻ, nhưng thực ra là có thể nếu sống trong các quán trọ, ăn mì ramen (có trà miễn phí) và sử dụng tàu điện cũng không đắt đỏ vì Nhật Bản mua cam, táo và quýt giảm giá của Nam Phi, người Nam phi vui vẻ nhận lại đài radio và chính thức tuyên bố người Nhật là da trắng. Và còn có một cửa hàng bán hamburger của McDonald trên khu phố Ginza. Quần áo mùa đông thì lại là một câu chuyện khác. Hầu hết các áo khoác tôi thấy ổn toàn trên một trăm đô la, tôi chọn được một chiếc có cổ lông thỏ, cỡ vừa với mình giá một trăm năm mươi đô la. Găng tay, khăn, mũ len và những thứ tương tự ngốn sạch số tiền tôi nhận được cho bài giảng đầu tiên ở đây, nhưng tôi không chỉ chuẩn bị cho chuyến Siberia mà còn cho cả chuyến giảng bài trong tháng Mười hai đầy tuyết ở Hokkaido, hai chuyến tàu cùng đi về phía Bắc.

Trên các con phố buổi tối của Tokyo đầy ních những nhóm người Nhật vui vẻ hò hét. Những người kém vui hơn say mềm trên các bậc thềm của quán Moris Noddle hay quán rượu Glasgow, hoặc ngồi sụp xuống ở các ngỏ nhỏ chịu đựng cơn say ở đó. Đó là hệ lụy của khoản tiền thưởng. Những người làm công ăn lương ở Nhật được thưởng hai lần trong năm: tháng Mười hai là một lần và số phận đưa tôi đến vào cái ngày mà tiền được đem ra tiêu xài. Đến nửa đêm, tôi có thể thấy tất cả các cung bậc say xỉn của người Nhật, từ nấc đầu tiên, họ nói to hơn, đến cung bậc cuối cùng, họ chỉ đơn giản gục xuống, đổ gục trên sàn các nhà hàng hoặc trên các con đường lạnh cóng. Họ đi loạng choạng và hát to. Tôi suy ngẫm về hệ lụy của “các khoản tiền thưởng” và tôi thấy họ dìu nhau, những người còn đang ở giai đoạn hát vẫn đủ dũng cảm say sưa để hét về phía tôi. Sau mười hai giờ có ít người say qua lại hơn, phố xá đủ yên tĩnh để những phụ nữ mặc kimono, choàng khăn, đi guốc dẫn những con chó béo mượt đi dạo. Hai phụ nữ đang khẽ khàng trò chuyện, tiến dần về phía tôi. Con chó dừng lại, cong mông ỉa; một phụ nữ rút mảnh giấy đã chuẩn bị từ trước nhanh chóng hốt hết đám phân chó rồi bỏ vào cái thùng gần đó trong khi vẫn nói chuyện với bạn của mình.

Tôi không nhìn thấy cái thùng cho đến khi người phụ nữ dùng nó; trật tự ở Tokyo chỉ hiện ra rõ ràng khi tới gần – từ một khoảng cách xa, nó là một mớ hỗn độn. nhưng mớ hỗn độn đó phải được nghiên cứu để có kế hoạch xuất hiện. Về sau, bạn thấy những cửa trượt, những ngọn đèn ẩn gọn gàng trong tường và dưới bàn, được nối với những công tắc nổi báo hiệu SÁNG và TỐI, bàn, mâm, khóa nước hiện ra từ trên tường, những cỗ máy ở ga tàu điện ngầm bán và đục lỗ vé cho bạn, những cái ghế đang biến mất, những chuyến tàu tĩnh lặng mà bạn đi lên với sự giúp đỡ của một người đàn ông có cánh tay kỳ quái được thuê để đẩy mọi người lên tàu. Vào lúc bảy giờ tối, khi các cửa hàng đóng cửa, hai cô gái mặc đồng phục xuất hiện ở cửa; họ cúi chào, Cảm ơn. “Lần sau lại đến” với mỗi khách hàng và họ trở lại vào buổi sáng. Tại bách hóa tổng hợp khổng lồ Isetan ở Shinjuku, nhân viên đứng ở các quầy trưng bày nói “Chào buổi sáng” với những khách hàng đầu tiên, khiến họ cảm thấy mình như những cổ đông. Mọi thứ đang hoạt động: không gian chăng đầy những cử chỉ lịch sự.

Trên tường của một cửa hàng có bốn mươi tám chiếc ti vi màu bày một cách ấn tượng các đồ điện tử, và mặc dù tám hình ảnh màu sống động của một nhà chính trị bé nhỏ Nhật Bản đang diễn thuyết không khiến ông trở thành to lớn như Winston Churchill, nhưng cách sắp xếp này cho thấy niềm hứng thú của người Nhật đối với những đồ điện tử tự tạo. Có nét gì đó trong tính cách người Nhật đã giúp họ không bị chìm vào cảm giác đau đớn khi mua sắm, như cảm giác mà người Mỹ thất vọng cảm thấy. Người Mỹ, sau khi lao vào mua sắm, đã phát triển một cảm giác tự thấy có lỗi. Nếu người Nhật cảm thấy nghi ngờ họ sẽ không bày tỏ nó. Có thể sự e dè không phải là một phần của tính cách dân tộc, hoặc những người e dè bị đám đông người mua coi thường – sự chọn lọc tự nhiên này được xã hội tư bản dùng để chống lại sự nghi ngờ. Tôi có ấn tượng mạnh mẽ về một dân tộc, họ cùng diễn kịch vì một kế hoạch có trước: một dân tộc được lập trình. Bạn thấy họ tự động xếp hàng ở ga tàu điện ngầm, tự hình thành hàng lối trước các quầy bán vé, các cỗ máy, và khó để tránh khỏi kết luận rằng tất cả họ có những vòng tròn in sẵn. Nhưng đánh giá của tôi đã thay đổi theo thời gian, tôi bắt đầu nhìn người ta đấu tranh chống lại trật tự ở những hàng lối tại ga tàu điện ngầm: ngay khi tàu tới, cửa bật mở, nhiều người, đợi rất lâu trong im lặng và trong hàng lối trật tự, đã phá vỡ hàng, bắt đầu xô đẩy, ném mình vào trong cánh cửa.

Do đó trong chuyến đi này (đó là phần thưởng của chiếc xe hơi ngừng giữa chừng), tôi đã cố tranh cãi gọi là những buổi tối văn hóa truyền thống mà ai đó bị bắt phải ở lại trong một căn phòng nóng bức để tán thưởng màn biểu diễn nhố nhăng của các vũ công, ca sĩ mặc bộ đồ lông vũ và hạt cườm, diễn tả những người xấu số bị xử tội theo truyền thống. Nhưng đêm trước khi bắt chuyến tàu Hatsukari đến Aomori, tôi có chút thời gian rảnh rỗi, vì lý do gì chẳng nhớ, tôi đã quyết định đến Nhà hát Nichigeki để xem một vở diễn kéo dài hai tiếng có tên là Red flowers fall on fair skin (Hoa đỏ rơi trên làn da trắng). Vở diễn này được quảng cáo là để kỷ niệm hai trăm năm mươi năm ngày sinh của nhà viết kịch Nhật Bản Chikamatsu Monzaemon. Tôi phát hiện ra rằng thậm chí những người tàn ác ở Nhật cũng có khái niệm về lịch sử. Chỉ có hai hoặc ba gaijin (người nước ngoài) trong khán giả. Một buổi tối văn hóa ở một nơi nào khác có thể sẽ là sự kiện về du lịch: tôi có cảm giác số khán giả nhà đông đảo này sẽ mang cho tôi thêm hiểu biết nào đó về cách giải trí của người Nhật.

Ngay lúc đèn được tắt đi, hai người phụ nữ trung niên chạy nhanh trên lối đi và ngồi vào chỗ của họ trên hàng ghế đầu, cười khúc khích. Mở màn là tiết mục cổ động khán giả, mười thiếu nữ Nhật Bản trong bộ tóc vàng kiểu Thái, cầm một cái gì đó nho nhỏ, mặc những chiếc quần bikini bé xíu lấp lánh kim tuyến vàng. Người múa chính đi lên từ dưới sàn trên một cột xoay tròn và huơ một con rắn màu vàng với khán giả. Tôi hắng giọng, Tiếng nhạc nổi lên ầm ĩ. Sau khi đọc hết các tấm vé mời, từ chối xem noh cùng kabuki, tôi chọn múa khỏa thân. Tôi muốn đi ra và tôi suýt làm như vậy sau tiết mục tiếp đó, một bài hát Nhật, do một hồn ma lưỡng tính trát đầy phấn thể hiện, mang lại cho tôi cảm giác đang chịu đựng một cây đàn piano chùng hết dây. Nhưng tôi ngừng lại, thoáng bị thu hút bởi những da thịt lõa lồ và tìm thấy một sự hưởng thụ kỳ quặc trong bìa múa “Cheerio! Charleston!” và “Black Cry-Out” (một trích đoạn sinh động có liên quan tới cái chết của Billie Holiday, người Nhật tô mặt đen diễn – giống buổi trình diễn của một gánh hát rong hơn là bình luận về vấn đề chủng tộc). Đến đoạn này thì hầu hết các đoàn diễn đều bắt chước Nhà hát Radio City, nhưng phần diễn ra tiếp theo lại chẳng liên quan gì đến phương Tây cả.

“Aburagoroshi,” người hàng xóm Nhật Bản kế bên của tôi hớn hở dịch là “Dầu sát nhân,” bắt đầu với một bộ phim về hai người phụ nữ chạy vào một căn phòng, trên nền có một cái bể rộng chứa dầu. Có thể nó đã được chiếu trong những buổi chiếu phim hằng năm của các câu lạc bộ điện ảnh tại trường đại học, nơi hay chiếu các phim L’avventura (Lãng du), Pather Panchali (Bài ca con đường nhỏ) và các phim hoạt hình Đông u chán ngắt: những cuộc rượt đuổi khoa trương, những góc quay kỳ quặc, và thể loại hình thức quá khích mà tôi thường liên tưởng tới mấy tặng phẩm từ các hiệp hội phim. Sau đó, một phụ nữ trượt trên dầu, người kia vồ lấy rồi họ đánh nhau. Họ la hét, kéo tóc, nghiến răng, mỗi lần nạn nhân muốn thoát thì cô ta lại trượt trên dầu và bị đối thủ tóm lại. Có các cảnh quay móng tay đang nhỏ dầu, dầu đầy trên tóc, mông, ngực và đầu gối, cùng với các hiệu ứng phim ảnh mãnh liệt, giống như một cái mồm đang chuẩn bị ăn ngấu nghiến màn ảnh.

Trong khi bộ phim này – tiến triển ngày càng mang tính bạo dâm – lập lòe ở phông sân khấu, hai cô gái Nhật không mặc quần áo xuất hiện từ khuyên tròn giữa sân khấu và biểu diễn ngay trước mắt khán giả những gì đang diễn ra trên màn ảnh, bắt chước những trò bạo dâm, giả vờ như cấu nhau. Hai phụ nữ ở trên màn ảnh giờ đây bóng nhẫy dầu có thể thấy chuyện này sẽ kết thúc tồi tệ khi một người cắn vào mông người kia làm cho người kia phải oằn mình lên. Sự cay đắng cưỡi lên cô ta. Buổi chiếu vẫn tiếp tục, hai người trần truồng trên sân khấu, hai người trần truồng đau đớn trên màn ảnh. Máy quay chuyển sang chiếu cảnh các vết thương, máu trộn dầu, máu và dầu chảy xuống ngực một phụ nữ trên cả bốn màn ảnh. Buổi chiếu phim kết thúc bằng cảnh hai kẻ giết người mừng chiến thắng trên cơ thể mệt lử của các nạn nhân, nhiều tiếng vỗ tay vang lên.

Tiết mục tiếp theo, “Ten No Amishima”, bắt đầu một cách không vòng vo với bộ phim về một người đàn ông mơn trớn một phụ nữ. Tôi hỏi người hàng xóm hay cười của mình đầu đề bộ phim nghĩa là gì. Anh ta nói nó đơn giản là tên một hòn đảo ở Biển Nhật Bản, nơi màn “xếch” sẽ diễn ra và tôi hy vọng, vì nó chưa diễn ra, nó sẽ không có mặt trong nhật ký đi đường của mình. Người đàn ông bây giờ ở sau lưng người đàn bà, mân mê ngực người đàn bà tựa như chanh, chanh chứ không phải bưởi, và chẳng phải tưởng tượng gì nhiều để kết luận là anh ta đang giao hợp hối hả qua hậu môn. Hai cô gái đã ở trên sân khấu từ trước đó và trình diễn theo cách chính xác là diễn tả những gì người đàn ông và đàn bà đang làm trên phim, màn dâm đãng này kéo dài mười phút trước khi cảnh cuối cùng được chiếu. Cảnh cuối là một cuộc làm tình, khi các cô gái diễn màn mây mưa, người đàn ông trong phim thực hiện tư thế giao phối và trong giây phút cực khoái – thể hiện bằng một cái cau mày – anh ta rút ra một thanh gươm sáng loáng từ dưới chiếu và cắt cổ bạn tình của mình. Bộ phim chiếu cận cảnh vết đâm chết người, máu chảy giữa ngực người đàn bà (cảnh này có vẻ là một đỉnh điểm kịch tính phổ biến), tôi đi ra ngoài sảnh để hưởng bầu không khí tươi mát.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.