Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ
Tiếp
Tôi không thực sự thích thú trở lại phòng chiếu xem The Blood-Stained White Body (Xác chết trắng đẫm máu), nhưng tôi xem Japan Sinking (Nước Nhật đang chìm). Đây là màn miêu tả vui nhộn, do mười cô gái trần truồng và mười vũ công nam pê đê thể hiện, về cách Nhật Bản rốt cuộc sẽ ra sao. Tiết mục cuối cùng là một vở độc diễn có tên “Onna Harakiri”, mọi thứ rõ ràng ngay, Onna là tên của cô gái đang cởi bộ kimono của mình ra, cô ta rút gươm và đâm vào bụng mình. Một người đàn ông ở dưới sân khấu ngâm nga cái gì đó giống như một bài thơ Nhật có giai điệu và nhịp điệu của “The Raven”. Onna đau khổ, trần như nhộng, đâm lưỡi kiếm vào và rút nó để sang một bên. Máu tuôn ra từ giữa bụng cô, phun xuống sân khấu và cô ngã xuống. Nhưng cô vẫn sống. Cô lại quỳ dậy và như bài thơ miêu tả, tự đâm vào đùi trái, đùi phải và dưới mỗi cánh tay, máu chảy đầm đìa. Người Nhật thông minh tới mức chưa cần cô gái nỗ lạc đến lần thứ sáu, tôi đã thấy mỗi lần như thế cô lại đâm thủng một túi máu nhỏ. Bây giờ người có đầy máu, chiếu cũng dính máu và những khán giả hàng ghế trước lau máu đi bằng khăn mùi soa. Cuối cùng, cô cũng thành công: cô cho các khán giả tôn kính thấy cơ thể đầy máu và đâm lưỡi kiếm còn đang nhỏ máu vào cổ họng, xuyên qua đầu giống như cắm một cái kẹo vào que. Máu phun dưới hàm xuyên thủng nhiều lỗ, cô ngất đi và nằm thẳng đờ. Sàn sân khấu quay tròn giúp mọi người thấy cảnh chết chóc trước khi hạ xuống khoang bên dưới sân khấu, ngừng lại một chút để Onna giơ cánh tay đầy máu lên: cánh tay được khán giả tán thưởng khi ánh sáng phụt tắt.
Bên ngoài Nhà hát Nichigeki, đàn ông Nhật, những người khi nãy đã yên lặng xem và sau đó hào hứng tán thưởng sự dâm dục dã man chỉ được diễn một lần – lúc ấy họ nhe răng ra – những người này, như tôi nói, cúi gập người chào người khác, khẽ khàng lời từ biệt bạn bè, nhẹ nhàng khoác tay vợ theo kiểu của những cặp tình nhân thời xưa, trong ánh sáng chói lòa trên đường, họ mỉm cười, trông vô cùng hiền hậu.
Chuyến tàu nhanh Hatsukari có mũi tàu hình viên đạn (tên của nó, “Chim buổi sớm”, ngụ ý giờ nó đến Aomori chứ không phải việc nó đi từ Tokyo) rời ga Ueno vào bốn giờ mỗi chiều. Ga Ueno chật cứng những người đội mũ lông, mang ván trượt tuyết, áo dày chống tuyết ở phía cuối hàng: những người này đang đi nghỉ. Nhưng cũng có những người trông đen hơn, nhỏ hơn, mặt giống người Eskimo trở về nhà Hokkaido. Người Nhật dùng từ nobori-san (quê mùa) để miêu tả họ: theo nghĩa đen là “những người đi xuống, mang cái quê mùa “theo chuyến tàu đi xuống”, những người này, sống ở nông thôn và đến nghỉ tại Tokyo, bị coi là quê mùa. Trong tàu, họ yên vị trên ghế, cởi bỏ giày tuyết và ngủ. Họ trông thanh thản trên đường về quê và mang bên mình những món quà lưu niệm từ Tokyo: bánh ngọt gói trong giấy bóng kính, hoa gói trong bọc giấy, gói hoa quả khô được thắt ruy băng, búp bê gói trong giấy mềm, đồ chơi nhét đầy các hộp. Người Nhật là những người đóng gói hàng hóa tuyệt vời. Những món quà lưu niệm được nhồi nhét trong các túi nhựa mua hàng, theo đó hình thành nên đáy hành lý của một khách du lịch Nhật. Và có những đồ khác, anh nobori-san này, vì không tin tưởng thức ăn của Công ty Đường sắt Quốc gia Nhật Bản nên tự mang theo hộp đồ ăn trưa. Khi anh ta tỉnh dậy, anh ta tìm ở dưới chân mình, lấy một hộp thiếc đựng cơm và cá còn chưa mở để ăn, vừa thổi vừa nhai mà không cần nhoài người hay đứng dậy khỏi ghế. Bản thân chuyến tàu thì tĩnh lặng; tôi chỉ nhớ âm thanh của đoàn tàu Nhật là âm thanh của ăn uống, đó cũng là âm thanh của một người đàn ông đang thổi quả bóng bay.
Một loa âm nhạc khuếch đại, mười tiếng báo hiệu và một thông điệp đã được ghi âm trước thông báo các điểm dừng của đoàn tàu. Lời cảnh báo là cần thiết bởi các lần dừng tàu rất ngắn: mười lăm giây tại Minami-Urawa, một phút tại Utsunomiya và hai tiếng sau, một phút rưỡi nữa tại Fukushima. Hành khách không chuẩn bị trước có thể bị kẹp vào cửa hoặc bỏ lỡ mất điểm dừng của mình. Rất lâu trước khi tiếng nhạc và thông báo phát ra, những người Nhật có kinh nghiệm đã mang các túi đồ ra cửa để, ngay khi tàu dừng và cửa mở, họ bắt đầu xô đẩy một cách điên loạn về phía sân ga. Sân ga được thiết kế cho cả đám người xô đẩy, ngang bằng với bậc cửa. Ánh sáng trong toa không bao giờ tắt, khiến người ta không ngủ được, nhưng đảm bảo cho hành khách thu dọn hành lý của mình vào lúc hai giờ sáng khi tàu vào và dừng mười lăm giây tại ga của anh ta.
Thật hiệu quả! Thật tốc độ! Nhưng tôi thích giường nằm của đường sắt Ấn Độ, khoang ngủ rộng trong toa xe bằng gỗ đầy mùi cà ri và xì gà, nữ phục vụ giặt là mặc áo chẽn, cổ áo có ký hiệu riêng; bên trên bồn rửa có một bình nước và trong phòng lớn có nam phục vụ bưng chiếc khay đựng một chai bia: đoàn tàu phát giai điệu bài “Alabammy Bound’ hoặc “Chattanooga Choo-Choo,” thể hiện đặc điểm tuyệt vời nhất của phiên chợ đường sắt. Ở trên một chuyến tàu chậm thế này, hầu như không thể nào bị “duffill” được.
Những chuyến tàu nhạt nhẽo của Nhật không làm nản lòng tôi, nó đem đến cho tôi một sự căng thẳng ngọt ngào mà tôi thường có khi đi lại bằng máy bay. Tàu Nhật Bản mang lại các triệu chứng của nỗi sợ bị bao bọc mà tôi từng có ở chuyến tàu tốc hành Quốc tế của Thái Lan – một trạng thái hồi hộp nặng nề đã biến mất trong tôi sau vài tháng đi lại. Đi lại – thậm chí trong tình trạng lý tưởng – đã bắt đầu khiến tôi lo lắng, tôi nhận thấy ở nhiều địa điểm khác nhau, việc di chuyển tức thì đã hoàn toàn tách tôi ra khỏi môi trường xung quanh, đến mức tôi hình như đang ở nơi nào đó lạ lẫm, liên tục bị dằn vặt bởi cảm giác đi từ thất bại này tới thất bại khác của một kẻ thất nghiệp. Trạng thái thôi miên bao trùm lấy tôi trên suốt quãng đường tới Aomori, có rất nhiều thứ để nghĩ khi đang đi trên một chuyến tàu nhanh, khô ráo, ngồi giữa những người yên lặng và nếu họ có nói chuyện thì cũng không hiểu được gì. Tôi bị kẹt giữa khung cửa kính đúp. Tôi thậm chí còn không mở được cửa sổ. Chuyến tàu vút qua những sân ga sáng choang vẳng lặng của các nhà ga miền quê vào ban đêm, và trong một khoảnh khắc kéo dài, tôi trải qua trạng thái bị cô lập cao độ mà mình đã từng có trước đây, nói ngắn gọn, trong một vài khoảnh khắc cô đơn, tôi không thể nghĩ được tôi đang ở đâu hoặc tại sao tôi lại tới đó.
Quyển sách tôi đang đọc trên chuyến tàu càng làm tôi buồn thêm. Đấy là quyển Japanese tales of mystery and imagination (Những câu chuyện huyền bí và tưởng tượng của Nhật) của Edogawa Rampo. Tên thật của Rampo là Hirai Taro và giống như người trùng tên với mình – biệt danh của ông ta là phiên bản Nhật của Edgar Allan Poe – ông ta tập trung vào những chuyện rùng rợn. Những sáng tạo văn chương của ông ta thật vụng về, phong cách văn chương nhấm nhẳng như chọc tức; còn tôi thì bị thu hút bởi sự vô lý trong các truyện, vì không thể bỏ qua những chuyện kinh dị, giống như khán giả Nichigeki đã coi điệu ri ga đông ghê tởm là trò giải trí. Ở đây phảng phất một hình ảnh nữa về tinh thần khổ hạnh Nhật Bản. Nhưng làm sao có thể hòa hợp được nó với những nhân vật im lặng trên con tàu sáng choang, những người di chuyển tựa như điều khiển các bóng bán dẫn này? Có cái gì đó không ổn; điều mà tôi đọc được đối nghịch với những hành khách này. Một chàng trai anh hùng trong truyện “A Heil of Mirrors” (Những tấm gương địa ngục) có “đam mê khó hiểu đối với quang học,” anh ta dán mình lên một tấm gương cầu, thủ dâm với cái bóng kỳ quái của mình và thích xem phim ảnh khiêu dâm phát rồ; còn trên ghế đối diện với tôi là một cậu trai cùng độ tuổi, bị cái đầu của người ngồi trước mặt âm thầm làm cho chết khiếp. Ở một câu chuyện khác, “The human chair” (Người ghế), một người thợ làm ghế dâm đãng, “xấu không thể tả,” tự giấu mình vào một trong những tác phẩm của ông ta, tự cung cấp thức ăn nước uống và “vì một trong những nhu cầu tự nhiên khác, tôi cũng gài vào ghế một cái túi cao su lớn.” Cái ghế mà ông ta giấu mình vào được bán cho một người đàn bà duyên dáng, người khiến cho ông ta sợ hãi mỗi lần cô ta ngồi lên, không biết mình đang ngồi lên lòng một người đàn ông, – kẻ tự mô tả mình là “một con sâu… một sinh vật ghê tởm.” Người ghế thủ dâm và viết (bằng cách này hay cách khác) một bức thư cho người đàn bà duyên dáng kia. Cách tôi vài ghế ở phía trên trong chuyến tàu Hatsukari là một người đàn ông béo, lùn, xấu, đang ngồi chống tay lên gối: nhưng hắn đang cười. Bị Rampo đánh lạc hướng, cuối cùng tôi quyết định bỏ qua hắn. Tôi tiếc là biết quá ít tiếng Nhật, nhưng còn tiếc hơn khi không có chỗ nào để náu thân trên chuyến tàu cao tốc này.
Một cô gái trẻ ngồi bên cạnh tôi. Ngay từ đầu chuyến tôi đã xác định cô này không biết nói tiếng Anh và gần như toàn bộ thời gian từ khi chúng tôi rời ga Ueno, cô ta vẫn đọc cuốn truyện tranh dày cộp. Khi chúng tôi đến điểm cực Bắc của Honshu, tại ga Noheji (mười lăm giây) trên vịnh Mutsu tôi nhìn qua cửa sổ và thấy tuyết nằm giữa các đường ray và cánh đồng tràn ngập ánh trăng. Cô gái đứng lên, đặt quyển truyện tranh xuống, đi hết toa tàu để đi vệ sinh. Một ánh đèn màu xanh “CÓ NGƯỜI Ở TRONG” sáng lên, lúc đèn sáng tôi đọc cuốn truyện tranh đó. Tôi đã được hướng dẫn và cảnh báo. Quyển truyện tranh toàn chuyện chém giết, ăn thịt đồng loại, người đánh nhau với các mũi tên giống như Thánh Sebastian, người bị đốt, đội quân ăn cướp gào thét chặt chân tay chân dân làng, người tàn phế với phần thân thể rỉ máu và tóm lại, cực kỳ lộn xộn. Nét vẽ không đẹp, nhưng rõ ràng. Giữa những câu chuyện đầy bạo lực có những truyện tranh ngắn và ba trong số đó dựa trên hiệu ứng câu giờ: một người đàn ông hoặc đàn bà bị mắc kẹt đang cúi gập xuống, để lộ ra cặp mông vĩ đại và bốc ra một luồng hơi thối (những luồng bồ hóng được vẽ bằng các đường nét lượn sóng và mây). Cô gái quay trở lại ghế của mình, nhờ Chúa giúp mà tôi nhẹ nhàng trả lại quyển truyện tranh đầy bạo lực.
Loa thông báo đã đến Aomori, phà đang cập bến, đưa ra những lời hướng dẫn và khi tàu đi vào ga, hành khách đã dồn ra lối đi ngay khi nghe được âm tiết đầu tiên của lời thông báo, họ nhanh chóng qua các cửa xuống sân ga. Những nông dân nuôi gà với các món quà lưu niệm của họ, những bà già đi lại khó khăn trên đôi guốc gỗ, bọn trẻ mang đồ trượt tuyết, cô gái với quyển truyện tranh: đi qua sảnh của ga, lên cầu thang, đi xuống vài đoạn dốc, bước nhanh rồi va vào nhau, mắc chân trong đôi xăng đan bè ra dưới những ngón chân to đùng – phụ nữ thì lê bước, đàn ông thì chạy. Sau đó đến mục xếp hàng ở cửa quầy trước nơi đục lỗ vé, sáu người soát vé vẫy hành khách đi tàu đến khu vực của họ: Phòng vé xanh hạng nhất, Phòng bình thường, Phòng giường ngủ, Phòng hạng hai không trải thảm, Phòng hạng hai có trải thảm (ở đây hành khách ngồi đan xen nhau trên sàn). Trong vòng mười phút, hai nghìn hai trăm khách đã chuyển từ tàu hỏa lên phà và mười lăm phút sau khi chuyến tàu Hatsukari đến Aomori, chiếc phà Towada Maru hú còi rời bến đi xuyên qua eo biển Tsugaru. Tại cảng Rameswaram Ấn Độ, hoạt động tương tự liên quan đến chuyển từ tàu hỏa sang tàu thủy đã diễn ra trong gần bảy tiếng đồng hồ.
Tôi ở trong Phòng vé xanh cùng khoảng một trăm rưỡi người, những người cũng giống như tôi cố điều chỉnh ghế ngồi của mình. Những cái ghế dựng; được ngả ra sau và trước khi các bóng đèn mờ đi, nhiều người đã ngủ. Bốn tiếng đi qua eo biển rất vất vả; tuyết ở Aomori ken dày và chúng tôi đang đi trong bão tuyết. Chiếc tàu nghiêng ngả, thiết kế của nó hạn chế tối thiểu tiếng kêu cọt kẹt, bọt nước bắn lên cả sàn tàu và những bông tuyết bay vào qua các ô cửa sổ. Tôi đi ra boong tàu nhưng không chịu nổi cái lạnh, khung cảnh đầy tuyết và màu nước đen ngòm. Tôi ngồi yên vị trên ghế, cố ngủ. Vì có bão tuyết, cứ bốn mươi lăm giây một lần, con tàu lại hú còi trên eo biển.
Vào lúc bốn giờ, có tiếng chim hót líu lo trên loa: lại một đoạn ghi âm khác. Nhưng trời vẫn còn rất tối. Cái loa phát ra vài từ và mọi người đứng dậy, chạy ra cửa cabin. Chiếc phà trượt theo cạnh của nó, cầu tàu đã được kiểm tra, cánh cửa bật mở và mọi người đều chạy qua tuyết khô trên đường dốc của ga Hakodate tới chuyến tàu đang đợi họ. Tôi bây giờ đang di chuyển với vận tốc Nhật Bản. Tôi đã học được tại Aomori là mình chỉ có chưa đầy mười lăm phút để lên chuyến tàu phía Bắc tới Sapporo và tôi không mong bị bỏ rơi ở một nơi tiêu điều như thế này.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.