Khó chịu và bực bội, tay đặc vụ Arthur Backle kéo ghế sang bên cạnh để có thể nhìn màn hình máy của Wyatt Gillette rõ hơn.
Tay hacker liếc xuống theo tiếng ghế nghiến trên tấm lót sàn rẻ tiền, rồi lại nhìn lên màn hình và tiếp tục gõ phím. Những ngón tay hắn lướt khắp bàn phím.
Giờ thì văn phòng CCU chỉ còn lại hai người họ. Ngay khi nhận ra rằng vợ mình có thể là mục tiêu tiếp theo của tên sát nhân, Bishop vội vã lao đến bệnh viện. Những người khác đều đi cùng, ngoại trừ Gillette, người phải ở lại để giải mã email mà họ nhận được từ gã có cái tên kỳ lạ, Triple-X. Gillette gợi ý rằng Backle có thể có nhiều việc để làm hơn ở bệnh viện nhưng tay đặc vụ chỉ nở nụ cười nửa miệng bí hiểm mà hắn biết có thể chọc tức những nghi phạm, và kéo ghế ngồi lại gần Gillette hơn.
Backle không tài nào theo kịp tốc độ múa tay trên bàn phím của tay hacker.
Kỳ lạ là tay đặc vụ cũng biết đánh giá cao những tài năng máy tính. Vì cơ quan của anh ta – Bộ Quốc phòng, chính là cơ quan cấp liên bang tham gia vào thế giới tin học sớm nhất (và theo lưu ý của Ban đối ngoại Bộ Quốc phòng thì ngay từ đầu nó cũng là một trong những nhà sáng lập nên Internet). Ngoài ra, là một phần của khóa huấn luyện nghiệp vụ, tay đặc vụ đã tham gia nhiều khóa học về tội phạm máy tính do CIA, Bộ Tư pháp và cơ quan của anh ta chủ trì. Ở nơi làm việc, anh ta từng dành hàng giờ xem những đoạn băng về hacker.
Gillette gợi nhắc anh ta về một khóa tập huấn gần đây ở Washington, D.c. Ngồi bên những chiếc bàn gỗ ép rẻ tiền trong một phòng họp ở Lầu Năm Góc, những đặc vụ từ Ban Điều tra tội phạm lại trở thành học trò của hai nam thanh niên chẳng hề giống những giảng viên quân sự điển hình. Một người để tóc dài đến vai và đi xăng đan thắt nút, mặc quần soóc và áo sơ mi nhàu nhĩ. Người còn lại ăn mặc chỉnh tề hơn, nhưng khắp mình bấm đầy khuyên và mái tóc húi cua thì nhuộm màu xanh lá cây. Hai người này là thành viên của “Đội Cọp” – thuật ngữ chỉ một nhóm cựu hacker mũ đen, những người đã hoàn lương (thường là sau khi nhận ra mình có thể nhận được những khoản tiền lớn từ việc bảo vệ các công ty và cơ quan Chính phủ khỏi cựu đồng nghiệp).
Dù ban đầu có hoài nghi về những tay chơi này, nhưng cuối cùng thì Backle vẫn bị thuyết phục bởi sự tài giỏi và khả năng đơn giản hóa những vấn đề khó hiểu về mã hóa và hacking của hai người này. Họ là những giảng viên có thể truyền đạt chính xác nhất và dễ hiểu nhất trong số những khóa học anh đã tham gia trong suốt sáu năm làm việc cho Ban Điều tra Tội phạm thuộc Bộ Quốc phòng.
Backle biết mình không phải là một chuyên gia, nhưng chính nhờ lớp học đó, anh cũng hiểu được cơ bản những gì chương trình phá khóa của Gillette đang làm. Nó không có vẻ gì là liên quan đến hệ thống mã hóa Standard 12 của Bộ Quốc phòng. Nhưng thấy Tóc Xanh đã từng giải thích cách người ta ngụy trang những chương trình phần mềm. Chẳng hạn như, bạn có thể tạo một lớp vỏ bọc cho Standard 12 để khiến nó trông giống như một chương trình kiểu khác – thậm chí là một trò chơi hay một bản word. Và chính vì thế mà bây giờ anh ta cứ chúi người về phía trước và thể hiện sự khó chịu của mình một cách lộ liễu.
Cảm thấy ngột ngạt sau vai mình, Gillette ngừng tay. Hắn nhìn tay đặc vụ. “Tôi thực sự đang cần tập trung. Và anh cứ thở vào cổ tôi như thế khiến tôi hơi rối trí đấy.”
“Chương trình mà cậu lại cho chạy là cái gì thế?”
“Không có gì là “lại” ở đây. Tôi đã nói từ đầu rồi đấy thôi.”
Lại một nụ cười nhạt. “Ồ, cậu cứ nói xem? Tôi tò mò đấy.”
“Một chương trình mã hóa/giải mã mà tôi tải từ trang HackerMart Web và chỉnh sửa theo ý mình. Nó miễn phí nên tôi đoán mình không phạm tội xâm phạm bản quyền. Dù sao việc này cũng không thuộc quyền hạn của anh. Mà này, anh muốn biết nó dùng thuật toán gì không?”
Backle không trả lời mà chỉ nhìn chằm chằm vào màn hình, cố gắng đè nén cơn tức tối bằng nụ cười nửa miệng của mình.
Gillette nói, “Nghe tôi nói này, Backle, đây là việc tôi cần làm. Sao anh không đi uống chút cà phê và ăn ít bánh vòng hoặc bất cứ thứ gì có trong căng tin trên tầng và để tôi làm việc của mình?”. Hắn vui vẻ nói tiếp, “Anh có thể thoải mái xem xét khi tôi xong việc, rồi cứ việc bắt tôi với bất cứ tội danh của nợ nào mà anh muốn”.
“Ái chà, chúng ta đang hơi nhạy cảm đấy nhỉ?”, Backle nói, kéo lê chân ghế một cách ồn ào. “Tôi chỉ đang làm việc của mình thôi.”
“Còn tôi thì đang cố làm việc của mình.” Tay hacker quay lại với chiếc máy tính.
Backle nhún vai. Thái độ của Gillette không làm anh ta bớt cay cú nhưng ý tưởng về bánh vòng cũng hay. Anh đứng dậy, vươn vai và bước xuống hành lang, đi về hướng mùi cà phê bay ra.
o O o
Frank Bishop đạp phanh chiếc Crown Victoria, dừng lại ở bãi đỗ xe của Trung tâm Y tế Stanford-Packard rồi nhảy phắt ra, quên cả tắt máy và đóng cửa.
Đi nửa đường đến cổng trước, hình như ông nhận ra mình vừa làm gì nên vội dừng bước và quay lại. Nhưng ông nghe thấy, giọng một phụ nữ, “Cứ đi đi, sếp. Để đó cho tôi”. Là Linda Sanchez. Cô, Bob Shelton và Tony Mott đi ngay sau Bisho, vì quá vội chạy đến với vợ mình nên ông đã rời CCU mà không kịp đợi những người còn lại. Patricia Nolan và Stephen Miller đến trong chiếc xe thứ ba.
Bishop tiếp tục lao hộc tốc đến cửa trước và chạy vội vào trong.
Ông nín thở chạy qua cả tá bệnh nhân đang chờ ở khu vực lễ tân. Ở bàn tiếp nhận, ba y tá đang đứng xúm quanh nhân viên lễ tân, mắt nhìn màn hình vi tính. Không ai ngước lên nhìn ông. Có chuyện gì đó không ổn. Vẻ mặt ai cũng khó hiểu, họ thay nhau gõ bàn phím.
“Xin lỗi, đây là việc của cảnh sát”, ông nói, tay giơ ra phù hiệu. “Tôi cần biết Jennie Bishop đang ở phòng nào.”
Một y tá ngước lên. “Xin lỗi, ngài sỹ quan. Hệ thống đang gặp trục trặc. Chúng tôi không rõ là chuyện gì nhưng toàn bộ thông tin của bệnh nhân đã biến mất.”
“Tôi phải tìm được cô ấy. Ngay bây giờ”
Người y tá thấy nỗi đau khổ trên khuôn mặt ông và bước lại gần. “Cô ấy có phải là bệnh nhân nội trú không?”
“Sao?”
“Cô ấy có ở nội trú không?”
“Không. Cô ấy đến làm vài xét nghiệm. Trong một hay hai giờ gì đó. Cô ấy là bệnh nhân của bác sỹ Williston.”
“Bệnh nhân ngoại trú khoa ung thư” Người y tá hiểu ngay. “Được rồi, ở trên tầng ba, hướng tây. Lối đó.” Cô ta chỉ tay và nói gì đó nhưng Bishop đã chạy vội ra đại sảnh. Một bóng trắng phấp phới bên cạnh. Ông liếc xuống. Chiếc áo sơ mi đã tuột hết ra. Ông nhét nó vào trong cạp quần, không được phá nếp.
Lên trên tầng, qua một hành lang dài như hàng dặm, rẽ hướng tây.
Ở cuối sảnh, ông nhìn thấy một y tá và được chỉ dẫn đến một căn phòng. Khuôn mặt cô gái trẻ tóc vàng có vẻ đang rất vội nhưng Bishop không biết lý do là vì có chuyện xảy ra với Jennie hay vì vẻ lo lắng trên khuôn mặt ông.
Ông chạy vội xuống sảnh và xộc vào phòng, gần như va vào viên bảo vệ trẻ tuổi đang ngồi cạnh giường. Gã đứng bật dậy, tay với khẩu súng của mình.
“Anh yêu!”, Jennie òa khóc.
“Ổn rồi”, Bishop nói với người bảo vệ. “Tôi là chồng cô ấy.”
Vợ ông vẫn khóc thút thít. Ông chạy đến bên vợ và ôm chặt cô trong vòng tay.
“Một y tá đã tiêm cho em”, cô thì thầm. “Bác sỹ không hề chỉ định. Họ không biết là thuốc gì. Đang xảy ra chuyện gì vậy, Frank?”
Ông liếc nhìn tay bảo vệ, tên trên phù hiệu đang mang là “R. Hellman.” Anh ta nói, “Xảy ra trước khi tôi đến đây, thưa ông. Giờ họ đang tìm cô y tá đó”.
Bishop cảm ơn anh ta vì đã ở đây. Viên thám tử vừa phải trải qua một khoảng thời gian kinh khủng mới liên lạc được với bên an ninh của bệnh viện để yêu cầu cử người đến phòng bệnh của Jennie. Phate đã phá hoại đường điện thoại của bệnh viện, còn sóng radio lại nhiễu đến mức ông thậm chí không nghe rõ đầu dây bên kia đang nói gì. Nhưng rõ ràng là thông điệp đã được tiếp nhận khá chuẩn xác. Bishop còn cảm thấy hài lòng hơn khi tay bảo vệ, không như phần lớn đồng nghiệp của anh ta ở bệnh viện này, anh ta có trang bị vũ khí.
“Chuyện này là sao, Frank?”, Jennie nhắc lại.
“Nhớ kẻ mà bọn anh đang theo không? Hắn biết em đang ở bệnh viện này. Bọn anh nghĩ có thể hắn đang quanh quẩn đâu đây.”
Linda Sanchez bước nhanh vào phòng. Tay bảo vệ nhìn thấy tấm thẻ cảnh sát đung đưa trên dây đeo cổ liền mời cô vào. Hai người phụ nữ có quen biết nhau nhưng nỗi lo lắng làm Jennie quên cả gật đầu chào.
“Frank, thế còn con của chúng ta thì sao?”, cô hỏi, giọng thổn thức. “Nhỡ thứ hắn tiêm cho em gây hại cho em bé thì sao?”
“Thế bác sỹ nói gì?”
“Ông ấy không biết!”
“Mọi chuyện sẽ ổn thôi, cưng à. Em sẽ không sao đâu.”
Bishop kể cho Linda Sanchez chuyện đã xảy ra. Người phụ nữ mập mạp ngồi xuống giường Jennie, cô cầm lấy tay bệnh nhân, ngả người về phía trước và nói bằng một giọng thân thiện nhưng chắc chắn, “Nhìn tôi này, cưng. Nhìn tôi đi…” Khi Jennie đã nhìn cô, Sanchez nói, “Giờ thì, chúng ta đang trong bệnh viện, đúng không nào?”.
Jennie gật đầu.
-Thế nên nếu kẻ nào đó làm việc không nên, họ có thể chữa cho cô ngay lập tức.” Những ngón tay màu nâu mập mạp của cô xoa cánh tay của Jennie đầy mạnh mẽ như thể cô vừa trở về nhà từ bão tuyết. “Mỗi mét vuông ở đây có nhiều bác sỹ hơn bất cứ nơi nào ở Thung lũng này. Đúng không? Nhìn tôi này. Tôi nói đúng không?”
Jennie lau nước mắt và gật đầu. Cô có vẻ nhẹ nhõm hơn một chút.
Bishop cũng vậy, ông cảm thấy vui vì cũng góp phần vào việc an ủi vợ. Nhưng chút khuây khỏa đó nhanh chóng nhường chỗ cho ý nghĩ rằng nếu vợ ông hoặc đứa bé bị bất kỳ tổn hại nào thì Shawn hay Phate sẽ không đời nào còn sống sót để vào tù.
Tony Mott bước vào, anh ta chưa phải là người mệt nhất cuộc chạy đua vội vàng. Không giống như Bob Shelton, ông ta đang thất thểu bước vào phòng, dựa vào khung cửa, thở hổn hển. Bishop nói, “Có vẻ Phate đã làm gì đó với đơn thuốc của Jennie. Giờ họ đang kiểm tra lại”.
“Lạy chúa”, Shelton lẩm bẩm. Lần này Bishop cảm thấy thoải mái khi Tony Mott đi hàng đầu vì anh ta có mang theo khẩu súng lục to bự mạ vàng bên hông. Giờ thì ông hiểu rằng không nên đi cùng quá nhiều đồng đội hay trang bị nhiều súng ống khi đối mặt với một kẻ như Phate.
Sanchez vẫn nắm tay an ủi Jennie, thì thầm miên man về việc trông cô ổn thế nào, thức ăn ở đây có thể tệ đến mức nào, rồi thì, trời ơi, cả tá chuyện trên trời dưới bể. Bishop thầm nghĩ con gái Sanchez thật may mắn vì có một người mẹ như cô – người chắc hẳn sẽ ngồi như thế này, ngay bên cạnh con gái khi nó cuối cùng cũng chuyển dạ sinh đứa con bướng bỉnh của mình.
Mott đã cẩn thận mang theo những bản sao bức ảnh của Holloway từ kỷ yếu của trường Massachusetts. Anh đã đưa chúng cho một số bảo vệ ở tầng dưới, giải thích với họ, rồi họ lại phân phát cho các nhân viên bệnh viện. Dù vậy, cho đến giờ chưa một ai nhìn thấy tên sát nhân.
Tay cảnh sát trẻ nói với Bishop, “Patricia Nolan và Miller đang ở trong phòng máy tính của bệnh viện để xem xét mức độ thiệt hại của vụ hack này”.
Bishop gật đầu rồi nói với Shelton và Mott, “Tôi muốn các anh…”.
Đột nhiên những ký hiệu trên màn hình máy tính treo trên tường nhảy loạn xạ, kèm theo một âm thanh lớn. Đường biểu đồ hiển thị nhịp tim của Jennie nhảy lên và xuống một cách hỗn loạn.
Một thông báo đỏ chói hiện lên trên màn hình.
CẢNH BÁO: LOẠN NHỊP TIM
Jennie thở dốc và ngước lên nhìn màn hình. Cô kêu thất thanh.
“Chúa ơi!”, Bishop gào lên rồi vồ lấy nút gọi nhân viên y tế khẩn cấp. Ông điên cuồng nhấn nút. Bob Shelton chạy ra ngoài hành lang và la lên, “Chúng tôi cần giúp đỡ ngay! Ở đây! Ngay bây giờ!”.
Rồi đột nhiên tất cả các đường trên màn hình biến thành một đường thẳng. Âm thanh cảnh báo chuyển thành một tiếng ré chói tai rồi một thông báo mới nổi bật trên màn hình.
CẢNH BÁO: TIM NGỪNG HOẠT ĐỘNG
“Anh ơi”, Jennie khóc nức nở. Bishop ôm lấy cô thật chặt, cảm thấy hoàn toàn bất lực. Mồ hôi túa ra trên gương mặt Jennie, toàn thân cô run rẩy, nhưng cô vẫn tỉnh táo. Linda Sanchez chạy ra cửa và gào lên, “Gọi bác sỹ chết tiệt nào đó đến đây ngay!”.
Ngay sau đó, bác sỹ Williston chạy vào phòng. Ông nhìn lên màn hình rồi lại nhìn bệnh nhân và với tay tắt máy.
“Hãy làm điều gì đi!”, Bishop gào lên.
Williston nghe lồng ngực cô rồi kiểm tra huyết áp. Rồi ông bước lùi lại và thông báo, “Cô ây ổn cả”.
“Ổn ư?”, Mott hỏi.
Sanchez nhìn ông bác sỹ như thể cô sắp tóm lấy rồi ném ông ta vào bệnh nhân. “Ông kiểm tra lại đi!”
“Cô ấy không làm sao cả”, ông bác sỹ nói với nữ cảnh sát.
“Nhưng trên màn hình.. “, Bishop lắp bắp.
“Sự cố”, bác sỹ giải thích. “Hệ thống máy chủ gặp vấn đề gì đó. Tất cả màn hình của tầng này đều bị như thế.”
Jenme nhắm mắt và ngả đầu xuống gối. Bishop ôm cô thật chặt.
“Còn mũi tiêm đó thì sao?” Vị bác sỹ tiếp tục nói, “Tôi đã kiểm tra lại. Không biết tại sao bộ phận dược trung tâm nhận được chỉ định yêu cầu tiêm vitamin cho cô. Chuyện là như vậy”.
“Một loại vitamin?”
Bishop rơi nước mắt vì trút được nỗi lo sợ.
Vị bác sỹ nói, “Nó chắc chắn không gây hại gì cho cô hay thai nhi cả”. Ông lắc đầu. “Thật kỳ lạ, chỉ định này được đưa ra dưới tên tôi và kẻ làm thế hẳn phải có mật khẩu phân quyền của tôi. Tôi giữ nó trong một file cá nhân ở máy tính của mình. Tôi không thể tưởng tượng làm sao mà có người lấy được nó.”
“Không thể tưởng tượng nổi”, Tony Mott nói, kèm theo một cái nhìn đầy ẩn ý về phía Bishop.
Một người đàn ông tầm năm mươi, đeo quân hàm bước vào phòng. Ông ta đóng bộ vét chỉnh tề. Ông tự giới thiệu mình là Les Allen. Ông phụ trách an ninh tại bệnh viện này. Hellman, tay bảo vệ trong phòng gật đầu chào Allen, nhưng không được đáp lại. Ông ta hỏi Bishop, “Có chuyện gì xảy ra ở đây thế Thám tử?”.
Bishop kể cho ông ta mọi chuyện xảy ra với vợ mình và các màn hình máy tính.
Allen nói, “Vậy nghĩa là hắn ta đã đột nhập vào máy chủ của chúng tôi… Tôi sẽ báo cáo với ban an ninh ngay hôm nay. Nhưng bây giờ thì chúng ta nên làm gì? Các anh nghĩ gã này đang ở đâu đó quanh đây?”.
“Ồ, phải, hắn đang ở đây.” Bishop khoát tay về phía màn hình tối đen trên đầu Jennie. “Hắn làm việc này để đánh lạc hướng, khiến chúng ta mải tập trung vào Jennie và khu vực này. Nghĩa là hắn đang nhắm vào một bệnh nhân khác.”
“Hoặc là nhiều bệnh nhân khác”, Bob Shelton nói.
Mott bổ sung thêm, “Hoặc là ai đó trong số những nhân viên”.
Bishop nói, “Kẻ tình nghi này thích thử thách. Nơi nào khó đột nhập nhất trong bệnh viện này?”.
Bác sỹ Williston và Les Allen thảo luận về việc này. “Ông nghĩ sao, bác sỹ? Khu phẫu thuật? Tất cả các phòng đều có cửa kiểm soát ra vào.”
“Tôi cũng đoán thế.”
“Thế khu đó ở đâu?”
“Trong một tòa nhà độc lập, từ đây đến đó phải qua một đường hầm.”
“Và nhiều bác sỹ cùng y tá ở đó đeo khẩu trang và mặc áo choàng, đúng không?”, Linda Sanchez hỏi.
“Phải.”
Nhờ vậy, Phate có thể tự do gieo rắc sự giết chóc. Rồi Bishop hỏi, “Hiện giờ có ca phẫu thuật nào không?”.
Bác sỹ Williston bật cười. “Có ca nào không à? Tôi phải nói là có khoảng hai mươi ca đang diễn ra” Ông quay sang Jennie. “Mười phút nữa tôi sẽ quay lại. Chúng tôi sẽ làm xong những xét nghiệm và cô có thể về nhà.” Ông rời khỏi phòng.
“Đi săn thôi”, Bishop nói với Mott, Sanchez và Shelton. Ông lại ôm chặt Jennie. Khi ông ra khỏi phòng, tay bảo vệ trẻ tuổi kéo ghế lại gần cạnh giường hơn. Khi họ đã ra đến hành lang, hắn đẩy cánh cửa đóng lại. Bishop nghe thấy tiếng chốt cửa.
Họ khẩn trương bước xuống sảnh, Mott vẫn để tay gần khẩu súng tự động của mình, dáo dác nhìn quanh, như thể đã sẵn sàng rút súng và bắn bất kì kẻ nào có chút gì giống với Phate.
Bishop cũng cảm thấy rất nôn nóng, ông biết rằng kẻ sát nhân là một con tắc kè hoa, với tài cải trang của mình, hắn có thể đi ngang qua họ ngay lúc này mà họ chẳng hề hay biết.
Khi bước vào thang máy, điều gì đó lóe lên trong đầu Bishop. Hoảng hốt, ông quay lại nhìn về phía cánh cửa đã chốt chặt ở phòng Jennie. Không kịp nói chi tiết kỹ năng social engineering của Phate, ông hỏi với Allen, “Rắc rối là ở chỗ chúng tôi không bao giờ có thể chắc chắn về diện mạo của hắn trong vụ tiếp theo. Tôi không để ý lắm tay bảo vệ trong phòng vợ tôi. Anh ta cũng cùng tầm tuổi và cỡ người với kẻ đó. Ông có chắc anh ta làm ở bộ phận của anh?”.
“Ai cơ? Dick Hellman à?”, Allen trả lời, khẽ gật đầu. “Ồ, điều tôi có thể khẳng định với anh là cậu ta là chồng của con gái tôi và tôi đã biết cậu ấy tám năm rồi. Theo hết nghĩa của từ “làm” trong câu hỏi của anh – nếu coi một ngày dài bốn tiếng đồng hồ trong một ca trực tám tiếng là “làm việc”, thì tôi cho rằng câu trả lời là có.”
o O o
Trong căng tin nhỏ ở CCU, đặc vụ Art Backle lục lọi trong vô vọng khắp tủ lạnh để tìm một ly sữa hoặc cà phê sữa. Kể từ khi Starbucks xuất hiện ở vùng Bay, Backle không hề uống bất kỳ loại cà phê nào khác và anh ta biết rằng thứ nước uống bốc mùi khê nồng ở đây luôn có vị kinh dị mà không thứ gì có thể gia giảm nổi. Hơi bực mình, anh ta trút một lượng lớn cà phê hòa tan vào cốc. Thứ chất lỏng chuyển thành màu xám.
Anh ta lấy một chiếc bánh vòng từ đĩa và ngoạm nó một cách đói khát. Mẹ kiếp.. Anh quăng cục cao su giả sang tận đầu kia căn phòng, và chợt nhận ra rằng rõ ràng là Gillette đã chơi khăm mình khi dụ anh ta đến đây. Anh thề là khi tay hacker bị tống lại vào tù, anh sẽ…
Tiếng động gì thế nhỉ?
Anh quay đầu ra phía cửa.
Nhưng ngay khi anh nhận ra đó là tiếng bước chân chạy, kẻ tấn công đã ở phía trên. Hắn giáng mạnh một đòn vào lưng người đặc vụ, ném anh vào tường và đâm mạnh một cú tưởng như thủng phổi.
Kẻ tấn công tắt hết đèn. Căn phòng không cửa sổ tối đen như mực. Rồi hắn tóm lấy cổ áo Backle và ném anh đập mặt xuống sàn nhà. Đầu anh đập uỵch xuống sàn bê tông.
Cố lấy hơi thở, tay đặc vụ lần tìm khẩu súng.
Nhưng kẻ khác đã nhanh tay hơn và tước mất nó.
o O o
Bạn muốn là ai?
Phate chầm chậm bước dọc hành lang chính của văn phòng CCU. Hắn mặc một bộ đồng phục cũ kĩ lấm lem của hãng Pacitic Gas & Electric và đội một chiếc mũ cứng. Giấu dưới bộ đồ là con dao Ka-bar và một khẩu súng trường tự động – khẩu GLock, cùng ba băng đạn. Hắn còn mang theo một thứ vũ khí nữa nhưng chẳng ai có thể nhận ra khi nó ở trong tay một thợ sửa chữa: Một chiếc cờ lê mỏ lết.
Bạn muốn là ai?
Ai đó mà tụi cớm ở đây không chút nghi ngờ, ai đó mà chúng sẽ không mảy may để mắt đến lần hai. Chính là kẻ đó.
Phate nhìn xung quanh, ngạc nhiên khi thấy CCU có hẳn một phòng máy chủ ngay trong trụ sở. Có phải ngẫu nhiên mà chúng thiết lập riêng một xưởng ở đây? Hay đây là chủ ý của lão già Andy Anderson đã chết?
Hắn dừng lại để định hướng rồi lại tiếp tục từ từ tiến đến một khoang làm việc nằm khuất sau khu điều khiển trung tâm trong im lặng. Hắn có thể nghe thấy tiếng gõ bàn phím như vũ bão vọng lại từ đó.
Lại một sự ngạc nhiên nữa khi CCU vắng vẻ thế này, hắn tưởng phải có ít nhất ba hoặc bốn mạng ở đây – lý do cho sự hiện diện của khẩu súng và băng đạn dự trữ, nhưng rõ ràng là bọn chúng đều đã đến bệnh viện, nơi bà Bishop có thể đang chịu chút tổn thương vì mũi tiêm vitamm B đầy dưỡng chất mà hắn đã chỉ định cho cô ta sáng nay.
Thực ra Phate đã cân nhắc đến việc giết cô ta, hắn có thể làm việc đó một cách dễ dàng bằng việc chỉ định cho phòng cấp thuốc cấp một lượng lớn insulin chẳng hạn. Nhưng thế chưa hẳn là chiến thuật tốt nhất trong bàn chơi này. Còn sống và gào thét trong cơn hoảng loạn, cô ta sẽ có giá trị hơn trong vai trò nghi binh. Nếu cô ta chết, cảnh sát sẽ kết luận cô ta là mục tiêu của hắn và quay lại nơi này ngay lập tức. Giờ thì bọn chúng hẳn đang chạy nhốn nháo khắp bệnh viện để tìm ra nạn nhân thực sự.
Thực ra, mục tiêu đó đang ở một nơi khác. Có điều kẻ đó không phải là bệnh nhân, cũng chẳng phải nhân viên của Trung tâm Y tế Stanford-Packard. Hắn đang ở ngay đây, tại CCU này.
Và tên của hắn là Wyatt Gillette.
Kẻ giờ đây chỉ còn cách Phate hơn sáu mét, trong khoang làm việc tối tăm ngay trước mắt hắn.
Phate nghe ngóng nhịp điệu bàn phím nhanh và mạnh đáng kinh ngạc của Valleyman. Tiếng gõ không ngừng nghỉ, như thể những ý tưởng tinh túy của hắn sẽ biến mất như làn khói nếu hắn không nhanh chóng đẩy chúng vào bộ xử lý trung tâm của máy tính.
Phate chầm chậm tiến gần nơi đó, tay nắm chặt chiếc cờ lê nặng trịch.
Trong những ngày hai gã trai trẻ cùng điều hành Knights of Access, Gillette thường nói rằng là hacker thì phải tinh thông nghệ thuật ứng tác.
Đó cũng là kỹ năng mà Phate luyện tập rất nhiều, và vì thế, hôm nay hắn đã ứng tác.
Phate đoán rằng khi Gillette đột nhập vào máy của hắn, khả năng rủi ro cao là Gillette đã phát hiện ra cuộc tấn cống vào bệnh viện. Vì vậy hắn đã thay đổi kế hoạch một chút. Thay vì giết vài bệnh nhân trong khu phẫu thuật như ý định ban đầu, hắn sẽ viếng thăm CCU.
Tất nhiên còn một khả năng là Gillette sẽ đi cùng đám cảnh sát đến bệnh viện, nên hắn đã gửi đi một file vô nghĩa được mã hóa, một tin nhắn tưởng như do Triple-X gửi, để đảm bảo giữ chân Gillette lại và tìm cách giải mã nó.
Trong suy nghĩ của hắn, đây quả là một bàn chơi hoàn hảo. Không chỉ vì đột nhập vào CCU là một thách thức thực sự đối với Phate – đáng giá hai mươi điểm, mà còn vì nếu thành công thì cuối cùng hắn cũng có cơ hội hủy hoại kẻ mà nhiều năm nay hắn vẫn truy lùng.
Hắn nhìn quanh một lần nữa, nghe ngóng. Tịnh không một bóng người trong căn phòng rộng lớn, ngoại trừ tên Judas phản bội Valleyman. Và việc bảo vệ ở đây lỏng lẻo hơn hắn tưởng nhiều. Tuy vậy, hắn cũng không hối tiếc khâu chuẩn bị cầu kì – bộ đồng phục PG&E, phiếu yêu cầu kiểm tra bảng mạch giả, tấm thẻ mỏng mà hắn đã tỉ mẩn làm bằng máy ID của mình, dụng cụ phá khóa ngốn kha khá thời gian. Khi mày đấu trò Access với một gã cao thủ, mày không thể bất cẩn, đặc biệt là khi hắn lại tình cờ đang ở trong nhà ngục của chính mình ở sở cảnh sát.
Giờ thì hắn chỉ còn cách kẻ thù của mình một khoảng tính bằng mét, kẻ mà Phate đã dành rất nhiều giờ vẽ vời trong trí tưởng tượng của mình cái chết của hắn.
Nhưng, không giống như trò Access nguyên bản, đâm vào trái tim đang đập thổn thức của nạn nhân, trong đầu Phate còn có một thứ khác dành cho Gillette:
Một cú đánh bằng cờ lê vào đầu sẽ làm tên Valleyman bất tỉnh, và rồi khi nắm lấy đầu mình, Phate sẽ tiếp tục công việc với con dao Ka-bar. Hắn có ý tưởng này từ tay hacker trẻ ở Học viện Thánh Francis, Jamie Turner. Trong một email gửi cho anh trai, nó đã viết:
Jamie: Anh này, anh có nghĩ ra điều gì khiến một hacker sợ hơn là bị mù không?
Không, Jamie, tao chắc là không nghĩ ra nổi đâu, Phate tự trả lời trong im lặng.
Hắn dừng lại bên cạnh khoang làm việc và cúi thấp người, lắng nghe tiếng lách cách đều đều của bàn phím. Hít một hơi thật sâu, hắn bước vào thật nhanh, vung chiếc cờ lê ra phía sau để có được lực đòn bẩy thật mạnh.