Sát Nhân Mạng

CHƯƠNG 11



Wyatt Gillette thả mình vào chiếc ghế văn phòng rẻ tiền. Hắn đang ở trong một khoang làm việc tù mù tăm tối nằm phía sau CCU, im lìm, tách biệt khỏi những người khác trong đội.
Nhìn trân trân vào con trỏ nhấp nháy trên màn hình, hắn lăn chiếc ghế lại gần hơn và chùi hai tay vào quần. Rồi những ngón tay chai sần của hắn đưa lên và bắt đầu gõ như vũ bão xuống bàn phím màu đen. Mắt hắn không hề rời khỏi màn hình. Gillette biết rõ vị trí của từng chữ số, ký tự trên bàn phím và có thể đánh máy một trăm mười từ một phút với độ chính xác hoàn hảo mà không cần nhìn xuống. Nhiều năm trước, khi hắn mới bắt đầu hack, hắn nhận thấy tám ngón tay vẫn là quá chậm, vì vậy hắn tự luyện tập một phương pháp đánh máy mới sử dụng cả hai ngón cái thêm cho những phím nhất định, chứ không chỉ dành riêng cho phím space – phím cách.
Tuy thể trạng hắn không khỏe, nhưng cẳng tay và những ngón tay của hắn là cơ bắp thuần túy. Ở trong ngục, khi phần lớn các bạn tu dành hàng giờ nâng tạ sắt ở sân thì Gillette chỉ làm duy nhất một việc là chống đẩy bằng các đầu ngón tay để giữ chúng luôn ở trong trạng thái sẵn sàng cho niềm đam mê của hắn. Lúc này, cái bàn phím nhựa đang nhảy múa theo từng phát gõ khi hắn chuẩn bị Online.
Ngày nay, Internet hầu như là sự kết hợp của các trung tâm mua sắm, tờ USA Today, cụm rạp chiếu phim và công viên giải trí. Các trình duyệt và công cụ tìm kiếm tràn ngập những nhân vật hoạt hình được trang trí bằng những hình ảnh đẹp đẽ (cả một mớ những mẩu quảng cáo vớ vẩn nữa). Đến một đứa bé ba tuổi cũng có thể làm chủ công nghệ trỏ và nhấp chuột. Bảng hướng dẫn dễ hiểu chờ sẵn ở từng lửa sổ. Lúc này đây Internet như một món hàng đóng gói sẵn dành cho tất cả mọi người, thông qua bộ mặt hào nhoáng của mạng World Wide Web đầy tính thương mại hóa.
Nhưng Internet đích thực – Internet của những tay hacker thực thụ, lẩn khuất phía sau mạng toàn cầu đó là một nơi hoang dã, sơ khai nơi những tay hacker dùng những câu lệnh phức tạp, các dụng cụ tiện ích của Telnet và các phần mềm truyền thông đã được bóc ra trần trụi như một chiếc xe đua để lướt khắp thế gian, nói theo nghĩa đen, bằng tốc độ ánh sáng.
Đó chính là việc mà Wyatt Gillette sắp làm.
Dù vậy, vẫn còn một việc cần quan tâm đến trước tiên. Một phù thủy huyền thoại không thể phù phép nếu thiếu cây đũa thần, sách bùa chú và những liều thuốc ma thuật, các phù thủy hay những bậc thầy máy tính cũng vậy.
Một trong những kĩ năng đầu tiên mà hacker phải học là nghệ thuật ẩn giấu phần mềm. Vì ta phải tính đến việc một hacker đối địch, nếu không phải là cảnh sát hay FBI, có thể đoạt quyền kiểm soát hoặc phá hủy máy tính của mình, bởi vậy không bao giờ được để lại duy nhất một bản sao những công cụ của mình trên ổ cứng hay đĩa lưu trữ back up ở trong nhà.
Ta phải cất giấu chúng trong một máy tính xa lạ, một chiếc máy chẳng có bất kỳ mối liên kết nào với mình.
Phần lớn các hacker sẽ cất giấu trong máy tính ở các trường đại học vì hệ thống an ninh của họ nổi tiếng là nhiều lỗ hổng. Nhưng Gillette đã dành bao năm làm việc với công cụ phần mềm của hắn nhiều lần viết từ đầu đến cuối các phần mềm, cũng như chỉnh sửa những chương trình hiện có để phù hợp với nhu cầu của mình. Việc mất đi tất cả những thành quả đó thực sự sẽ trở thành bi kịch của hắn, cũng như tai họa cho rất nhiều người dùng máy tính trên toàn thế giới, vì với chương trình của Gillette, ngay cả những hacker hạng xoàng cũng có thể đột nhập vào hầu hết mọi trang web, dù là của Chính phủ hay một tập đoàn.
Bởi thế, hắn lưu trữ các công cụ của mình ở nơi an toàn hơn một chút so với phòng xử lý dữ liệu của Dartmouth hoặc Đại học Tulsa. Sau khi liếc mắt ra phía sau để chắc chắn rằng không có ai nhòm ngó phía sau hắn và nhìn thấy những gì hiện lên trên màn hình, hắn gõ một lệnh và kết nối máy tính của CCU với một chiếc máy khác ở cách đó vài bang. Lát sau, trên màn hình hiện lên dòng chữ:
Chào mừng đến với Trung tâm nghiên cứu Vũ khí hạt nhân Los Alamos – Không lực Hoa Kỳ Username?
Hắn gõ Jarmstrong để trả lời câu hỏi này. Cha của Gillette tên là John Armstrong Gillette. Thông thường, lấy tên tài khoản có bất kỳ sự liên quan nào đến đời thực là một ý tưởng tồi với một hacker, nhưng lần này hắn đã tự cho phép bản thân nhượng bộ khía cạnh con người của mình.
Máy tính lại hỏi:
Password
Hắn gõ dãy 4%xTtfllk5$$60%4Q, khác với usemame, nó hoàn toàn rõ ràng và lạnh lùng đúng kiểu hacker. Dãy ký tự này vô cùng khó nhớ, (một phần bài luyện tập trí óc hàng ngày của hắn ở trong tù là ôn lại hơn hai mươi mật khẩu dài cỡ này) nhưng nhờ đó không ai có thể đoán ra được, và vì nó dài đến mười bảy kí tự, một siêu máy tính sẽ phải mất đến hàng tuần mới phá được mật khẩu. Một chiếc máy tính cá nhân dòng IBM thì sẽ phải làm việc liên tục đến hàng trăm năm để lần ra được một mật khẩu phức tạp thế này.
Trong tích tắc, con trỏ nhấp nháy rồi dòng chữ trên màn hình thay đổi, hắn đọc:
Xin chào, Đại úy J. Amstrong
Sau ba phút, hắn đã tải về nhiều file từ tài khoản của vị đại úy giả tưởng mang tên Amstrong. Kho vũ khí của ông gồm chương trình CQAPM nổi tiếng (Công cụ Quản trị an ninh cho Phân tích mạng, được cả các nhà quản trị và hacker sử dụng để kiểm tra “khả năng bị hack” của các mạng máy tính), vài chương trình phá vỡ và xâm nhập cho phép nắm quyền truy cập vào thư mục gốc của vô số loại máy cùng hệ thống, một trình duyệt web và phần mềm đọc tin tự tạo, một chương trình che giấu đi sự hiện diện trong máy của người khác và xóa sạch những dấu vết hoạt động sau khi thoát ra, những chương trình “chó săn” được dùng để “đánh hơi” và tìm ra các tên truy cập, mật khẩu và những thông tin có ích khác trên mạng hoặc trong máy tính của ai đó, một chương trình truyền thông tin để gửi các dữ liệu về, các chương trình mã hóa và danh sách các trang web cùng trang nặc danh của hacker (những dịch vụ thương mại sẽ tẩy xóa các email và tin nhắn khiến người nhận không thể lần theo dấu vết của Gillette).
Thứ cuối cùng trong những công cụ mà hắn tải về là một chương trình hắn đã tạo ra vài năm trước, HyperTrace, dùng để lần ra những người dùng khác trên mạng.
Sau khi tải những công cụ này về một chiếc đĩa có dung lượng lớn, Gillette thoát khỏi trang Los Alamos. Hắn ngừng một lát, bẻ khớp các ngón tay rồi nhoài người về phía trước. Tiếp tục gõ lên bàn phím với sự nhanh nhẹn của một đô vật sumo, Gillette vào mạng. Hắn bắt đầu bằng những tên miền nhiều người dùng, căn cứ vào động cơ rõ ràng của tên sát nhân để chơi một phiên bản Đời thực của trò Access khét tiếng. Tuy vậy, trong số những người mà Gillette hỏi, chẳng có ai từng chơi hay biết ai đó chơi trò Access, hay ít nhất đó là những gì họ nói với gã. Dù vậy, Gillette vẫn tiếp tục với chút ít manh mối.
Từ mạng trò chơi MUD, hắn chuyển sang mạng toàn cầu world Wide Web – thứ mà ai cũng nói tới nhưng chẳng mấy người có thể định nghĩa. www (World Wide Web) đơn giản là một mạng lưới quốc tế của nhiều máy tính, được truy cập thông qua những giao thức máy tính đặc biệt cho phép người dùng nhìn thấy hình ảnh, nghe thấy âm thanh và nhảy từ trang web này sang những trang khác, chỉ đơn giản bằng cách nhấp chuột vào những chỗ nhất định trên màn hình – siêu liên kết. Trước khi có Mạng toàn cầu, hầu hết thông tin trên mạng đều ở dạng văn bản và việc thoát từ trang này sang trang khác cực kì phiền phức. Được “khai sinh” hơn một thập kỷ trước ở CERN – Viện Vật lý Thụy Sỹ, có thể nói hiện nay Mạng Toàn cầu vẫn đang ở “tuổi vị thành niên”.
Gillette tìm kiếm qua những trang hack ngầm – những địa hạt lập dị, đầy tính giải trí của thế giới mạng. Với một số trang, muốn truy cập được bạn phải trả lời một câu hỏi bí truyền về hacking, tìm ra và nhấp chuột vào một chấm siêu nhỏ trên màn hình hoặc cung cấp một mật mã. Dù vậy, chẳng rào cản nào ngăn được Gillette quá một đến hai phút.
Hết trang này qua trang khác, Gillette mỗi lúc một chìm sâu trong miền xanh thẳm vô định, lang thang qua những chiếc máy tính có lẽ ở tận Moscow, Cape Town hay Mexico City. Hay ở ngay gần, Cupertino hoặc Santa Clara.
Gillette tăng tốc khắp thế giới mạng nhanh đến mức hắn không muốn rời những ngón tay khỏi bàn phím vì sợ hụt mất tiến độ của mình. Thế nên, thay vì tốc ký bằng giấy bút như hầu hết các hacker khác, Gillette copy những gì hắn cho là có ích và dán vào một cửa sổ văn bản ngay trên màn hình.
Trên trang Web, hắn tìm kiếm Usenet, nơi tập hợp tám mươi nghìn diễn đàn thảo luận đề tài, ở đó những người hứng thú với các chủ đề nhất định có thể tải lên những tin nhắn, tranh ảnh, chương trình, đoạn phim và âm thanh. Gillette lùng sục những diễn đàn thảo luận kinh điển của các hacker như alt.2600, alt.hack, alt.virus và alt.binaries.hacking.utilities, cắt và dán bất cứ thứ gì có vẻ liên quan. Hắn tìm thấy tài liệu về hàng tá những diễn đàn chưa tồn tại khi bị bắt vào tù. Hắn nhảy vào những diễn đàn này, rê chuột qua tất cả và lại tìm ra những diễn đàn khác được đề cập.
Lại rê chuột, lại đọc, lại cắt và dán.
Một cú gõ mạnh đã làm kẹt bàn phím, điều này thường xảy ra khi hắn đang hack. Gillette rút dây cắm, quẳng cái bàn phím xuống sàn nhà dưới chân hắn, cắm chiếc khác vào và tiếp tục đánh máy.
Hắn lại chuyển sang những phòng chat trực tuyến (IRC). IRC là một loạt những mạng lưới tự do không hạn chế – nơi bạn có thể tìm thấy những cuộc thảo luận thật sự giữa những người cùng sở thích. Bạn gõ bình luận, nhấn nút ENTER và những từ ngữ của bạn sẽ xuất hiện trên màn hình của tất cả những ai đang đăng nhập trong phòng chat lúc đó. Hắn đăng nhập vào phòng hack (mỗi phòng được chỉ định bằng một con số và một từ mô tả). Cũng tại phòng chat này, khi còn là một tay hacker trẻ tuổi, hắn đã dành ra cả nghìn giờ/chia sẻ thông tin, tranh luận và tán gẫu với những hacker từ khắp nơi trên thế giới.
Sau IRC, Gillette bắt đầu tìm kiếm qua BBS – những bảng tin tương tự như trang web nhưng có thể truy cập với chi phí chỉ bằng một cuộc gọi điện thoại trong vùng, không cần đến nhà cung cấp dịch vụ Internet. Nhiều trang hợp pháp nhưng cũng có nhiều trang khác như Death Hack và Silent Spring lại là mảng đen tối nhất của thế giới mạng. Hoàn toàn không được kiểm soát và giám sát, những trang này là nơi bạn có thể tìm ra công thức chế tạo bom, khí độc và những virus máy tính có thể xóa sạch ổ cứng của một nửa dân số thế giới.
Lần theo những manh mối, thả mình trong những trang web, nhóm thảo luận, phòng chát và các trang lưu trữ. Săn tìm…
Cũng giống như cách những luật sư xới tung các giá sách cũ kĩ để tìm kiếm một vụ việc có thể cứu thân chủ của mình khỏi án tử hình, các vận động viên rẽ đám cỏ hướng về nơi họ nghĩ mình vừa nghe thấy tiếng gầm gừ của một con gấu, cặp tình nhân kiếm tìm điểm nhục cảm của nhau…
Ngoại trừ một điều, cuộc săn lùng trong Miền xanh thẳm vô định không giống tìm kiếm kho sách thư viện hay tại một cánh đồng cỏ cao ngút hoặc trên da thịt mượt mà của người tình, nó giống như cuộc săn mồi trong một vũ trụ hoàn toàn giãn nở, nơi không chỉ chứa đựng thế giới mà chúng ta đã biết và những bí ẩn chưa được hé lộ mà cả những thế giới đã qua và thế giới chưa hình thành.
Vô tận.
Cạch.
Hắn lại làm hỏng một phím – phím E vô cùng quan trọng. Gillette quăng bàn phím này vào góc khoang làm việc, cho nó nhập bọn với người bạn đã chết của mình.
Hắn cắm một bàn phím mới vào và tiếp tục.
Lúc 2:30 chiều, Gillette ló ra khỏi khoang làm việc. Lưng hắn đau nhức vì phải ngồi bất động một chỗ. Tuy vậy hắn vẫn có thể cảm nhận được niềm hoan hỉ từ khoảng thời gian Online ngắn ngủi và sự miễn cưỡng khi phải rời chiếc máy.
Trong văn phòng chính của CCU, hắn thấy Bishop đang thảo luận với Shelton, những người khác đang nói chuyện điện thoại hoặc đứng xung quanh tâm bảng trắng, nghiền ngẫm các bằng chứng. Bishop là người đầu tiên để ý thấy Gillette và ngừng câu chuyện.
“Tôi tìm được vài thứ”, tay hacker nói, tay giơ lên một xấp bản in.
“Nói cho chúng tôi xem nào.”
“Nói dễ hiểu xem”, Shelton nhắc nhở. “Chốt lại là gì?”
“Chốt lại là”, Gillette đáp, “Có một kẻ tên là Phate. Và chúng ta thực sự gặp rắc rối đấy”.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.