Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ

Tiếp



Tôi nói: ‘Tôi biết nói tiếng Anh đấy ạ.’

Quý ông người Nhật kia nói ‘Anh là người Ấn à?’ Tôi thưa vâng. Ông ta tự nắm tay vào nhau như thế này rồi nói, ‘Ấn Độ – Nhật Bản. Bằng hữu!’ Tôi mỉm cười với ông ấy. Tôi chưa bao giờ đến Ấn Độ trong đời mình.

Có một vị quan rất to trên xe. Ông ấy chẳng nói gì, nhưng ông kia nói ‘Đây có phải đường đi Maymyo không?’

Tôi nói chính là đường đó. Họ lái xe đi tiếp, leo lên trên đồi. Quân Nhật tiến vào Maymyo như thế đấy.”

“Vợ tôi mất. Năm 1941 tôi tái hôn và có thêm ba con trai, John Henry, Andrew Paul và năm 1945 có thêm thằng Victor. Cậu biết đấy, tên là Victor, vì chiến tranh đã kết thúc. Tôi cố gắng nghỉ hưu. Tôi đã già đi, nhưng chính phủ Miến Điện lại triệu tôi đến mỗi khi có dạ tiệc ở Mandalay. Tôi chưa từng tới Rangoon kể từ năm 1944 hay 1945 gì đó, dù tôi đã đến Mandalay rất nhiều lần. Giờ tôi đi từ đó tới dây. Hai đêm trước có một dạ tiệc, một món nướng nhiều thịt. hai món rau. Không hoành tráng như Dạ tiệc Chiến thắng. Tôi chịu trách nhiệm tổ chức toàn bộ Dạ tiệc Chiến thắng năm 1945 – cho hai trăm người. Chúng tôi khai vị với xúp kem rau, rồi cá hồi trộn mayonnaise, gà quay, các món rau, khoai tây chiên và luộc, cả nước xốt nữa. Bữa ăn kết thúc với bánh xốp kem và một món mặn. Ừ, món mặn thì là cái gì chẳng được, nhưng nhân dịp đó là món Kỵ sĩ Quỷ. Thăn lợn và pho mát được quấn quanh một miếng bánh mì và cố định bằng một cái tăm. Mọi người đều vui sướng trong Dạ tiệc Chiến thắng. A, Maymyo đây rồi.”

Ở đây nhà mọc lên từ những cái cọc, xung quanh là đám cây trạng nguyện cao khoảng mét rưỡi, hoa đỏ mọc búa xua trông như những chiếc ruy băng lễ hội rung rinh. Rồi, qua một đền thờ và một tu viện với những tấm gỗ bị gió mưa biến thành màu đồng xỉn, nhiều nhà cửa hơn xuất hiện, một dãy cửa hiệu, một nhà hát, một nhờ thờ Hồi giáo trên con phố rộng đầy bùn đất. Nhà ga có khoảng sân rộng chưa được lát và vì trời vẫn đang mưa phùn nên vài chỗ trên sân bị ngập nước, những chỗ còn lại bị giày xéo thành một thứ bùn sánh như cháo đặc.

Ông Bernard hỏi: “Cậu định trọ ở đâu?”

Tôi nói chưa có ý tưởng gì dù là nhỏ nhất.

“Vậy cậu nên đến Candacraig,” ông nói. “Tôi là người quản lý – tôi đặt phòng cho cậu nhé?”

“Vâng,” tôi nói. “Sau đấy cháu còn đi tiếp – cháu phải mua vé đi Gokteik.”

Trong lúc đi tìm phòng vé, tôi bước nhầm vào phòng điều hành radio, trong đó một người lai Á-u râu quai nón đeo cà vạt vàng, mái tóc chải xuống gọn gàng đang ngồi nghe tín hiệu Moóc và viết nguệch ngoạc lên một tập giấy. Anh nhìn tôi và đứng dựng dậy, bắt tay tôi. “Liệu tôi có thể giúp gì được anh?”

Tín hiệu Moóc vẫn đang tiếp tục. Tôi nói có lẽ anh nên nghe tiếp.

“Cũng chẳng quan trọng lắm đâu,” anh đáp.

Tôi để ý tập giấy với nét bút chì viết chữ Miến Điện.

“Họ gửi cho anh tín hiệu Moóc tiếng Miến à?”

“Tại sao không chứ?” Anh giải thích rằng tiếng Miến Điện có ba mươi sáu chữ cái, nhưng thỉnh thoảng họ gửi tín hiệu Moóc theo tiếng Anh.

“Làm sao anh biết là họ đang gửi tín hiệu bằng tiếng Miến Điện hay tiếng Anh?”

“Giả sử anh đang nhận tín hiệu tiếng Miến Điện. Tín hiệu cứ thế được một lúc. Rồi anh nhận được mười hai chấm. Điều đó có nghĩa sau đó là tiếng Anh. Rồi anh sẽ nhận tín hiệu tiếng Anh. Rồi lại thấy mười hai chấm nữa có nghĩa là họ sẽ quay lại tiếng Miến Điện. Anh hiểu không, tại vì trong tiếng Miến Điện không có những từ như ‘cần pít-tông’ hay ‘trục khuỷu’. Hay đấy chứ.”

Anh nói nhanh, điệu bộ có vẻ bồn chồn. Da anh tối màu như người Miến Điện, nhưng cái mũi khoằm và khuôn mặt nhăn nheo như một nông dân người Ý.

“Tiếng Anh của anh rất tốt.”

“Tiếng mẹ đẻ của tôi mà!” Anh nói tên là Tony. Thực ra tôi đến phát điên ở cái điểm trung chuyển này. Tôi ở trên Hsipaw cơ, nhưng tôi đến đây vì cái ông tướng làm ở Maymyo bỏ việc. Họ chẳng có người thay, nên tôi cứ phải ở đây tới tận ngày mười chín. Gia đình tôi ở Hsipaw và lẽ ra tôi phải về đó mấy tuần rồi – tôi có sáu nhóc, chúng đang băn khoăn bao giờ bố mới về. Anh định đi đến đâu nhỉ?”

Tôi nói với anh rằng tôi muốn đi tàu đến Gokteik, nhưng tôi đã nghe nói là bị cấm.

“Chẳng có vấn đề gì. Bao giờ anh muốn đi? Ngày mai à? Có chuyến tàu lúc bảy giờ đấy. Chắc chắn là tôi có thể giúp anh lên tàu. Tôi đoán rằng anh muốn xem cây cầu – nó đẹp đấy. Buồn cười nhỉ, chẳng có mấy ai đi lên tận đấy. Khoảng một năm trước có một ông mãnh – hắn là người Anh – đi đến Lashio. Bọn lính chặn lại và đuổi hắn xuống tàu ở Hsipaw. Tâm trạng hắn lúc đấy não nề lắm – bị cắt hết mọi mối liên lạc. Tôi bảo hắn đừng lo. Bọn cảnh sát sát tới và gây phiền hà một chút, nhưng hôm sau tôi cho hắn lên tàu đi Lashio và khi cảnh sát tới vào lúc chín giờ tôi nói ‘Hắn đến Lashio rồi,’ thế là bọn họ chẳng làm được gì cả.”

“Thế đến Gokteik có phạm luật không?”

“Có thể có, có thể không. Chẳng ai biết cả – nhưng tôi sẽ cho anh lên tàu. Đừng lo.”

Anh tiễn tôi ra tới sân trước nhà ga; nơi đó, dưới trời mưa và một khoảng không gian rộng đầy bùn đất, có khoảng ba mươi xe ngựa chở khách đang đỗ – những thùng xe gỗ đã phai màu sơn, cửa xe đều nứt nẻ và những tay phu xe đội mũ rộng vành, khoác áo vải mưa nhựa không tay vút những chiếc roi da cứng lên lũ ngựa đã bị bịt mắt. Lũ ngựa giậm chân, nhiều con đang cố kéo những cỗ xe chất đầy hàng khỏi đống bùn – những cỗ xe quá tải với gói, hộp, hòm xiểng chất lên tận nóc và ở cả sáu mặt cửa sổ. Với giá chuyển hướng động cơ hơi nước phía đằng sau, hình ảnh những cỗ xe ngựa gharri – cùng trời mưa, bùn lầy và những người Miến Điện quấn khăn chống lại giá lạnh – đã hoàn chỉnh bức tranh về một thị trấn vùng biên. Một bác phu xe vụng về bước về phía tôi với đôi ủng lấm bùn (những phu xe khác đi xăng đan cao su và một số thì đi chân trần, tuy nhiên tất cả đều mặc áo khoác ngoài nặng trịch), Tony nói với bác này đưa tôi đến Candacraig.

Bác phu xe già nhấc bổng cái túi của tôi lên trên nóc và phủ nó bằng một miếng bạt cứng trước khi buộc xuống. Tôi chui vào trong cỗ xe bằng gỗ và chúng tôi lên đường, đường xóc nên xe lắc lư; tôi ngồi thẳng lưng, nhìn màn mưa trên những con phố rộng của Maymyo với những hàng cây bạch đàn. Những căn nhà gỗ xiêu vẹo, những căn nhà xây bằng gạch trông cổ kính mà mong manh trong cơn mưa, ở góc phố chính, trước một căn nhà hai tầng bằng gỗ có mái hiên, một cỗ xe ngựa đang rẽ, người đàn ông quất con ngựa khi nó đang chạy nước kiệu sát lề con đường gập ghềnh – trên đường chẳng thấy cái xe ô tô nào – con ngựa hí lên trong thị trấn mưa gió tối tăm, trong ánh sáng le lói mờ mịt giữa cơn dông bão trên con phố ướt át, ngay trước các cửa hàng Trung Quốc. Tiệm may Thượng Hải và Nhà hàng Charlie. Cảnh tượng trông giống như một bức vẽ Klondike[3] bằng mựa sepia, màu nâu và tĩnh lặng, tưởng như đã trải qua một thế kỷ như vậy mà không có gì chuyển động ngoài việc cận cảnh có hình ảnh con ngựa đen nhạt nhòa đang kéo xe trong mưa.

[3] Một dòng sông ở Bắc Mỹ nơi có nhiều người đổ đến đãi vàng đầu thế kỷ 20.

Candacraig ở phía trên thị trấn, trên đỉnh núi Tây, cách nhà ga gần năm ki lô mét. Ở đây, nhà cửa đều to, với những tòa tháp và mái nhà lợp bằng đá, những viên gạch trở nên đỏ quạnh trong mưa, đó là nhà cũ của những viên chức dân sự người Anh, họ đến Maymyo khi thủ đô được chuyển tới đây vào mấy tháng mùa hè. Chúng tôi đi qua những tòa nhà mang tên Cây Thông, Nhà Đỉnh núi và Cảnh Rừng; Candacraig nằm ở trên đỉnh một quả đồi nhỏ, giống như một biệt thự ở Newport hay Eastbourne, có cổng vòm, mái hiên đầu hồi và phía trên cửa là một dàn thường xuân uốn theo dọc cửa được tỉa tót gọn gàng.

Tôi trả tiền cho bác phu xe rồi đi vào sảnh cao như chính tòa nhà. Những căn phòng chạy dọc phía trên sảnh, theo một hành lang được cắt bởi một cầu thang đôi hình đàn lira vươn lên tận đầu hành lang. Phía trên lò sưởi ốp gỗ tếch là một cái quầy trống trơn; những bức tường cũng trống trơn, sàn nhà được lau bóng phát ra ánh sáng dịu, lan can cầu thang sáng bóng; trong một gian sảnh bằng gỗ rộng lớn như thế này mà lại không có đồ trang trí gì. Nó trống rỗng. Có mùi sáp. Tôi gõ nhẹ lên quầy.

Một người đàn ông xuất hiện. Tôi đã nghĩ đó là ông Bernard, nhưng lại là một người đàn ông đeo kính dày; không phải người Ấn Độ hay người Miến Điện, với bộ răng hô nổi bật và đôi bàn tay to lớn ngượng nghịu. (Sau này tôi được biết anh ta là người Ceylon, nhưng có thể xem như anh ta bị bỏ rơi lại xứ Thượng Miến Điện này ba mươi năm rồi). Anh ta nói rằng ông Bernard đã bảo là tôi sẽ tới, rằng tôi là người khôn ngoan nên sẽ đến Candacraig – những khách sạn khác ở Maymyo thì chẳng có trang thiết bị gì cả.

“Họ không có trang thiết bị gì cơ?”

“Xà phòng ạ, thưa Quý ông.”

“Không có xà phòng ấy à?”

“Không ạ, thưa Quý ông. Và không có cả chăn, ga trải, khăn tắm và đôi khi còn chẳng có cả thực phẩm. Họ chẳng có gì cả. Họ chỉ có một chỗ cho khách ngả lưng nhưng chẳng có thêm gì khác, thưa Quý ông,” anh ta quay ra nói với ông Bernard vừa bước vào phòng, “Con đã bố trí Quý ông đây vào Phòng số 10.”

Ông Bernard đưa tôi đến phòng, xúc một xẻng đầy than nhóm lửa trong lò sưởi và luôn miệng kể về Candacraig. Tên của khách sạn được đặt theo kiểu Scotland, địa điểm này thực sự là một “khu nhà tập thể” dành cho những viên chức chưa kết hôn của Công ty Thương mại Bombay – Miến Điện, nhằm tránh cho các anh chàng này khỏi những rắc rối của mùa nóng sau những tháng làm việc tại các lâm trường xa xôi: ở đây họ có thể tắm nước lạnh, chơi bóng bầu dục, cricket và polp. Đế chế Anh hoạt động dựa trên một lý thuyết rằng độ cao sẽ xốc dậy tinh thần. Ông Bernard cứ tiếp tục nói. Cơn mưa giội vào cửa sổ và tôi có thể nghe thấy nước chảy khắp mái nhà. Nhưng ngọn lửa đã cháy rực và tôi đang ngồi trên ghế bành, hơ đôi chân, hút tẩu và mở tập thơ của Browning ra.

“Cậu có muốn tắm nước nóng không?” Ông Bernard lịch thiệp hỏi tôi, “Thế thì rất tốt, tôi sẽ sai con trai tôi mang mấy xô lên. Mấy giờ thì cậu muốn ăn tối? Tám giờ à. Cảm ơn cậu. Cậu có muốn uống chút gì không? Tôi sẽ tìm một chút bia nhé. Cậu có thấy căn phòng ấm áp thế nào không? Phòng rộng nhưng lửa sưởi rất tốt. Tiếc là trời ngoài kia lại mưa rét. Nhưng ngày mai cậu sẽ lên tàu đi Gokteik mà. Chúng tôi từng đóng trại ở đó – Pháo binh Hoàng gia Anh ấy mà. Ở Gokteik thì không có gì để ăn đâu, nhưng tôi sẽ làm cho cậu một bữa sáng ngon và khi cậu về thì trà đã sẵn sàng. Ở đây thật thoải mái, nhưng ở trên ấy thì chỉ có rừng thôi.”

Đêm hôm đó tôi ăn tối một mình, dưới ánh nến, tại một cái bàn ăn khổng lồ. Ông Bernard đã bố trí chỗ của tôi gần lò sưởi. Ông đứng cách tôi một quãng, không nói một lời, lướt qua lần này đến lần khác để chuốc thêm đồ uống vào cốc của tôi hoặc bưng đến món mới. Tôi nghĩ rằng tôi cũng gan lì như người đứng kế bên tôi, nhưng tôi có một phần nào đó trong mình – có khi cũng chính là phần thích đi tàu hỏa – tận hưởng các chuyến đi chỉ vì những lần nghỉ chân dễ chịu trên đường, một kẻ lười nhác thích hưởng những thú vui bình dân, đi khắp châu Á để thỏa mãn cái thú đó và biện hộ cho niềm vui của mình bằng khoảng cách đi được. Vậy là tôi đã đi tận bốn mươi nghìn ki lô mét để tới đây, nằm lười nhác ở Maymyo, hơ mông sưởi ấm và mỗi lần được người ta phục vụ thì lại quên mất chỗ đang đọc dở trong tập Bishop Blougram’s Apology[4] (Lời xin lỗi của Bishop Blougram): tôi là người khách duy nhất trong căn biệt thự hai mươi phòng ở Miến Điện này.

[4] Một tập thơ của Robert Browning.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.