Sát Nhân Mạng

CHƯƠNG 37



Bên trong ngôi nhà thật miễn chê.
Hoàn toàn khác hẳn với suy nghĩ của Gillette. Hầu hết hang ổ của các hacker đều bừa bộn, chồng chất những linh kiện máy tính, dây cáp, sách hướng dẫn kỹ thuật, công cụ, đĩa mềm, hộp đựng thức ăn mốc meo, cốc bẩn, sách và giấy nháp vương vãi.
Phòng khách của Phate trông như thể vừa được Martha Stewart trang hoàng. Cả đội CCU nhìn xung quanh. Ban đầu Gillette băn khoăn không biết họ có vào nhầm nhà không, nhưng rồi hắn để ý thấy những tấm ảnh được đóng trong khung và khuôn mặt Holloway xuất hiện trong nhiều bức ảnh.
“Nhìn kìa”, Linda Sanchez nói, tay chỉ vào một khung ảnh. “Người phụ nữ đó nhất định là Shawn.” Rồi cô nhìn sang một tấm ảnh khác. “Bọn họ còn có con nữa à?”
Shelton nói, “Chúng ta có thể gửi những bức ảnh cho cảnh sát liên bang và..”.
Nhưng Bishop lắc đầu.
“Sao vậy?”, Alonso Johnson hỏi.
“Chúng là đồ giả, phải không?”, Bishop nhướng mày nhìn sang Gillette.
Tay hacker cầm một khung ảnh lên và gỡ tấm ảnh ra. Chúng không được in bằng loại giấy bóng in ảnh mà được in ra từ một máy in màu của máy tính. “Hắn tải chúng từ trên mạng hoặc scan từ một quyển tạp chí và ghép mặt mình vào.”
Trên mặt lò sưởi, bên cạnh một bức ảnh chụp cặp đôi hạnh phúc ngồi trên ghế dài bên bể bơi, là một chiếc đổng hồ cổ từ thời ông bà, đang chỉ 2:15. Tiếng kim đồng hồ như nhắc nhở rằng nạn nhân, hoặc có thể là những nạn nhân tiếp theo của Phate ở trường Đại học, có thể bị giết bất cứ lúc nào.
Gillette nhìn quanh căn phòng phảng phất không khí ngoại ô thịnh vượng.
Troubadour – căn nhà mơ ước cho bạn và gia đình tận hưởng tương lai…
Huerto Ramirez và Tim Morgan đã thẩm vấn hàng xóm xung quanh nhưng không ai cung cấp được manh mối gì về địa điểm khác có mối liên hệ với Phate. Ramirez nói, “Theo như người dân ở con phố này, hắn tên là Waren Gregg và hắn nói với mọi người rằng gia đình hắn sẽ chuyển đến sống cùng khi nào bọn trẻ hết năm học”.
Bishop nói với Alonso, “Chúng tôi biết mục tiêu tiếp theo của hắn có thể là một sinh viên trường Đại học Bắc California nhưng chúng tôi không biết đích xác là ai. Hãy đảm bảo rằng người của anh tìm kiếm tất cả những gì có thể là manh mối về nạn nhân tiếp theo của hắn”.
Johnson lắc đầu và nói, “Nhưng giờ thì chúng ta đã xộc vào tận hang ổ của hắn rồi, ông không nghĩ là hắn sẽ chui xuống đất và tạm thời quên đi những nạn nhân khác sao?”.
Bishop nhìn Gillette và nói, “Đó không phải hình dung của tôi về hắn”.
Tay hacker đồng tình. “Phate muốn chiến thắng. Bằng cách này hay cách khác, hắn phải giết một ai đó trong hôm nay.”
“Tôi sẽ chuyển lời đến họ”, viên cảnh sát đội SWAT nói và rời đi.
Cả đội kiểm tra những căn phòng, chúng hoàn toàn trống rỗng, cách biệt với thế giới bên ngoài bởi những tấm rèm kín mít. Phòng tắm chỉ có những vật dụng tối thiểu: dao cạo, kem cạo râu, dầu gội và xà bông. Họ cũng tìm thấy một hộp to đựng toàn những viên đá bọt.
Bishop nhặt một viên lên, cau mày tò mò.
“Những ngón tay của hắn”, Gillette nhắc. “Hắn dùng những viên đá đó chà chỗ chai tay để có thể gõ phím nhanh hơn.”
Họ bước vào phòng ăn, nơi Phate đặt Laptop.
Gillette liếc nhìn màn hình, lắc đầu chán nản. “Nhìn này.”
Bishop và Shelton đọc những con chữ:
TIN NHẮN KHẨN CẤP TỪ: SHAWN MA 10-87 CHO SỐ 34004 PHỐ ALTA VISTA
“Đó chính là mã đột kích của đội đặc nhiệm mã 87. Nếu hắn không nhận được tin nhắn này, chúng ta đã tóm cổ được hắn”, Bishop nói. “Chúng ta đã tiến sát đến thế.”
“Gã Shawn khốn kiếp”, Shelton chửi rủa.
Một cảnh sát gọi với lên từ tầng hầm, “Tôi tìm được lối trốn thoát rồi. Nó ở dưới này”.
Gillette xuống dưới cùng những người khác. Nhưng khi bước đến bậc thang cuối, hắn khựng lại, nhận ra khung cảnh trong bức ảnh của Lara Gibson. Sàn nhà lát vụng về, tấm ván Sheetrock chưa sơn phủ. Và vệt máu loang trên sàn nhà? Cảnh tượng thật kinh khủng.
Hắn đi cùng Alonso Johnson, Frank Bishop cùng những người lính khác kiểm tra một cánh cửa nhỏ ở cạnh tường. Nó mở ra một đường ống rộng hơn một mét, giống như một ống thoát nước mưa lớn. Một người lính chiếu đèn vào ống. “Nó dẫn sang ngôi nhà bên cạnh.”
Gillette và Bishop quay sang nhìn nhau. Viên thám tử thốt lên, “ôi không! Người phụ nữ với mái tóc bạc – trong chiếc Explorer! Người đánh xe ra khỏi gara. Chính là hắn”.
Johnson vớ lấy bộ đàm và ra lệnh cho cảnh sát vào căn nhà đó. Sau đó anh cử một xe định vị tìm kiếm xe bốn bánh.
Lát sau, một người lính gọi lại. “Căn nhà bên cạnh hoàn toàn trống rỗng. Không đồ đạc. Không gì cả.”
“Hắn sở hữu cả hai căn nhà.”
“Lại cái thứ social ettgineering chết tiệt”, Bishop làu bàu, thốt ra câu chửi thề mà Gillette lần đầu tiên nghe thấy từ viên thám tử.
Năm phút sau, đã có báo cáo về chiếc Explorer. Chiếc xe được tìm thấy tại một bãi đỗ ở trung tâm mua sắm cách đó chưa đến một phần tư dặm. Một bộ tóc bạc và chiếc váy vứt lại ở ghế sau. Không ai trong số những người được thẩm vấn tại trung tâm mua sắm nhìn thấy có người đổi từ chiếc Explorer sang chiếc xe khác.
Đội khám nghiệm hiện trường cảnh sát bang rà soát kĩ càng cả hai ngôi nhà nhưng không tìm được nhiều thứ hữu ích. Hóa ra Phate – dưới cái tên Waren Gregg, đã mua cả hai ngôi nhà, bằng tiền mặt. Họ đã gọi cho nhà môi giới bán nhà cho Phate. Cô này không nghĩ việc hắn mua hai ngôi nhà bằng tiền mặt là bất thường, ở Thung lũng Niềm hân hoan của trái tim (tên gọi khác của Santa Clara Valley) này, những nhân viên kinh doanh máy tính trẻ tuổi giàu có thường mua một ngôi nhà để ở và một để đầu tư. Dù vậy, cô ta cũng nói rằng, dường như vẫn có một điều bất thường về cuộc giao dịch đặc biệt này. Khi cô ta tra các báo cáo và ứng dụng tín dụng theo yêu cầu của cảnh sát thì tất cả dữ liệu bán hàng đã biến mất. “Việc đó không lạ lùng sao? Tất cả đã ngẫu nhiên bị xóa hết.”
“Phải rồi, rất lạ lùng”, Bishop nói vẻ châm biếm.
“Đúng rồi, ngẫu nhiên nữa chứ”, Gillette nói thêm.
Bishop nói với tay hacker, “Chúng ta hãy mang máy tính của hắn về CCU. Nếu may mắn, biết đâu có thứ gì đó liên quan đến mục tiêu của hắn ở ngôi trường đó. Hãy khẩn trương tiến hành việc này”.
Johnson và Bishop rời khỏi hiện trường, sau đó Linda Sanchez điền hết biên bản tang vật và bọc máy tính cùng những chiếc đĩa của Phate lại.
Cả đội quay trở lại xe và phóng về trụ sở CCU.
Gillette thông báo với Nolan cuộc vây bắt đã thất bại.
“Gã Shawn lại mách lẻo hắn à?”, cô tức giận hỏi.
Sanchez giao laptop của Phate cho Gillette và Nolan rồi đi nhận một cuộc gọi.
“Làm sao hắn biết chúng ta sắp đột kích ngôi nhà đó?”, Tony Mott. “Tôi không hiểu nổi.”
“Tôi thì chỉ muốn biết một điều”, Shelton lẩm bẩm. “Gã Shawn đó là tên khốn kiếp nào?”
Dù hiển nhiên là ông không mong chờ được đáp lại ngay lúc đó, nhưng ông sắp có câu trả lời.
“Tôi biết là ai”, Linda Sanchez nói, choáng váng và tức giận. Cô nhìn toàn đội rồi giơ chiếc ống nghe đang lủng lẳng trên tay. Búng những móng tay được sơn đỏ, cô nói, “Là quản trị mạng ở San Jose. Mười phút trước anh ta phát hiện ai đó đột nhập vào ISLEnet và dùng nó làm hệ thống đáng tin để xâm nhập cơ sở dữ liệu của Bộ Ngoại giao. Người sử dụng là Shawn. Hắn đã chỉ thị cho hệ thống của Bộ Ngoại giao xuất ra hai hộ chiếu lùi ngày bằng tên giả. Quản trị mạng nhận ra những tấm ảnh mà Shawn scan vào hệ thống. Một là của Holloway, cô hít một hơi, “cái kia là của Stephen”.
“Stephen nào?” – Tony Mott hỏi, không hiểu gì.
“Stephen Miller”, Sanchez nói như chực khóc. “Hắn chính là Shawn.”
Bishop, Mott và Sanchez đi vào khoang làm việc của Miller, lục soát bàn làm việc của anh ta.
“Tôi không tin điều đó”, Mott bướng bỉnh nói. “Lại là Phate thôi. Hắn đang chơi chúng ta.”
“Nhưng nếu vậy thì Miller ở đâu”, Bishop hỏi. Patricia Nolan nói cô ở văn phòng CCU suốt khoảng thời gian cả đội đến nhà của Phate nhưng Miller không hề gọi. Cô thậm chí còn thử tìm kiếm anh ta ở rất nhiều phòng ban máy tính thuộc các trường đại học khu vực nhưng anh ta không hề có ở đó.
Mott bật máy của Miller.
Màn hình yêu cầu nhập mật khẩu. Mott thử cách thông thường nhất – đoán thử vài mật khẩu: ngày sinh, tên đệm, hoặc tương tự như thế. Nhưng truy cập bị từ chối.
Gillette bước vào khoang làm việc và tải về chương trình phá khóa của hắn. Chỉ trong vài phút mật khẩu đã bị bẻ, Gillette vào được máy của Miller. Rất nhanh chóng, hắn tìm thấy hàng tá tin nhắn gửi đến Phate dưới tên Shawn, đăng nhập Internet thông qua công ty Monterey Online. Nội dung tin nhắn đã được mã hóa nhưng chỉ nhìn tiêu đề là đã rõ thân phận thực sự của Miller.
Patricia Nolan nói, “Nhưng Shawn rất giỏi – Stephen chỉ là tay ma so với hắn”.
“Social engineenring”, Bishop nói.
Gillette đồng tình. “Hắn phải làm ra vẻ ngốc nghếch để chúng ta khỏi nghi ngờ. Trong khi đó, hắn tuồn tin tức cho Phate.”
Mott quát lên, “Hắn chính là nguyên nhân cái chết của Andy Anderson. Hắn đã bán đứng ông ấy”.
Shelton lẩm bẩm, “Cứ mỗi lần chúng ta sắp tóm được Phate, Miller lại cảnh báo cho hắn”.
“Quản trị mạng đó có phán đoán được Miller hack từ đâu không?”, Bishop hỏi.
“Không, thưa sếp”, Sanchez nói. “Hắn dùng chương trình bulletproof anonymizer – chương trình nặc danh chống can nhiễu từ bên ngoài.”
Bishop hỏi Mott, “Những trường mà hắn đăng ký sử dụng máy tính – Trường Bắc California có nằm trong số đó không?”.
Mott đáp, “Tôi không rõ. Cũng có thể”.
“Vậy là hắn đang giúp Phate đặt bẫy những nạn nhân tiếp theo.” Điện thoại Bishop reo. Ông nghe máy và gật đầu. Sau khi gác máy ông nói, “Là Huerto”. Bishop đã cử Ramie và Morgan đến nhà Miller ngay khi Linda Sanchez nhận được cuộc gọi từ quản trị mạng ISLEnet. “Xe của Miller đã biến mất. Phòng làm việc của anh ta không có gì ngoài một đống cáp và linh kiện máy tính. Anh ta đã mang tất cả máy và đĩa theo.” Ông quay sang hỏi Mott và Sanchez, “Anh ta có nhà nghỉ dưỡng mùa hè nào không? Gia đình có ở gần không?”.
“Không. Cả đời anh ta chỉ có máy móc”, Mott nói. “Làm việc ở văn phòng này và làm việc ở nhà.”
Bishop nói với Shelton, “Gửi ảnh Miller lên mạng và cử một số cảnh sát mang theo bản sao ảnh đến trường Đại học Bắc California”. Ông liếc nhìn máy tính của Phate và nói với Gillette, “Dữ liệu trong đó không bị mã hóa nữa, đúng không?”.
“Không”“, Gillette trả lời. Hắn gật đầu về phía màn hình, nơi màn hình chờ của Phate chuyển động đều đều – khẩu hiệu của trò Knights of Access.
Quyền truy cập là Chúa trời, là Đấng toàn năng…
“Để tôi xem có thể tìm thấy gì nào”. Hắn ngồi xuống trước chiếc laptop.
“Hắn có thể đặt hàng đống bẫy bên trong đấy”, Linda Sanchez cảnh báo.
“Tôi sẽ bước thật nhẹ, đi thật khẽ. Tắt màn hình chờ rồi chúng ta sẽ tiếp quản từ đó. Tôi biết những chỗ logic mà hắn đặt dây bẫy đấy” Gillette ngồi xuống trước chiếc máy. Hắn nhấn nút bấm vô hại nhất trên một bàn phím – phím Shift, để tắt chế độ màn hình chờ. Vì bản thân phím Shift không thể tạo ra lệnh nào hay gây ảnh hưởng đến các chương trình và dữ liệu lưu trong máy, các hacker không bao giờ cài một dây bẫy cho phím đó.
Nhưng tất nhiên Phate đâu phải một tay hacker bất kỳ.
Gillette vừa nhấn phím, màn hình trở nên tối đen, rồi một dòng chữ xuất hiện:
BẮT ĐẦU MÃ HÓA KHỐI
ĐANG MÃ HÓA – CHƯƠNG TRÌNH MÃ HÓA STANDARD 12 CỦA BỘ QUỐC PHÒNG
“Không!”, Gillette kêu lên và nhấn nút tắt máy. Nhưng Phate đã vô hiệu hóa điều khiển nguồn, không có phản ứng. Hắn lật chiếc laptop lại để tháo rời pin nhưng nút tháo ra đã bị gỡ bỏ. Trong vòng ba phút toàn bộ nội dung ổ cứng đã bị mã hóa.
“Khốn kiếp, khốn kiếp..”, Gillette chán nản đập bàn. “Tất cả thành công cốc rồi”, hắn nói.
Tay đặc vụ bộ quốc phòng Backle đứng dậy và chầm chậm tiến đến chỗ để chiếc máy. Anh ta nhìn Gillette rồi lại nhìn màn hình, giờ chỉ còn dày đặc những kí tự vô nghĩa. Rồi tay đặc vụ lại liếc sang những bức ảnh chụp nạn nhân trên tấm bảng trắng. Anh ta ra hiệu về phía chiếc laptop và hỏi Gillette, “Cậu nghĩ trong đó có thứ gì đó có thể cứu vài mạng người à?”.
“Có thể.”
“Những gì tôi nói lúc trước là nghiêm túc đây. Nếu cậu có thể bẻ khóa chương trình mã hóa đó, tôi cũng sẽ coi như không thấy gì. Tất cả những gì tôi yêu cầu là cậu đưa cho chúng tôi đĩa có chương trình bẻ khóa.”
Gillette chần chừ. Rốt cuộc hắn lên tiếng, “Anh nghiêm túc chứ?”.
Backle nở một nụ cười khó hiểu và vỗ đầu hắn. “Thằng khốn đó đã cho tôi một cú búa bổ vào đầu. Tôi muốn thêm tội tấn công một đặc vụ liên bang vào danh sách tội danh của hắn.”
Gillette liếc nhìn Bishop, một cái gật đầu – một sự ngầm thừa nhận rằng ông ta sẽ bảo trợ cho hắn. Tay hacker ngồi xuống một bàn máy tính và vào mạng. Hắn vào lại tài khoản ở Los Amos, nơi hắn lưu giữ bộ công cụ hacker của mình, và tải về một fìle có tên Pac-Man.
Nolan bật cười. “Pac-Man?”
Gillette nhún vai. “Tôi đã làm liền hai mươi hai tiếng mới xong. Không thể nghĩ ra được cái tên nào hay hơn”
Hắn copy nó vào một đĩa mềm, rồi cho đĩa vào laptop của Phate.
Màn hình hiện lên:
Mã hóa/Giải mã
Nhập Username:
Nhập Password:
Những chữ cái, con số và ký hiệu Gillette đánh chuyển thành một dãy mười tám dấu hoa thị. Mott nói, “Mật khẩu quá khủng”.
Màn hình hiện lên:
Lựa chọn chương trình mã hóa:
1. Công ty đường dây cá nhân Online
2. Chương trình chống mã hóa tiêu chuẩn
3. Ban điều hành Defense Standard 12
4. NATO
5. Hệ thống máy tính quốc tế
Patricia Nolan bắt chước Mott. “Hack quá khủng. Anh viết loại tập lệnh có thể bẻ khóa tất cả những chương trình mã hóa này?”
“Thường thì nó sẽ giải mã khoảng chín mươi phần trăm file”, Gillette nói, nhấn phím 3. Rồi hắn bắt đầu quá trình giải mã bằng chương trình của mình.
“Cậu làm như thế nào vậy?”, Mott hỏi, rõ ràng là bị mê hoặc.
Gillette không thể kìm nổi sự hào hứng và cả tự mãn trong giọng nói “Về cả bản tôi đưa đủ những mẫu của mỗi chương trình mã hóa sao cho chương trình bắt đầu ghi nhận kiểu thuật toán được sử dụng để mã hóa chúng. Sau đó nó sẽ tạo ra những phép đoán logic về..”.
Đặc vụ Backle đột nhiên bước qua Bishop, tóm lấy cổ áo Gillette và ấn mạnh hắn xuống sàn nhà. “wyatt Edward Gillette, anh bị bắt vì vi phạm Luật phá hoại và gian lận tin học, ăn cắp thông tin mật của Chính phủ và phản quốc”
Bishop thốt lên, “Anh không thể làm thế!”.
Tony Motl định tiến về phía anh ta. “Anh là đồ khốn nạn!”
Backle kéo vạt áo khoác, để lộ báng súng. “Cẩn thận đấy. Tôi sẽ suy ngẫm thật lâu về việc anh định làm, anh cảnh sát ạ!”
Motl lùi lại. Còn Backle, gần như ung dung, còng tay tội nhân của mình.
Bishop giận dữ nói, “Thôi nào, Backle, anh đã nghe chuyện của chúng tôi rồi đấy, Phate đang nhắm vào ai đó ở trường Đại học. Rất có thể hắn đang ở đó ngay lúc này!”.
Patricia Nolan nói, ““Chính anh nói với anh ấy là việc đó không sao!”.
Nhưng Backle lạnh lùng phớt lờ cô, kéo Gillette đứng lên và ấn hắn xuống một chiếc ghế. Đoạn tay đặc vụ lôi bộ đàm ra, bấm nút và nói, “Backle gọi số 23. Tôi đã bắt được nghi phạm. Anh có thể đến đưa hắn đi”.
“Rõ”, đầu dây rè rè đáp.
“Anh chơi đểu anh ấy!”, Nolan tức giận quát lên. “Anh là thằng khốn chỉ chực chờ để làm thế.”
“Tôi sẽ gọi cho sếp của mình”, Bishop quát lên, rút di động ra và sải chân mạnh mẽ về phía cửa trước.
“Cứ gọi cho bất kỳ ai mà ông muốn. Hắn ta sẽ phải quay lại nhà tù.”
Shelton giận dữ nói, “Ngay lúc này, chúng ta có một tên sát nhân đang rình rập nạn nhân tiếp theo! Có thể đây là cơ hội duy nhất để ngăn chặn hắn”.
Backle đáp, gật đầu về phía Gillette, “Còn mật mã bị hắn phá đồng nghĩa với việc hàng trăm người khác có thể chết”.
Sanchez nói, “Anh đã hứa với chúng tôi. Chẳng nhẽ việc đó không có nghĩa lý gì?”.
“Không. Bắt những kẻ như hắn mới là nghĩa lý – cho tất cả mọi chuyện.”
Gillette tuyệt vọng nói, “Cho tôi thêm một giờ nữa thôi”.
Nhưng Backle dù nhếch mép cười gian xảo và bắt đầu đọc những quyền lợi của Gillette.
Vừa lúc đó, họ nghe thấy tiếng súng nổ từ bên ngoài và tiếng kính vỡ tung khi những viên đạn đập vào lớp cửa ngoài của CCU.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.