Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ

CHƯƠNG 3: CHUYẾN TÀU TỐC HÀNH HỒ VAN



“Tôi năn nỉ ngài đấy, cứ nhìn vào cuộn giấy này rồi nhìn tôi đi,” gã bán đồ cổ tại chợ Istanbul nói. Hắn đập đập cuộn giấy lụa vào tay. “Ngài nói cuộn giấy này ẩn và hoen ố! Phải! Nó bẩn và hoen ố! Tôi đã bốn mươi hai tuổi rồi, đầu đã hói, cũng có nhiều nếp nhăn nữa. Cuộn giấy này không phải bốn mươi hai tuổi – nó hai trăm tuổi cơ đấy và ngài sẽ không mua nó vì ngài nói nó bị hoen ố! Ngài mong chờ điều gì nào? Một cuộn giấy mới tinh, sáng bóng? Ngài đang gạt tôi thì có!”

Hắn cuộn cuộn giấy lại, nhét vào dưới nách tôi rồi bước tới sau cái máy tính tiền, thở dài: “Được rồi, ngài đã lừa được tôi. Mới sáng sớm, tôi chỉ lấy bốn trăm lira thôi.”

“Olmaz,”[1] tôi đáp rồi trả lại hắn. Tôi đã thể hiện thái độ tò mò về cuộn giấy chỉ vì lịch sự, nhưng hắn lại cho rằng tôi rất quan tâm và mỗi lần tôi định bỏ đi, hắn lại giảm giá một nửa, vì cho rằng tôi giảm hứng thú với món hàng chẳng qua là một chiêu đòi giảm giá.

[1] Không. Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ.

Cuối cùng tôi cũng bỏ đi được. Tôi đã ngủ quá giấc. Tôi thấy đói và dự tính sẽ mua đồ ăn cho chuyến đi trên tàu tốc hành Hồ Van, chuyến tàu này có tiếng là thường xuyên hết đồ ăn sớm và luôn trễ cả mười ngày mới đến được biên giới Iran. Đồ ăn cứ quanh quẩn trong tâm trí tôi vì một lý do khác nữa. Tôi đã định sẽ nếm thử vài món đã được nói đến ở Nagel. Tên các món ăn đó đầy quyến rũ mà tôi sẽ rời đi trong chuyến tàu chiều nay, đây là cơ hội cuối cùng để thưởng thức chúng. Tôi tự vẽ ra trong đầu thực đơn của riêng mình. Đó là các món: “Imam ngất xỉu” (Imam Bayildi, một loại xúp rau tổng hợp), “Ngón tay của Vizier” (Vizier Parmagi), “Hoàng thượng thích nó” (Hunkar Begendi) và hai món không thể cưỡng lại được, “Đùi của quý cô” (Kadin badu) và “Rốn của quý cô” (Kadin Bobegi).

Tôi không có đủ thời gian để nếm hết các món, ngoại trừ hai món cuối cùng. Tôi dừng lại ở một quán cà phê trên đường ra bến phà và tự hỏi người Thổ Nhĩ Kỳ xác định mùi vị theo bộ phận cơ thể thì phần đùi rất ngậy và cái rốn thì rất ngọt. Chỉ hai mươi xu cho mỗi món, khá rẻ và có lẽ an toàn hơn nhiều so với những “đồ thật” đứng thành dãy trong những con hẻm nhỏ của khu Istiklal Caddesi vào ban đêm. Cùng với tiếng saxophone réo rắt phát ra từ các quán rượu đèn mờ, các nàng mèo trong những con hẻm sẽ kéo tay khi bạn đi qua con đường rải sỏi này. Tôi đã rất kiên quyết. Không bao giờ lại gần bất cứ đùi của quý cô nào ở Istanbul ngoại trừ món bánh mang tên đó. Thêm nữa, tôi cũng được cảnh báo rằng đa số nàng mèo đó đều là những gã giả gái, ban ngày những gã đó vẫn làm việc tại bến cảng Bosporus, thành viên của các thủy thủ đoàn.

Tôi tin vào điều này khi nghe được cái giọng ái nam ái nữ của một anh chàng mặc bộ đồ thủy thủ, gọi tôi một cách âu yếm là Effendi, khi hối thúc tôi lên phà nhanh lên trong chuyến đi cuối cùng tới Haydarpasa. Tôi nhìn lên boong trên, hình dung ra viễn cảnh của mình: tôi có vài hộp cá ngừ, đậu và lá nho, vài củ dưa chuột, một khoanh pho mát dê, bánh xốp, bánh quy xoắn và ba chai rượu vang, mỗi ngày một chai trên đường đến Hồ Van. Tôi cũng mang theo ba hộp sữa chua kem – ở đây người ta gọi là ayran, thứ đồ uống truyền thống của những người chăn cừu Thổ Nhĩ Kỳ.

Nhưng tôi không cần bận tâm nhiều, trong thoáng chốc tàu tốc hành Hồ Van đã dừng trước ga Haydarpasa, tôi để ý ngay đến toa ăn. Tôi tìm thấy toa của mình, sau đó đi thẳng đến toa ăn để dùng bữa trưa và theo dõi những hoạt động ở thềm ga. Mấy nhóm người híp pi trông giống như các gia đình bộ lạc đang tìm chỗ họp bàn, hoặc tìm đồng cỏ mới, bọn họ cãi nhau với mấy gia đình người Thổ Nhĩ Kỳ ăn mặc nhã nhặn. Chỉ vài phút sau đó, gia đình người Thổ và nhóm híp pi phát hiện ra họ cùng ở chung trong các toa hạng ba và lại tiếp tục tranh nhau chỗ ngồi bên cửa sổ. Đường sắt Thổ Nhĩ Kỳ sử dụng đầu máy xe lửa hơi nước cho những hành trình ngắn, ở sân ga, than được đổ vào, muội than bắn vào hành khách lên tàu, bầu trời tối đi vì muội khói, khiến cho sân ga kiểu Đức mang đúng không khí Đức.

Thật thú vị khi được ngồi ăn, uống, đọc cuốn Little Dorrit và lại tiến về phía Đông trên một chuyến tàu chợ sẽ đưa tôi tới chiếc hồ rộng nhất Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi thấy yên tâm trước những gì mình thấy ở hãng đường sắt Thổ Nhĩ Kỳ: tàu dài và chắc chắn, toa ngủ mới hơn những toa nằm trên tàu Phương Đông trực tuyến, toa ăn có hoa tươi và nhiều rượu vang bày trên bàn. Mất ba ngày để đến Hồ Van, năm ngày để đến Teheran, tôi cảm thấy cực kỳ thoải mái. Tôi quay trở lại toa của mình và thả mình ngồi xuống bên cửa sổ – một góc ngồi dễ chịu – tôi cảm thấy đê mê với cảm giác châu Á đang lướt đi dưới bánh tàu.

Chúng tôi tới bên bờ biển và đi chậm lại, qua bờ cực Đông của biển Marmara, dừng lại ở các thị trấn hẻo lánh Kartal và Gebze (nơi Hannibal tự sát) sau đó tới Vịnh Izmit, hứng những tia sáng hoàng hôn cuối cùng. Trời tối dần, chúng tôi vào đất liền, đi qua Ankara. Những điểm dừng chân của chúng tôi ngắn hơn và ít hơn, ở mỗi ga, lại có những người đàn ông nhỏ bé, đầu đội mũ vải, dáng mệt mỏi bước xuống tàu, hạ hành lý xuống và ngóng đợi đoàn tàu tiếp theo. Khi tàu chuyển bánh, tôi vẫn dõi nhìn theo họ cho đến khi điểm duy nhất tôi nhìn thấy là những điếu thuốc lá sáng lên sau mỗi lần họ sốt ruột rít thuốc. Ở hầu hết các ga tỉnh lẻ đều có quán cà phê ngoài trời với rất nhiều bàn ghế trắng vá tràn ngập cây xanh. Những người ngồi uống ở đó không phải khách du lịch mà là người dân địa phương, thường ra ga sau bữa tối, ngồi hàng giờ ngắm những đoàn tàu đi qua. Tàu tốc hành Hồ Van là một sự kiện đối với quán cà phê: ngay khi chúng tôi rời đi, một người đàn ông to lớn trở về chỗ ngồi và chỉ vào cốc cà phê của mình, gọi người phục vụ mặc áo vest trắng, anh chàng này bị bất động trong giây lát khi tập trung nhìn đoàn tàu đi qua. Anh ta như bừng tỉnh khi nghe người đàn ông gọi, vắt chiếc khăn nhỏ ở cánh tay và đi tới bàn của khách, chuẩn bị cúi người.

“Guten Abend”[2]. Một người Thổ đứng ở cửa toa của tôi. Anh ta bảo không biết nói tiếng Anh nhưng biết đôi chút tiếng Đức. Anh ta đã làm công việc lắp ráp ô tô ở Munich suốt một năm. Anh ta xin lỗi vì đã làm phiền tôi, nhưng bạn anh ta muốn hỏi vài câu. Bạn anh ta là một ông già đứng phía sau anh ta, không biết nói thứ tiếng nào ngoại trừ tiếng mẹ đẻ. Họ rụt rè bước vào toa của tôi; sau đó người nói được tiếng Đức bắt đầu: Tại sao tôi lại chỉ có một mình trong toa này? Tôi định đi đâu? Tại sao lại để vợ ở nhà? Tôi có thích nước Thổ Nhĩ Kỳ không? Sao tôi lại để tóc dài thế? Ở quê tôi ai cũng để tóc dài thế à? Chuỗi câu hỏi kết thúc. Ông lão cầm quyển Litte Dorrit lên giở các trang, chăm chú nhìn vào những dòng chữ in nhỏ và ước lượng trọng lượng cuốn sách chín trăm trang trên tay mình.

[2] Xin chào. Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ.

Tôi cảm thấy mình cũng có quyền hỏi họ những câu họ vừa hỏi mình, nhưng tôi cứ ngập ngừng. Họ mới dùng bữa trong toa của họ xong và mang tới ít rau chua vào toa của tôi. Họ nhìn chằm chằm vào chỗ rượu gin của tôi. Họ quên không cài hết khuy quần, giờ thì tôi đã hiểu tại sao trong Thế chiến I, lính Anh vẫn hay gọi những chiếc khuy đó là “huân chương Thổ Nhĩ Kỳ”. Ông lão cứ nhấm nước bọt vào ngón tay rồi miết xuống, lật từng trang sách của tôi.

Gương mặt của mấy đứa trẻ con xuất hiện ở cánh cửa, một đứa nhỏ bắt đầu khóc, sức chịu đựng của tôi đã tới đỉnh điểm. Tôi yêu cầu lấy lại sách rồi đuổi họ ra. Tôi chốt cửa lại đi ngủ. Trong mơ, tôi thấy mình đang cố gắng bay, đập hai cánh tay để gạt đi những luồng gió mạnh đang cố cản tôi như cản một con diều và tôi cố đưa mình lên khỏi mặt đất. Nhưng tôi cứ di chuyển sát mặt đất giống như một con sâm cầm đang bay là là mặt nước, những ngón chân của tôi vẫn lướt trên đất. Tôi đã mơ như vậy mỗi tuần vài lần trong suốt ba tháng, chỉ khi đến Viên Chăn và hít đầy phổi mùi thuốc phiện, tôi mới cất cánh được.

Chỉ có người Thổ ở trong các toa hạng cao cấp. Khác hẳn với quan điểm của những người hay đi du lịch vẫn cho rằng người dân địa phương không xài hạng sang. Như sợ bị lây ô nhiễm từ các khu vực khác trên tàu, nên những người Thổ ít khi ra khỏi toa ghế nằm của mình và cũng chẳng ra khỏi khoang. Mỗi toa nằm được bố trí hai giường nhỏ, đôi khi tôi tự hỏi không hiểu người ta bố trí nằm thế nào trên hai chiếc giường ấy. Ví dụ, ngồi cạnh tôi là một người đàn ông mặt vàng như nghệ, đi cùng hai phụ nữ mập và hai đứa con trẻ. Tôi thấy họ ngồi thành hàng cạnh nhau ở giường tầng dưới suốt cả ngày, nhưng đêm đến, chỉ có Chúa mới biết có chuyện gì xảy ra. Không toa ngủ nào có ít hơn bốn người và sự chật chội khiến những toa này mang bầu không khí ô nhiễm chẳng khác gì những toa hạng ba mà mấy vị khách du lịch cố tránh xa.

Người Thổ nói tiếng Đức mô tả khu vực còn lại trên tàu thật ồn ào và tỏ vẻ khó chịu. Nhưng những tiếng ồn ào chủ yếu là của đám người nói tiếng Anh. Ở kia, có mấy anh chàng cao ráo, tóc buộc ruy băng và vài cô gái tóc ngắn đang đong đưa với bạn trai, mấy anh chàng này trông õng ẹo như dân đồng tính. Mấy anh chàng gầy nhẳng, tóc bù xù, túi đeo trên vai và mũi rám nắng đang đứng đung đưa ở hành lang, chân của bọn họ đều bẩn. Khi đi dọc xuống các khoang phía dưới, tôi thấy bọn họ trông càng bẩn hơn và kỳ cục hơn, ở những khoang cuối, bọn họ có thể được coi là họ hàng xa của những người Thổ – những người trông sạch hơn nhiều, ở chung toa với bọn họ, nhồm nhoàm nhai bánh mì, gạt thức ăn vụn rơi trên ria mép, vuốt bụng cho mấy đứa bé sơ sinh. Nói chung, đám híp pi mặc kệ những người Thổ, họ cứ chơi ghi ta và ắcmônica, nắm tay nhau, đánh bài. Có kẻ còn nằm dài ra ở trong toa, chiếm diện tích đến một nửa toa, cong người lại “tự sướng” trước con mắt ngạc nhiên của những phụ nữ Thổ đang ngồi nhìn qua lớp khăn che mặt tối màu, tay họ kẹp chặt vào giữa hai đầu gối. Thỉnh thoảng, tôi thấy có một đôi tình nhân rời khỏi toa, dắt tay nhau đi vào nhà vệ sinh để tình tang.

Đa số bọn họ đều đi tới Ấn Độ và Nepal bởi vì: những giấc mơ điên dại nhất ở Kew là thực tại ở Khatmandhu,

Và những tội ác ở Clapham là sự trong sạch ở Martaban.

Phần lớn bọn họ mới đi lần đầu tiên và có một vẻ ngoài ớn lạnh – đây chẳng qua là mặt nạ trên gương mặt của một kẻ đào tẩu. Thực sự, tôi chẳng nghi ngờ chuyện những cô gái tuổi vị thành niên lập ra mấy nhóm phóng túng này cuối cùng sẽ xuất hiện qua những bức ảnh mờ mờ, hoặc ảnh của lễ tốt nghiệp cấp Ba trên những tờ thông báo của các văn phòng lãnh sự Mỹ ở châu Á, trong mục Người mất tích và Bạn có thấy cô gái này không? Những kẻ mới nhập môn đều có trưởng nhóm, rất dễ nhận ra trưởng nhóm thông qua cách ăn mặc: quần áo bạc phếch, ba lô rách tả tơi, trang sức – khuyên tai, bùa hộ mệnh, vòng tay, vòng cổ. Họ có được vị trí trưởng nhóm là nhờ kinh nghiệm, điều này có thể thấy qua trang sức họ đeo – cái gã đang ồn ào ở ngoài hành lang – kinh nghiệm đã cho hắn được là thủ lĩnh của một nhóm. Tóm lại, đây là một trật tự xã hội tương tự như ở bộ lạc Masai.

Tôi thử tìm hiểu xem họ sẽ đi đâu. Thật chẳng dễ gì. Họ hiếm khi ăn ở toa ăn; họ thường ngủ suốt và không được phép đi đến khu cao cấp của người Thổ. Có vài người đứng bên cửa sổ ở hành lang, như trong trạng thái bị thôi miên khi bị cảnh đẹp của đất nước Thổ Nhĩ Kỳ quyến rũ. Tôi rụt rè tiến tới ngồi cạnh hỏi về kế hoạch của bọn họ. Một người thậm chí chẳng quay sang. Anh ta khoảng ba lăm tuổi, tóc rối bời, mặc một chiếc áo phông có dòng chữ “Moto-Guzzi”, đeo một khuyên vàng nhỏ ở thùy tai. Tôi đoán là anh ta đã bán chiếc xe mô tô của mình để mua vé đi Ấn Độ. Anh ta bám tay vào bậu cửa sổ nhìn ra khoảng đất trống màu nâu vàng trước mặt. Anh ta trả lời câu hỏi của tôi bằng một giọng nhỏ nhẹ: “Pondicherry.”

“Đền thờ?” Auroville là một thị trấn nằm gần Pondicherry, phía Nam Ấn Độ, được xây dựng để tưởng nhớ đến Sri Aurobindo (chính trị gia Ấn Độ, 1872-1950), vào thời đó thị trấn này do bà vợ lẽ người Pháp chín mươi tuổi (được gọi là Mẹ) của ông cai quản.

“Tôi muốn ở đó càng lâu càng tốt.”

“Bao lâu?”

“Nhiều năm.” Anh ta nhìn chăm chú một ngôi làng mà chúng tôi vừa đi qua và gật đầu. “Nếu người ta cho phép tôi ở đó.”

Đó là giọng điệu pha lẫn giữa sự sùng đạo và kiêu ngạo, cho ta thấy anh ta có thiên hướng tôn giáo. Nhưng Moto-Guzzi đã có vợ và con ở California. Thật thú vị: anh ta đã chạy trốn khỏi con mình và những cô gái trong nhóm của anh ta thì trốn khỏi cha mẹ.

Một anh chàng khác đang ngồi ở giá chuyển hướng trên tàu, đung đưa chân trong gió. Anh ta đang gặm một quả táo. Tôi hỏi xem anh ta định đi đâu. “Có thể là Nepal,” anh ta trả lời rồi cắn một miếng táo. “Có thể là Ceylon, nếu tiện.” Anh ta cắn một miếng nữa. Quả táo giống như trái đất mà anh ta đang chia ra từng phần, từng phần nhỏ có thể tới được. Anh ta đặt hàm răng trắng vào và lại cắn miếng nữa. “Có thể là Bali.” Anh ta nhai ngon lành. “Cũng có thể tới Úc.” Anh ta cắn miếng cuối cùng và ném cái lõi táo đi. “Ông đang làm gì thế, viết sách à?”

Đây không phải là một thử thách. Anh ta rất hài lòng – bọn họ đều thế cả, chỉ có một ngoại lệ. Đây là cuộc chạy ma ra tông kiểu Đức. Anh ta có thể bị nhìn thấy bất cứ lúc nào trong ngày khi đang làm những bài toán đẳng cự ở khoang hạng hai. Anh ta nghiện sữa chua và cam. Anh ta mặc áo khoác thể thao, có phéc mơ tuya màu xanh và bước đi trên phần đầu của ngón chân. “Tôi đang điên đây,” anh ta nói. Anh ta từng chạy hai chục cây số mỗi ngày. “Nếu con tàu này chạy quá lâu, thì tôi bị mất dáng mất thôi.” Vì một lý do nào đó, tôi không hiểu được rằng anh ta sẽ đến Thái Lan để chạy. Anh ta đã tới Baluchistan. Anh ta bảo tôi rằng tàu đang chạy tới Zarand. Anh ta cười với ý nghĩ rằng: “Ông sẽ rất bẩn khi tới được Zahedan.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.