Trong suốt nửa tiếng đồng hồ khốn khổ, Wyatt Gillette ngồi im trong phòng giam lạnh lẽo thời trung cổ, cố không suy đoán xem điều đó có thực sự xảy ra hay không – rằng hắn sẽ được thả. Hắn sẽ không cho phép bản thân mình hy vọng, dù chỉ là một tia hy vọng nhỏ nhoi ở trong tù, hy vọng là thứ đầu tiên phải chết.
Rồi, với một tiếng “cách” nhỏ như không, cánh cửa mở ra và những cảnh sát quay trở lại.
Gillette ngẩng lên nhìn và thấy trên dái tai bên trái của Anderson có một lỗ khuyên đã tịt từ lâu. Viên cảnh sát nói, “Có một thẩm phán đã ký lệnh tạm thả”.
Gillette nhận ra rằng nãy giờ mình vẫn ngồi im với hai hàm răng cắn chặt và đôi vai căng cứng. Hắn thở phào nhẹ nhõm vì thông tin vừa rồi. Cảm ơn, cảm ơn…
“Giờ thì, cậu có một lựa chọn. Trong suốt thời gian ở ngoài, cậu muốn bị còng tay hay một cái xiềng chân có thiết bị phát tín hiệu?”
Tên tù cân nhắc và đáp, “Xiềng chân”.
“Đó là một sản phẩm mới”, Anderson nói. “Bằng Titanium. Cậu chỉ có thể đeo vào và tháo ra bằng một chiếc chìa khóa đặc biệt. Chưa từng có ai thoát khỏi cái này.”
“Chà, có một gã đã làm được đấy”, Bob Shelton nói đầy hào hứng. “Nhưng hắn phải chặt chân mình để thoát ra. Hắn chỉ chạy được có một dặm trước khi chảy máu đến chết.”
Lúc này, Gillette chẳng ưa gì Shelton, chẳng khác gì việc tay cớm lực lưỡng ấy cũng ghét bỏ hắn vậy.
“Nó theo dõi tín hiệu của anh trong phạm vi sáu mươi dặm và phát tín hiệu xuyên qua cả kim loại”, Anderson tiếp tục.
“Ông đã đạt được mục đích”, Gillette nói. Rồi quay sang viên giám ngục, “Tôi cần vài thứ trong buồng của mình”.
“Thứ gì?”, ông ta càu nhàu. “Anh sẽ không nhởn nhơ ở ngoài lâu đến thế đâu, Gillette. Không cần phải thu dọn đồ đạc.”
Gillette nói với Anderson, “Tôi cần vài quyển sách và sổ ghi chép của mình. Tôi có rất nhiều tài liệu có ích từ những tạp chí như Wired và 2600”.
Viên cảnh sát CCU nói với người giám ngục, “Việc đó thì ok”.
Một âm thanh điện tử inh tai kêu ầm ĩ gần đó. Gillette giật bắn mình vì tiếng động đó. Phải mất đến một phút để định thần đó là âm thanh gì, hắn chưa bao giờ nghe thấy nó ở San Ho. Frank Bishop trả lời điện thoại. Viên cảnh sát nhấc máy, nghe một lúc, gõ nhẹ vào phần tóc mai, rồi trả lời, “Vâng, thưa đại úy… Và?”. Trong suốt một khoảng lặng kéo dài, ông ta mím chặt môi. “Ông không thể làm được gì?… Vâng, thưa ngài.”
Ông ta dập máy.
Anderson nhướn lông mày nhìn ông ta. Viên thanh tra trọng án nói một cách bình thản, “Đó là Đại úy Bernstein. Có một báo cáo khác trên điện thoại về vụ án MARINKILL. Các hung thủ được phát hiện ở gần Walnut Creek. Hẳn chúng đang trên đường hướng về phía này”. Ông ta nhìn Gillette như thể anh ta là một vết bẩn trên chiếc ghế dài và nói với Anderson, “Tôi nên nói với ngài là, tôi đã yêu cầu được tách khỏi vụ này và chuyển sang vụ kia. Nhưng họ không đồng ý. Đại úy Bernstein cho rằng tôi sẽ có ích hơn ở đây”.
“Cảm ơn vì đã cho tôi biết điều đó”, Anderson nói. Mặc dù, Gillette cảm thấy viên cảnh sát CCU chẳng có vẻ gì là cảm kích khi biết rằng viên thanh tra chỉ hời hợt chứ không thực sự hết mình với vụ án. Anderson hỏi Shelton, “Còn anh, có muốn chuyển sang vụ MARINKILL không?”.
“Không. Tôi thích vụ này hơn. Cô gái bị giết ở khu vực khá gần địa phận của tôi. Tôi muốn đảm bảo rằng điều này sẽ không lặp lại một lần nữa.”
Anderson nhìn đồng hồ. Bây giờ là 9:15. “Chúng ta cần phải quay lại CCU.”
Viên giám ngục triệu tập người quản tù to lớn và đưa chỉ thị cho anh ta đưa Gillette quay lại hành lang về buồng của mình. Năm phút sau, hắn đã lấy được những thứ cần thiết, đi vệ sinh và mặc áo khoác. Hắn đi trước theo người quản tù về khu trung tâm của San Ho.
Bước qua một cánh cửa, rồi một cánh cửa khác, đi khỏi khu vực đón khách – nơi mà hắn có thể gặp bạn mỗi tháng một lần và phòng gặp gỡ luật sư – nơi hắn đã mất hàng tiếng đồng hồ cho nỗ lực kháng án vô vọng với gã khốn đã lấy đi từng đồng xu mà hắn cùng Ellie tích cóp được.
Cuối cùng, thở gấp trước nỗi phấn khích tràn đến như một cơn lũ, Gillette bước qua cánh cửa thứ hai ngay trước cánh cửa cuối cùng, vào khu vực văn phòng và nơi chứa tủ đồ của các quản tù. Mấy tay cảnh sát đang đợi hắn ở đó.
Anderson gật đầu với người quản ngục, anh ta tháo còng tay ra. Lần đầu tiên trong vòng hai năm qua, Gillette không còn bị kìm kẹp thể xác trong nhà tù. Hắn đã được tự do theo một ý nghĩa nào đó.
Hắn xoa xoa cổ tay khi họ bước về phía cửa ra – hai cánh cửa gỗ với kính chịu nhiệt và lưới mắt cáo bên trong, mà qua đó Gillette có thể thấy bầu trời màu xám. “Chúng tôi sẽ đeo kiềng chân cho cậu ở bên ngoài”, Anderson nói.
Shelton hùng hổ bước về phía tên hacker và thì thầm, “Tôi muốn nói một điều, Gillette. Có thể cậu nghĩ rằng mình đang có cơ hội nắm trong tay một thứ vũ khí, hay bất cứ cái gì đi chăng nữa, với hai bàn tay tự do kia. Chà, chỉ cần cậu có một cái nhìn ngứa mắt mà tôi không thích, thì cứ xác định là sẽ bị đập một trận nhừ tử đi. Hiểu chứ? Tôi sẽ không ngần ngại oánh cho cậu một trận ra trò đâu”.
“Tôi xâm nhập vào một máy tính”, tay hacker nói, đầy kích động. “Tất cả những gì tôi có thể làm chỉ có thế. Tôi chưa bao giờ làm hại bất kỳ ai.”
“Hãy ghi nhớ những điều tôi nói.”
Gillette lặng lẽ bước nhanh về phía trước để bắt kịp Anderson. “Chúng ta đang đi đâu đây?”
“Văn phòng của Đơn vị điều tra tội phạm máy tính của bang ở San Jose. Đó là một khu vực tách biệt. Chúng ta… “
Một tiếng còi báo động rú lên và chiếc đèn đỏ nhấp nháy trên thiết bị phát hiện kim loại mà họ đang bước qua. Bởi vì họ đang rời đi, chứ không phải bước vào nhà tù, nên viên cảnh sát điều khiển hệ thống an ninh đã tắt báo động và gật đầu cho họ đi tiếp.
Nhưng ngay khi Anderson đặt tay lên cánh cửa phía trước toan mở nó ra thì một tiếng nói vang lên, “Xin thứ lỗi”. Đó là tiếng của Frank Bishop và anh ta chỉ vào Gillette. “Kiểm tra anh ta.”
Gillette cười. “Thật là điên rồ. Tôi đang đi ra, chứ không phải đi vào. Ai lại lén mang thứ gì đó ra khỏi nhà tù bao giờ?”
Anderson không đáp nhưng Bishop đã ra hiệu cho người bảo vệ bước tới phía trước. Anh ta đưa gậy dò kim loại rà soát người Gillette. Chiếc gậy phát ra tin hiệu cảnh báo the thé như lợn kêu ở túi quần bên phải.
Viên cảnh sát lục túi Gillette và lôi ra một tấm bảng mạch điện, với những sợi dây thò ra.
“Cái quái gì vậy?”, Shelton sẵng giọng.
Anderson kiểm tra nó thật cẩn thận. “Một cái hộp đỏ?”, ông ta hỏi Gillette. Hắn chán nản nhìn lên trần nhà, “Phải”.
Viên thanh tra nói với Bishop và Shelton, “Có cả tá hộp mạch điện mà những kẻ dùng điện thoại chùa sử dụng để qua mặt các hãng điện thoại. Các anh biết đấy, để gọi điện miễn phí, xâm nhập vào đường dây điện thoại của ai đó, nghe trộm… Chúng được nhận biết bằng màu sắc. Ngày nay, anh không còn thấy mấy thứ đó nữa – một chiếc hộp đỏ. Nó bắt chước âm thanh của tiền xu trong một bốt điện thoại trả trước. Anh có thể gọi đi bất cứ nơi nào trên thế giới và chỉ cần liên tục nhấn nút tạo tiếng đồng xu rơi cho đủ số lần trả tiền cho cuộc gọi”. Ông ta nhìn Gillette, “Cậu đang định làm gì với thứ này chứ?”.
“Để phòng khi tôi bị lạc đường và cần gọi điện cho ai đó.”
“Anh cũng có thể bán cái hộp đỏ này trên phố, tôi không biết nữa, chắc là được chừng vài trăm đô, cho một kẻ thích dùng điện thoại chùa. Nếu như anh đang định bỏ trốn và cần một ít tiền.”
“Tôi cho là có kẻ sẽ làm thế. Nhưng đó không phải điều tôi định làm.”
Anderson nhìn vào tấm bảng mạch. “Trông đẹp đấy.”
“Cảm ơn.”
“Cậu hẳn phải nhớ cái mũi hàn lắm nhỉ?”
Gillette gật đầu. “Chắc chắn rồi.”
“Nếu cậu mang theo thứ gì như thế này một lần nữa, thì cậu sẽ quay trở lại xà lim ngay khi tôi có một chiếc xe tuần tra để chở cậu về. Hiểu chứ?”
“Đã hiểu.”
“Khá đấy”, Bob Shelton thì thầm. “Nhưng cuộc đời chỉ là một sự thất vọng lớn mà thôi, cậu có nghĩ vậy không?”
Không, Wyatt Gillette nghĩ. Cuộc đời chỉ là một cuộc hack lớn mà thôi.
o O o
Ở vành đai phía đông của Thung lũng Silicon, trong phòng máy ở Học viện Thánh Francis – ngôi trường tư lâu đời dành cho nam sinh ở San Jose, một cậu học sinh mười lăm tuổi mập mạp đang gõ mạnh lên bàn phím, nhìn chằm chằm vào màn hình máy tính qua mắt kính dày cộm.
Dù vậy, tên gọi của nơi này không được hợp lý lắm. Phải, ở đây có máy tính. Nhưng cái nơi được gọi là “phòng” này lại ẩn chứa chút xíu mạo hiểm, các học viên đều nghĩ vậy. Nằm ở tít dưới tầng hầm, với những thanh sắt trên cửa sổ, trông nó giống một phòng giam hơn. Và có lẽ nó đã từng là phòng giam thực sự, khu này của tòa nhà đã hơn hai trăm năm mươi năm tuổi. Và có tin đồn rằng, một nhà truyền giáo nổi tiếng ở California xưa kia, Cha Junipero Serra, đã truyền giáo trong căn phòng này bằng việc lột trần những người Mỹ bản địa đến thắt lưng rồi lấy roi quất lên người cho đến khi họ chịu thừa nhận Chúa Jesu. Theo lời kể đầy hồ hởi của những học viên cũ, vài kẻ không may mắn trong số đó đã không thể sống sót qua cuộc cải đạo và hồn ma của họ vẫn lảng vảng trong những phòng giam, chà, những căn phòng, như căn phòng này.
Jamie Turner, cậu choai choai đang lờ đi các linh hồn và gõ bàn phím với tốc độ ánh sáng, là học viên năm thứ hai, một cậu bé rụt rè với mái tóc sẫm màu. Trong đời mình, cậu ta chưa bao giờ phải nhận điểm số dưới 92 và dù vẫn còn hai tháng mới đến cuối kỳ, cậu ta đã hoàn thành bài đọc yêu cầu và hầu hết các bài tập giáo viên giao cho tất cả các môn học. Cậu ta có nhiều hơn tổng số sách của hai sinh viên bất kỳ trong trường Thánh Fracis cộng lại, đã đọc mỗi tập Harry Porter đến năm lần, Chúa tể những chiếc nhẫn tám lần và ngấu nghiến từng từ trong những tiểu thuyết viễn tưởng cũng như công nghệ của nhà văn William Gibson với số lần nhiều hơn cả khả năng ghi nhớ của mình.
Giống như tiếng súng máy giảm thanh, tiếng gõ bàn phím của Turner lấp đầy căn phòng nhỏ. Nó nghe thấy một tiếng cót két ở phía sau. Nhìn xung quanh thật nhanh. Chẳng có gì cả.
Rồi một tiếng tách. Im lặng. Giờ là tiếng gió.
Mẹ kiếp, bọn hồn ma… Quay lại với công việc nào.
Jamie Turner đẩy chiếc kính trên mũi và quay trở lại với công việc đang dang dở. Ánh sáng mờ mờ của một ngày đầy sương tràn vào cửa sổ có song sắt. Ở bên ngoài, bạn bè cùng lớp của nó đang la hét, cười nói, ghi bàn, và lao lên rồi chạy xuống trên sân bóng. Tiết Giáo dục thể chất lúc 9:30 đã bắt đầu. Lẽ ra Jamie phải ở ngoài đó còn Booty thì không hề thích nó trốn chui trốn nhủi trong này.
Nhưng Booty không biết điều đó.
Không phải Jamie không thích vị hiệu trưởng của ngôi trường nội trú. Thực sự hoàn toàn không phải thế. Thật khó khi ghét bỏ một ai đó luôn quan tâm chăm sóc ta. (Khác với cha mẹ của Jamie, lấy ví dụ thế đi. “Gặp con vào ngày hai mươi ba, con trai… Ồ, khoan đã, không được rồi. Hôm đó mẹ con và ta có việc bận rồi. Chúng ta sẽ đến đây vào ngày mùng một hoặc mùng bảy tháng sau vậy. Chắc chắn ngày đó. Yêu con, tạm biệt.“) Chính nỗi hoang tưởng của Booty mới là nỗi đau khổ lớn nhất, khiến lệnh cấm túc vào ban đêm cùng tất cả hệ thống an ninh và chuông báo động khỉ gió phục vụ cho việc kiểm tra sinh viên mọi lúc mọi nơi của ông ta ra đời.
Ví dụ như không cho phép các nam sinh tới các buổi biểu diễn nhạc rock vô hại cùng ông anh trai đầy trách nhiệm, trừ khi phụ huynh của họ ký vào đơn cho phép. Trong khi ai mà biết được phụ huynh của mình đang ở chỗ quái nào, chứ đừng nói đến việc nhờ họ bỏ ra vài phút để ký và fax đơn tới đúng giờ, dù cho nó có quan trọng tới mức nào đi chăng nữa.
Yêu con, bye…
Nhưng lúc này, Jamie đang tự giải quyết rắc rối của mình. Anh trai của nó, Mark, một kỹ sư âm thanh ở địa điểm tổ chức hòa nhạc Oakland, đã nói với Jamie rằng nếu nó có thể trốn khỏi trường Thánh Francis tối nay, thì anh ta có thể đưa nó đến buổi hòa nhạc Santana và có thể kiếm được vé vào hậu trường thoải mái. Nhưng nếu cậu nhóc không ra khỏi trường trước sáu giờ ba mươi thì anh trai cậu sẽ phải quay lại nơi làm việc đúng giờ. Và đáp ứng được giờ chót ấy là cả một vấn đề. Bởi trốn khỏi trường Thánh Francis không đơn giản như chuồn xuống từ một sợi dây làm bằng ga giường, cách mà lũ trẻ trong các bộ phim cũ vẫn thường làm để trốn đi chơi đêm. Có thể, trông trường Thánh Francis như một lâu đài Tây Ban Nha cổ xưa, nhưng hệ thống an ninh của ngôi trường hoàn toàn ứng dụng công nghệ cao.
Đương nhiên Jamie có thể chuồn ra khỏi phòng mình, vì nó không bị khóa ngay cả vào ban đêm (Trường Thánh Francis rõ ràng không phải là một nhà tù). Và cậu nhóc có thể ra khỏi tòa nhà một cách gọn lẹ bằng cửa thoát hiểm, trong trường hợp nó có thể tắt hệ thống báo cháy. Nhưng điều đó chỉ có thể đưa nó xuống đến sân trường mà thôi. Và các khoảng sân đều được bao bọc bởi một bức tường đá cao đến hơn ba mét rưỡi, bên trên còn có hàng rào bằng dây thép gai. Và chẳng có cách nào khác để trèo qua, ít nhất là với nó – một thằng nhóc mũm mĩm đam mê máy móc và ghét độ cao, trừ khi nó phá được mật khẩu của một trong những cánh cổng dẫn ra con phố. Đó là lý do tại sao nó đang ngồi đây, cố gắng phá mật khẩu của ngài Quốc xã Booty, xin thứ lỗi, Tiến sỹ, Thạc sỹ giáo dục Willem C. Boethe.
Cho đến giờ, nó đã dễ dàng xâm nhập vào máy tính của Booty và download các file có chứa mật khẩu (được đặt tên cho dễ nhớ là Mật khẩu An ninh. Chà, khôn ngoan quá, Booty!). Tất nhiên, những gì có trong cái file ấy là bản mật khẩu đã mã hóa, và cần phải được giải mã trước khi cậu có thể sử dụng. Nhưng chiếc máy tính đơn độc nhỏ bé này của Jamie sẽ mất cả tuần trời để crack, thế nên lúc này cậu nhóc đang hack vào một máy tính gần đó để tìm một thiết bị đủ mạnh cho việc crack mật khẩu cho kịp thời hạn kì diệu kia.
Jamie biết rằng Internet bắt nguồn từ một mạng lưới học thuật rộng lớn để tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi nghiên cứu, chứ không phải giữ bí mật thông tin. Những tổ chức đầu tiên được kết nối qua Net – các trường đại học, có tính bảo mật yếu hơn rất nhiều so với các đơn vị và tổ chức của Chính phủ được kết nối gần đây.
Nói một cách hình tượng, lúc này cậu nhóc đang gõ cửa phòng máy của Đại học Công nghệ và Kỹ thuật Bắc Carolina và được chào đón với những dòng chữ như sau:
Username?
Jamie trả lời: User.
Password?
Câu trả lời của cậu là: User.
Và một dòng thông báo hiện lên:
Welcome, User
Chà, một điểm F trừ cho hệ thống bảo mật nhỉ, Jamie nghĩ một cách mỉa mai và bắt đầu lướt nhanh qua danh mục gốc của chiếc máy chủ, cho đến khi phát hiện ra thứ có thể là một siêu máy tính lớn, nhiều khả năng là một cái Cray cũ, trên mạng lưới của trường. Lúc này, chiếc máy đang tính toán tuổi của vũ trụ. Rất thú vị, nhưng không hấp dẫn bằng Santana, Jamie nghĩ. Jamie gạt dự án thiên văn sang một bên và tải lên một chương trình nó đã tự tay lập trình, được gọi là Crack-er, chương trình này sẽ bắt đầu công việc đáng yêu của mình là giải nén mật khẩu bằng tiếng Anh từ những file của Booty. Nó…
“Ôi, mẹ kiếp“, Jamie nói bằng thứ ngôn ngữ không mang phong cách học sinh của Booty lắm. Máy tính của nó lại đơ nữa rồi.
Chuyện này đã xảy ra vài lần và làm nó phát bực vì không hiểu lý do tại sao. Jamie biết máy tính bị đơ và không tài nào hiểu được nguyên nhân kẹt máy. Nó không có thời gian cho việc này, không phải ngày hôm nay, với cái hạn chót 6:30. Tuy vậy, thằng nhóc ghi lại sự việc xảy ra vào sổ tay hacker của mình, như những lập trình viên cần mẫn vẫn làm và khởi động lại hệ thống rồi đăng nhập lại.
Nó kiểm tra Cray và phát hiện ra rằng chiếc máy tính của trường đại học vẫn đang thực hiện lệnh, chạy phần mềm Crack-er trên file mật khẩu của Booty, ngay cả khi đã bị ngắt mạng.
Nó có thể…
“Cậu Turner, cậu Turner“, một giọng nói vang lên gần đó. “Xem chúng ta có gì ở đây nào?”
Những lời nói đó làm Jamie sợ hết hồn. Nhưng cậu nhóc không quá giật mình đến mức nhấn trượt tổ hợp phím ALT + F6 trên máy tính của mình, ngay trước khi Hiệu trưởng Booty bước tới cửa vào phòng máy tính trên đôi giầy được làm hoàn toàn bằng vải crếp.
Màn hình hiện lên một bài luận về sự tàn phá rừng nhiệt đới thay thế cho thông báo tình trạng của chương trình bẻ khóa bất hợp pháp.
“Xin chào, Thầy Boethe“, Jamie nói.
“À“, người đàn ông cao và mảnh khảnh cúi xuống, nhìn vào màn hình. “Tôi tưởng cậu đang xem những bức tranh bẩn thỉu chứ, cậu Turner.“
“Không, thưa thầy“, Jamie nói. “Em không làm như vậy.“
“Nghiên cứu về môi trường, ái ngại về những điều chúng ta đã làm với Mẹ Thiên nhiên đáng thương, phải không? Tốt lắm, tốt lắm. Nhưng tôi không giúp được gì ngoài việc nhắc cậu rằng đây là giờ Giáo giục thể chất. Cậu cần phải trực tiếp trải nghiệm về Mẹ Thiên nhiên ở ngoài kia. Trên sân thể thao. Hít thật sâu không khí trong lành của California. Chạy và ghi bàn.”
“Không phải trời đang mưa sao ạ?”, Jamie hỏi.
“Sương mù thôi, tôi nghĩ vậy. Ngoài ra, chơi đá bóng trong mưa là một cách rèn luyện rất tốt. Giờ thì, đi ra ngoài nào, cậu Turner. Sân cỏ thiếu mất một người. Cậu Lochnell vừa cố ngoặt trái nhưng cổ chân lại rẽ sang phải. Hãy đi giúp họ. Đội của cậu cần cậu.”
“Em phải tắt cái máy đi đã, thưa thầy. Sẽ mất vài phút.”
Vị hiệu trưởng bước tới cánh cửa, nói to, “Thầy hy vọng sẽ thấy em ra sân và chạy hết tốc lực trong vòng mười lăm phút nữa”.
“Vâng thưa thầy”, Jamie Turner trả lời, không để lộ sự thất vọng vô cùng của mình khi phải đổi chiếc máy tính thân yêu lấy một mảnh sân đầy bùn và lũ bạn ngốc nghếch.
Nhấn ALT + F6 để thoát khỏi cửa sổ bài viết về rừng nhiệt đới, Jamie bắt đầu gõ lệnh kiểm tra xem quá trình làm việc với file mật khẩu như thế nào. Rồi nó chững lại, nheo mắt trước màn hình và phát hiện một điều gì đó kỳ lạ. Dòng thông báo hiện ra trên màn hình có vẻ hơi mờ hơn bình thường một chút. Những chữ cái dường như cũng đang rung rung.
Và một điều khác nữa: Các phím gõ có vẻ hiện ra chậm hơn một chút sau khi gõ.
Điều này thực sự rất kỳ cục. Nó tự hỏi vấn đề này có thể là gì chứ. Jamie đã viết vài phần mềm chẩn đoán lý do và cậu quyết định sẽ dùng một hay hai phần mềm đó sau khi giải mã được mật khẩu. Nó có thể cho cậu biết điều gì xảy ra.
Jamie đoán vấn đề là có một lỗi nhỏ trong folder hệ thống, có thể là do gia tốc đồ họa. Nó sẽ kiểm tra cái đó trước tiên.
Nhưng trong khoảnh khắc ngắn ngủi, một ý nghĩ kỳ quặc lướt qua trong đầu nó: Những chữ cái không rõ nét và phản ứng lờ đờ của máy tính khi gõ phím không phải là vấn đề do hệ điều hành. Đó là do linh hồn của một người Anh-điêng đã chết từ lâu đang trôi nổi giữa Jamie và chiếc máy tính, và thể hiện nỗi tức giận với sự hiện diện của nó khi những ngón tay lạnh lẽo ma quái tuyệt vọng gõ lên thông điệp cầu cứu.