Sát Nhân Mạng

PHẦN VI: TẤT CẢ NẰM Ở CÁCH ĐÁNH VẦN, CÁCH VIẾT – CHƯƠNG 43



Elana bước đến và nhìn thấy vẻ thất thần của Gillette. “Có chuyện gì thế? Đang xảy ra chuyện gì?”
Hắn không để ý đến cô mà vẫn nói với Bishop, “Hãy gọi cho FBI. Nói cho họ biết mọi chuyện. Gọi cho Washington nữa”.
“Tôi đã thử”, Bisphop đáp lại. “Bernstein cũng thử rồi. Nhưng các đặc vụ đều dập máy. Quy tắc tác chiến mà Shawn phát lệnh nói rằng những tên tội phạm có thể giả làm cảnh sát bang và tìm cách hủy lệnh hoặc trì hoãn lệnh tấn công. Chỉ mã trên máy tính có hiệu lực. Mọi lời nói đều vô hiệu. Kể cả là từ Washington. Nếu chúng tôi có thêm thời gian có lẽ chúng tôi có thể thuyết phục họ, nhưng..
“Lạy Chúa, Frank…”
Làm thế nào mà Shawn biết hắn đang ở đây? Rồi hắn nhớ ra Bishop đã gọi cho cảnh sát để báo rằng Gillette sẽ ở nhà Elana trong một tiếng. Hắn nhớ rằng Phate cùng với Shawn đã kiểm soát tín hiệu vô tuyến và điện thoại với những từ khóa như Triple-X, Holloway/ Gillette. Chắc hẳn Shawn đã nghe được cuộc nói chuyện của Bishop.
Bishop nói, “Giờ họ đã đến sát ngôi nhà, đang ở một khu vực tập kết”. Viên thám tử nói thêm, “Tôi chỉ không hiểu tại sao Shawn lại làm việc này”.
Nhưng Gillette thì biết.
Sự trả thù của hacker là sự trả thù của lòng kiên nhẫn.
Nhiều năm trước, Gillette đã phản bội Phate, phá vỡ cuộc sống trong vỏ bọc giả tạo hoàn hảo mà hắn đã tự tạo cho mình, và hôm nay, Gillette đã góp phần kết liễu hoàn toàn cuộc sống của tay hacker đó. Giờ thì Shawn sẽ phá hủy Gillette và những gì thân yêu nhất của hắn.
Hắn nhìn ra cửa sổ, hắn nghĩ mình nhìn thấy vài dáng người đang chuyển động.
“Wyatt?”, Elana hỏi. “Có chuyện gì vậy?” Cô định ngó ra ngoài cửa sổ nhưng hắn kéo mạnh cô lại. “Cái gì thế?”, cô quát lên.
“Lùi lại! Tránh xa tất cả các cửa sổ!”
Bishop nói tiếp. “Shawn đã ban ra Quy tắc tác chiến cấp độ bốn – có nghĩa là các đội SWAT sẽ không phát lệnh yêu cầu đầu hàng. Họ được chuẩn bị tinh thần để đối mặt với sự chống trả liều chết. Đó cũng chính là quy tắc tác chiến họ sử dụng khi chống lại những tên khủng bố liều chết.”
“Vậy là họ sẽ ném hơi cay vào trong”, Gillette lẩm bẩm, “rồi đá tung cửa và bất cứ ai cử động sẽ bị bắn chết”.
Bishop ngắt lời. “Có thể là như thế.”
“Wyatt?”, Elana hỏi. “Đang xảy ra chuyện gì thế? Nói cho em đi!”
Hắn quay lại, quát lên, “Hãy bảo mọi người nằm sấp xuống sàn phòng khách! Cả em nữa! Ngay bây giờ!”.
Đôi mắt đen thẫm của cô bừng bừng nỗi tức giận và sợ hãi. “Anh đã làm gì thế?”
“Anh xin lỗi, anh xin lỗi… Hãy làm ngay đi. Nằm xuống!”
Hắn quay lại, nhìn ra ngoài cửa sổ. Hắn có thể thấy hai chiếc xe tải to màu đen đang chầm chậm lăn bánh dọc con phố cách năm mươi feet. Phía xa, một chiếc trực thăng bay lượn cách mặt đất một trăm feet.
“Nghe này, Wyatt, FBI sẽ không tiến hành tấn công chừng nào chưa có xác nhận cuối cùng. Đó là một phần của quy tắc tác chiến. Có cách nào tắt được máy tính của Shawn không?”
“Bật loa cho Tony.”
“Tôi đây”, Mott nói.
“Anh có đang ở trên hệ thống của FBI không?”
“Có, chúng tôi có thể xem màn hình. Shawn giả làm Trung tâm điều hành tác chiến ở washington, phát ra mã lệnh. Đơn vị tác chiến của khu vực này vẫn phản hồi như công việc bình thường.”
“Anh có thể lần ngược trở lại cuộc gọi đến chỗ của Shawn được không?”
Mott nói, “Chúng tôi không có lệnh cho phép nhưng tôi sẽ tác động với Pac Bell xem. Cho tôi một hoặc hai phút”.
Âm thanh của xe tải hạng nặng vang lên bên ngoài. Chiếc trực thăng đang tới gần.
Gillette nghe thấy tiếng khóc thổn thức của mẹ Elana và những lời nói tức giận của em trai cô từ phòng khách vọng vào. Riêng Elana chỉ nín lặng. Hắn thấy cô ra dấu thánh, ngước lên nhìn hắn một cách vô vọng rồi chúi đầu xuống tấm thảm bên cạnh mẹ cô.
Ôi, Chúa ơi, con đã làm gì thế này?
Vài phút sau, Bishop trở lại. “Pac Bell đang tiến hành theo dấu. Đó là một đường viễn thông mặt đất. Họ đã khoanh vùng là văn phòng trung tâm. Hắn ở đâu đó phía tây San Jose, gần đại lộ winchester. Chỗ nhà kho của Phate.”
Gillette hỏi, “Ông nghĩ là hắn đang ở tòa nhà công ty máy tính San Jose? Có lẽ hắn lẻn vào trong sau khi các ông kết thúc việc khám nghiệm ở đó”.
“Hoặc có lẽ hắn ở đâu đó quanh đây, có hàng tá nhà kho cũ gần đó. Tôi sẽ vắng mặt trong mười phút”, viên thám tử nói “Tôi sẽ đến đó ngay. Người anh em, tôi ước chúng ta biết Shawn là ai.”
Một suy nghĩ thoáng qua trong Gillette – Giống như khi hắn viết mã, hắn thường áp dụng giả thiết chống lại những sự thật đã biết và những quy luật logic. Hắn đi tới một kết luận. Hắn nói, “Tôi có một ý về việc đó”.
“Về Shawn?”
“Phải. Bob Shelton đâu?”
“Ở nhà. Sao cậu hỏi thế?”
“Hãy gọi xem có đúng ông ấy ở đó không?”
Vài phút sau, điện thoại nhà Papandolos reo vang, Gillette chộp lấy ống nghe. Frank Bishop gọi lại trên đường phóng từ San Carlos đến Winchester.
“Bob đáng lẽ ra phải ở nhà”, Bishop nói “Nhưng không có ai trả lời. Dù vậy nếu cậu nghĩ Bob là Shawn thì cậu sai đấy”.
Nhìn ra cửa sổ, thấy một chiếc xe cảnh sát khác đi ngang qua, theo sau là một xe tải loại quân dụng, Gillette nói “Không, Frank, nghe này, Shelton nói ông ấy ghét máy tính, không biết tí gì về chúng. Nhưng nhớ lại xem, ông ta có phần cứng đó trong nhà”.
“Có gì cơ?”
“Ổ đĩa mà chúng ta đã nhìn thấy – đó là một loại phần cứng mà chỉ những người giỏi hack hoặc chạy bảng tin cách đây vài năm mới sử dụng.”
“Tôi không biết”, Bishop chậm rãi nói “Có lẽ đó là tang chứng hay đại loại thế.”
Ông ấy đã bao giờ điều tra vụ nào liên quan đến máy tính trước vụ này chưa?”
“Chà, chưa..”
Gillette nói tiếp, “Và ông ấy biến mất một lúc trước khi chúng ta đột kích nhà Phate ở Los Altos. Ông ta có thời gian gửi tin nhắn về mã đột kích để Phate có cơ hội trốn thoát. Nghĩ mà xem, chính vì ông ta mà Phate xâm nhập được vào ISLEnet và có địa chỉ các máy tính của FBI cùng mã tác chiến. Shelton nói ông ta lên mạng để kiểm tra về tôi. Nhưng thực ra thì ông ta đã để lại mật khẩu và địa chỉ máy tính của CCU cho Phate – nhờ thế hắn có thể đột nhập ISLEnet”.
“Nhưng Bob không phải là người rành máy tính.”
“Đấy là ông ta nói thế. Nhưng ông có biết chắc không? Ông có hay qua nhà ông ấy không?”
“Không.”
“Ông ta làm gì vào buổi tối?”
“Thường là ở nhà.”
“Không bao giờ ra ngoài?”
Bishop do dự đáp lại, “Không”.
“Đó là thói quen của hacker.”
“Nhưng tôi đã biết anh ấy ba năm rồi.”
“Social engitteering.”
Bishop nói, “Không thể nào. Chờ chút, có một cuộc gọi đến”.
Trong khi chờ máy, Gillette nhòm qua tấm rèm. Hắn có thể nhìn thấy thứ gì đó trông giống như xe tải chở lính đỗ cách đó không xa. Những bóng người di chuyển sau những bụi cây dọc con đường. Cảnh sát trong trang phục ngụy trang chạy từ hàng rào này qua hàng rào khác. Dường như có đến cả trăm sỹ quan bên ngoài.
Bishop nối máy trở lại.
“Pac Bell đã có địa điểm mà Shawn đột nhập vào hệ thống của FBI. Hắn đang ở công ty máy tính San Jose. Tôi gần đến đó rồi. Tôi sẽ gọi cho cậu khi vào trong.”
Frank Bishop gọi cứu viện rồi đỗ xe trong bãi đỗ bên kia đường, khuất tầm nhìn của tòa nhà, tòa nhà máy tính San Jose dường như không có cửa sổ nhưng ông sẽ không để Shawn nhìn thấy mình.
Cúi rạp mình, di chuyển thật nhanh mặc cho cơn đau khủng khiếp nơi thái dương và sau đầu, Bishop đã đến được chỗ nhà kho.
Ông không tin kết luận của Gillette về Bob Shelton. Nhưng ông cũng không thể bỏ qua điều đó. Trong tất cả những đồng sự ông từng làm việc cùng, ông biết về Shelton ít nhất. Viên cảnh sát to lớn thường chỉ ở nhà vào buổi tối. Ông ta không giao du với những cảnh sát khác. Trong khi ngay bản thân Bishop chẳng hạn, tuy cũng có kiến thức cơ bản về ISLEnet nhưng cũng không thể vào hệ thống đó để tìm kiếm thông tin về Gillette như Shelton đã làm. Ông cũng nhớ lại là Shelton từng xung phong nhận vụ này, Bishop còn nhớ đã thắc mắc tại sao ông ta lại muốn nhận vụ này hơn vụ MARINKILL.
Nhưng chẳng còn gì quan trọng vào lúc này. Dù Shawn có phải là Bob hay ai khác, Bishop chỉ có mười lăm phút trước khi đội tác chiến liên bang bắt đầu cuộc tấn công. Rút súng ra, ông nép mình vào bức tường bên cạnh khoang chất hàng và dừng lại, nghe ngóng. Ông không nghe thấy tiếng động gì từ bên trong.
Được rồi… Đi thôi!
Đẩy cánh cửa mở ra, Bishop chạy xuống lan can, qua văn phòng và vào trong nhà kho ẩm ướt. Bên trong tối đen và dường như trống không. Ông tìm thấy một dãy đèn trần và bật công tắc đèn bằng tay trái, tay còn lại giơ khẩu súng ra phía trước. Thứ ánh sáng ảm đạm chiếu sáng toàn bộ không gian, ông thấy rõ là nó hoàn toàn trống rỗng.
Ông lại chạy ra ngoài để tìm kiếm một tòa nhà khác mà có thể Shawn đang sử dụng. Nhưng không còn công trình nào có liên kết với căn nhà kho. Khi ông vừa định quay lưng lại thì bỗng để ý thấy rằng nhìn từ phía ngoài, căn nhà kho to hơn nhiều so với không gian bên trong.
Vội vàng chạy ngược trở lại trong tòa nhà, ông thấy ở một đầu của nhà kho, một bức tường có vẻ như được thêm vào, so với kiến trúc ban đầu của tòa nhà, dường như nó mới được dựng lên. Phải rồi, Phate chắc chắn đã xây thêm một căn phòng bí mật. Đó là nơi Shawn đang trú ẩn…
Trong một góc khuất của căn phòng, ông tìm thấy một tấm ván không có tay nắm gắn vào bản lề và lặng lẽ kiểm tra nó. Nó không khóa. Ông hít một hơi thật sâu, lau mồ hôi tay vào chiếc áo sơ mi thùng thình rồi đẩy tấm ván một lần nữa. Liệu tiếng bước chân của ông hay tiếng bật công tắc đèn đã cảnh báo cho Shawn biết về sự xâm nhập này hay chưa? Liệu hắn có đang cầm vũ khí chực chờ sẵn nơi ngưỡng cửa?
Tất cả đều kết thúc bằng việc này…
Frank Bishop đẩy cánh cửa, giơ khẩu súng lên.
Ông thụp người xuống, đảo mắt tìm mục tiêu, nhìn khắp căn phòng tối, hơi lạnh tỏa ra từ chiếc máy điều hòa nhiệt độ. Không có dấu hiệu của Shawn, chỉ toàn máy móc và thiết bị, thùng và giá xếp hàng, dụng cụ, xe nâng thủy lực điều khiển bằng tay.
Trống không. Chẳng có gì…
Đúng lúc đó ông nhìn thấy nó.
Ôi, không…
Bishop nhận ra rằng số phận của Wyatt Gillette cùng với vợ và gia đình cô đã được định đoạt.
Căn phòng này chỉ là một trạm chuyển tiếp tín hiệu điện thoại Shawn đang hack từ một nơi khác.
Ông miễn cưỡng gọi cho Gillette.
Tay hacker nghe máy và tuyệt vọng nói, “Tôi có thể thấy họ, Frank. Họ có súng máy. Chuyện này sẽ rất tệ. Ông có tìm được gì không?”.
“Wyatt, tôi đang ở trong căn nhà kho đó… Nhưng… Tôi xin lỗi. Shawn không có ở đây. Đây chỉ là trạm chuyển tiếp điện thoại hay đại loại thế.” Ông mô tả chiếc hộp kim loại to màu đen.
“Nó không phải là hộp trung chuyển đâu”, Gillette lẩm bẩm, giọng hắn chìm vào cơn tuyệt vọng. “Nó là một cầu dẫn Internet. Nhưng cũng không ích gì với chúng ta cả. Phải mất một giờ mới lần ngược lại được Shawn. Chúng ta sẽ không thể tìm ra hắn kịp.”
Bishop nhìn chằm chằm chiếc hộp. “Không hề có công tắc trên đó và dây dẫn thì nằm dưới sàn, nơi này cũng là một phòng máy chủ giống như ở CCU. Nên cũng không có phích cắm để rút”
“Dù thế nào cũng không ích gì đâu. Ngay cả khi ông tắt nó đi, tín hiệu của Shawn sẽ tự động tìm một đường dẫn khác đến FBI.”
“Có lẽ có thứ gì khác ở đây cho chúng ta biết hắn ở đâu.” Bishop tuyệt vọng lục lọi chiếc bàn và những chiếc thùng đóng gói. “Có rất nhiều giấy và sách.”
“Có những gì?” tay hacker hỏi, nhưng giọng nói đây tuyệt vọng của hắn đã trở lên đều đều, sự tò mò trẻ thơ đã biến mất tự bao giờ.
“Sách hướng dẫn, bản in, bảng chấm công, đĩa máy tính. Hầu hết là những đồ kỹ thuật. Từ Sun Microsystems, Apple, Harvard và Westem Electric – những nơi Phate từng làm việc.” Bishop xáo tung tất cả các thùng, giấy lộn vung vãi khắp nơi. “Không, không có gì ở đây cả.” Bishop tuyệt vọng nhìn xung quanh. “Tôi sẽ cố đến nhà Ellie kịp lúc, thuyết phục Cục điều tra liên bang cử một nhà thương thuyết đến trước khi họ bắt đầu tấn công.”
“Ông đang ở cách xa hai mươi phút, Frank.” Gillette thì thầm. “Ông sẽ không thể làm được đâu.”
“Tôi sẽ cố”, viên thám tử nhẹ nhàng nói. “Nghe này, Wyatt, hãy đi vào giữa phòng khách và nằm xuống. Giang rộng tay ra. Hãy cầu nguyện điều tốt đẹp nhất.” Ông dợm bước ra cửa.
Bỗng ông nghe Gillette reo lên, “Khoan đã!”.
“Có chuyện gì thế?”
Tay hacker nói, “Mấy quyển hướng dẫn sử dụng mà hắn đóng gói. Nói lại xem là của những công ty nào?”.
Bishop nhìn đống tài liệu. “Những nơi mà Phate từng làm việc. Harvard, Sun, Apple, Westem Electric. Và…”
“NEC!”, Gillette thốt ra.
“Đúng vậy!”
“Đó là một kiểu ghép chữ cái đầu!”
“Ý cậu là sao?”, Bishop hỏi.
Gillette nói, “Nhớ lại xem? Tất cả những tên ghép mà các hacker thường dùng? Chữ cái đầu của những nơi hắn từng làm việc – S trong từ Sun. H trong Harvard. A trong Apple, westem Electric, NEC… S, H, A, w, N… Chiếc máy ở trong phòng với ông… Nó không phải là một cầu dẫn. Chiếc hộp đó – nó chính là Shawn. Hắn đã tạo ra nó từ mã và phần cứng hắn ăn cắp được!”.
Bishop thấy thật buồn cười. “Không thể nào.”
“Không, chính vì thế mà việc lần tìm dẫn đến đó. Shawn là một cỗ máy. Hắn ta…nó đang phát ra tín hiệu. Trước khi chết, Phate chắc chắn đã lập trình để nó xâm nhập vào hệ thống của Cục điều tra liên bang và sắp xếp cuộc tấn công. Và Phate có biết về Ellie, hắn có nhắc đến tên cô ấy khi đột nhập vào CCU. Dường như hắn nghĩ là vì cô ấy mà tôi phản bội hắn.”
Run lập cập vì hơi lạnh, Bishop đi đến chỗ chiếc hộp màu đen. “Một chiếc máy tính không thể làm tất cả những chuyện này..”
Nhưng Gillette ngắt lời, “Không, không, không… Sao tôi lại không nghĩ sáng suốt hơn nhỉ? Chỉ có máy móc mới làm được chuyện này. Một siêu máy tính là thứ duy nhất có thể bẻ khóa những tín hiệu đã được mã hóa và kiểm soát tất cả những cuộc gọi rồi chuyển phát sóng vô tuyến ra vào CCU. Một con người không thể làm thế, quá nhiều thứ để nghe trộm. Các máy tính của Chính phủ làm việc đó hàng ngày, nghe những từ khóa như Tống thống và ám sát trong cùng một câu. Đó là cách Phate biết được Andy Anderson sẽ đến Hacker’s Knoll và về tôi – chắc chắn Shawn đã nghe Backle gọi cho Bộ Quốc phòng và gửi lại cho Phate mẩu thông tin đó. Và cũng chính nó nghe thấy mã đột kích khi chúng ta sắp tóm hắn ở Los Altos và gửi tin nhắn cho Phate để cảnh báo hắn”.
Viên thám tử nói, “Nhưng những email của Shawn trong máy của Phate… Nghe như một con người đã viết ra chúng”.
“Ông có thể giao tiếp với một chiếc máy theo bất kỳ cách nào ông muốn – việc gửi email cũng như bất cứ thứ gì khác. Phate đã lập trình để nghe như ai đó đã viết chúng. Nó khiến hắn cảm thấy khá hơn khi đọc những thứ giống như ngôn từ của một con người. Như tôi đã kể cho ông, tôi cũng đã làm thế với chiếc máy Trash-80 của mình.”
S-H-A-W-N.
Tất cả nằm ở cách đánh vần, cách viết…
“Chúng ta làm gì được?”, viên thám tử hỏi.
“Có duy nhất một việc thôi. Ông phải…”
Đường dây bị cắt.
 
o O o
 
“Chúng ta đã ngắt điện thoại của chúng”, một kỹ thuật viên thông tin báo cáo với đặc vụ Mark Little, chỉ huy chiến thuật thuộc Cục điều tra liên bang của chiến dịch MARINKILL. “Tất cả di động đã bị ngắt. Không máy di động nào hoạt động trong vòng một dặm.”
Little, cùng với cấp phó của mình, đặc vụ đặc biệt George Steadman, đang ở trong một chiếc xe thùng dùng làm nơi phát lệnh ở Sunnyvale. Chiếc xe đỗ ở góc đường gần ngôi nhà trên phố Abrego, nơi những tên tội phạm trong vụ MARINKILL được báo là đang lẩn trốn.
Ngắt đường điện thoại là một bước chuẩn hóa trong quy trình. Năm hoặc mười phút trước mỗi cuộc đột kích, dịch vụ điện thoại của đối tượng sẽ bị ngắt. Như thế, không kẻ nào có thể cảnh báo cho chúng về cuộc tấn công sắp xảy ra.
Little đã trải qua rất nhiều cuộc đột kích khốc liệt vào những địa điểm khó nhằn, phần lớn là những ổ ma túy ở Oakland và San Jose. Anh chưa từng để mất đặc vụ nào. Nhưng chiến dịch này lại là một thách thức đặc biệt đối với đặc vụ ba mươi mốt tuổi này. Anh đã theo vụ MARINKILL ngay từ ngày đầu tiên và đã đọc tất cả các bản tin, bao gồm cái vừa nhận được từ một nguồn tin nặc danh, báo cáo rằng những tên giết người này nghĩ rằng chúng sẽ bị FBI và cảnh sát tiêu diệt nên đã lên kế hoạch tra tấn bất cứ nhân viên hành pháp nào chúng bắt được. Cùng với báo cáo này là một báo cáo khác cho rằng chúng thà chết còn hơn bị bắt sống.
Ôi trời, chưa bao giờ dễ dàng cả. Nhưng lần này…
“Mọi người đã sẵn sàng và trang bị áo giáp chưa?”, Little hỏi Steadman.
“Rồi Cả ba đội và các lính bắn tỉa đã sẵn sàng. Đường phố an toàn. Trực thăng cứu thương từ Travis đã cất cánh. Các xe cứu hỏa đã túc trực sẵn.”
Little gật đầu khi nghe báo cáo. Chà, mọi việc có vẻ rất ổn. Nhưng cái quái gì khiến anh thấy bất ổn thế nhỉ?
Anh cũng không chắc. Có lẽ là sự tuyệt vọng trong giọng nói của gã đó – kẻ tự nhận mình là cảnh sát bang. Hình như gã tên là Bishop. Lảm nhảm mãi về chuyện kẻ nào đó hack vào hệ thống máy tính của Cảnh sát liên bang và phát mã đột kích giả chống lại những người vô tội.
Nhưng quy tắc tác chiến phát đi từ Washington đã cảnh báo rằng những tên tội phạm này có thể giả làm đồng nghiệp của họ và khẳng định rằng toàn bộ chiến dịch này là một sự hiểu nhầm. Những tên tội phạm thậm chí có thể giả làm cảnh sát bang. Thêm nữa, Little cũng đã ngẫm nghĩ, hack vào máy tính của Cục điều tra liên bang? Vô lý. Những trang web công khai là một nhẽ, nhưng máy tính chiến thuật an ninh mật? Không thể nào.
Anh nhìn đồng hồ trên tay.
Còn tám phút nữa.
Anh nói với một kỹ thuật viên đang ngồi trước màn hình máy tính, “Lấy lệnh xác nhận vàng”“.
Anh ta đánh:
Từ: CHỈ HUY TÁC CHIẾM, BỘ TƯ PHÁP QUẬN BẮC CALIFORNIA ĐẾN: TRUNG TẰM CHIẾN DỊCH tác chiến bộ tư pháp, WASHINGTON, D.c.
RE: Bộ TƯ PHÁP QUẬN BẮC CALIFORNIA chiến dịch 139-01 XÁC NHẬN MÃ VÀNG?
Rồi anh ta nhấn ENTER.
Có ba mức độ trong mã chiến dịch tác chiến: xanh, vảng và đỏ. Một mã phát lệnh màu xanh cho phép các đặc vụ di chuyển đến địa điểm tập kết của chiến dịch. Việc này đã diễn ra từ nửa tiếng trước. Mã phát lệnh màu vàng được hiểu là họ đã sẵn sàng cho cuộc đột kích và di chuyển vào vị trí xung quanh mục tiêu. Màu đỏ kiểm soát chính cuộc đột kích thực tế.
Một lát sau, trên màn hình hiện lên tin nhắn:
TỪ: TRUNG TÂM CHIẾN DỊCH TÁC CHIẾN Bộ TƯ PHÁP,
WASHINGTON, D.c
ĐẾN: CHỈ HUY TÁC CHIẾN, BỘ TƯ PHÁP QUẬN BẮC CALIFORNIA RE: Bộ TƯ PHÁP QUẬN BẮC CALIFORNIA CHIẾN DỊCH 139-01 MÃ VÀNG: <OAKTREE>
“Hãy in ra”, Little ra lệnh cho kỹ thuật viên thông tin. “Vâng, sếp.”
Little và Steadman kiểm tra mật khẩu và thấy rằng “cây sồi – oaktree” là mật khẩu đúng. Những đặc vụ đã được chấp thuận triển khai chiến dịch quanh ngôi nhà.
Tuy vậy, anh vẫn ngần ngừ, trong đầu như vang lên giọng nói của gã tự nhận là Frank Bishop. Anh nghĩ về những đứa trẻ bị giết ở waco. Dù quy tắc tác chiến cấp độ bốn đã khẳng định rằng các chuyên gia thương lượng không thích hợp với những chiến dịch tác chiến liên quan đến tội phạm kiểu này, Little vẫn băn khoăn không biết có nên gọi cho San Prancisco, nơi Cục cảnh sát liên bang có những chuyên gia thương thuyết giải vây xuất sắc mà anh từng làm việc cùng. Có lẽ…
“Đặc vụ Little?”, tiếng nhân viên thông tin cắt ngang dòng suy nghĩ, anh ta ra hiệu về phía màn hình máy tính. “Tin nhắn của anh.”
Little nhoài người về phía trước và đọc.
KHẨN CẤP KHẨN CẤP KHẨN CẤP
TỪ: TRUNG TÂM CHIẾN DỊCH TÁC CHIẾN BỘ TƯ PHÁP,WASHINGTON, D.C
ĐẾN: CHỈ HUY TÁC CHIẾN, BỘ TƯ PHÁP QUẬN BẮC CALIFORNIA RE: Bộ TƯ PHÁP QUẬN BẮC CALIFORNIA CHIẾN DỊCH 139-01 QUÂN ĐỘI HOA KỲ BÁO CÁO NHỮNG NGHI PHẠM TRONG VỤ MARINKILL ĐÃ ĐỘT NHẬP VÀO KHO QUÂN SỰ Ở SAN PEDRO MILITARY VÀO LÚC 15:40 GIỜ HÔM NAY VÀ ĐÁNH CẮP MỘT LƯỢNG LỚN VŨ KHÍ TỰ ĐỘNG, LỰU ĐẠN CẦM TAY VÀ ÁO GIÁP CHỐNG ĐẠN.
BÁO CHO CÁC ĐẶC VỤ VỀ TÌNH HUỐNG NÓI TRÊN.
Trời đất, Little nghĩ, trống ngực đập dồn dập. Tin nhắn đã đánh gục mọi ý nghĩ về chuyên gia thương thuyết. Anh nhìn sang đặc vụ Steadman và bình tĩnh nói, ra hiệu về phía màn hình, “Chuyển mệnh lệnh này, George. Rồi yêu cầu mọi người vào vị trí. Chúng ta sẽ vào trong sáu phút nữa.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.