Bài Giảng Cuối Cùng
26. Họ đã làm tôi hàng hoàng
Những người quen biết thường nói tôi là một quái vật rất hiệu quả. Hiển nhiên, họ đã làm tôi tự hào. Tôi thường làm hai, hay ba việc có ích một lúc. Do vậy, khi thâm niên dạy học tăng lên, tôi bắt đầu suy nghĩ về câu hỏi: Nếu tôi có thể giúp sinh viên, từng người một, để họ vươn tới đạt được những ước mơ tuổi thơ của họ, thì liệu có cách nào để giúp nhiều sinh viên theo một quy mô lớn hơn không?
Tôi đã tìm thấy cái quy mô lớn hơn đó khi đến Carnegie Mellon vào năm 1997 trong tư cách phó giáo sư tin học. Chuyên ngành của tôi là “Tương tác Người- Máy” và tôi đã thiết kế một khóa học có tên “Xây dựng các thế giới ảo”, gọi tắt là BVW.
Ý tưởng nền tảng thực ra không khác mấy so với ý tưởng của Mickey Rooney[35]/Judy Garland[36] “Hãy dựng một vở diễn” chỉ có điều nó được cập nhật cho thời đại đồ họa vi tính, hoạt hình ba chiều và cái gọi là “các thế giới thực tế ảo tương tác.”
[35] Mickey Rooney (Sinh năm 1920): Diễn viên Mỹ từng nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm cả Oscar, Golden Globe oà Emmy Azoard. Ông được ghi trong sách lục là diễn viên có sự nghiệp sân khấu và diện ảnh lâu nhất.
[36] Judy Garland (1922 – 1969): Diễn viên và ca sĩ Mỹ. Bà đã nhận được các giải Oscar cho diễn viên trẻ, giải Golden Globe, Grammy Awards và Tony Award.
Tôi mở lớp cho năm mươi sinh viên từ tất cả các khoa khác nhau trong trường. Chúng tôi có sinh viên các ngành biểu diễn, văn học và điêu khắc cùng với sinh viên các ngành kỹ thuật, toán và tin học. Ðó là những sinh viên mà bình thường thì chẳng có nguyên cớ gì để gặp nhau, bởi các chuyên ngành ở Carnegie Mellon rất độc lập. Nhưng chúng tôi đã làm cho những thanh niên này trở thành cộng tác viên của nhau, buộc họ phải cùng nhau thực hiện những việc mà họ không thể làm một mình.
Mỗi nhóm có bốn người được chọn một cách ngẫu nhiên, và họ làm việc cùng nhau cho các đề án kéo dài hai tuần. Tôi chỉ nói với họ: “Hãy xây dựng một thế giới ảo.” Và họ sẽ lập trình một cái gì đó, sáng tác ra một cái gì đó, trình bày cho những người khác xem, và sau đó tôi tráo các nhóm, họ nhận ba cộng tác viên mới và lại bắt đầu từ đầu.
Tôi chỉ có hai nguyên tắc cho các thế giới thực tế ảo của họ: Không có bắn giết bạo lực và không có khiêu dâm. Tôi đưa ra quy định như vậy chủ yếu vì những thứ này đã được thực hiện trong các trò chơi máy tính tới cả tỷ lần, và tôi muốn trông đợi những ý tưởng nguyên tác hơn.
Bạn phải hết sức ngạc nhiên khi thấy các cậu bé mười chín tuổi hoàn toàn cạn kiệt ý tưởng, khi lấy tình dục và bạo lực ra khỏi danh sách các chủ đề. Và rồi, khi tôi yêu cầu họ hãy suy nghĩ vượt ra khỏi những thứ thông thường, hầu hết họ đã đáp ứng được với đòi hỏi. Thực tế, năm đầu tổ chức lớp học, khi các sinh viên trình diễn những đề án đầu tiên, họ đã làm tôi bàng hoàng. Những kết quả của họ đúng là đã vượt khỏi sức tưởng tượng của tôi. Tôi đặc biệt bị ấn tượng bởi họ phải lập trình trên những chiếc máy tính rất yếu theo các chuẩn mực về thực tế ảo của Hollywood, và họ đã cho ra những hạt ngọc lạ thường.
Lúc đó, tôi đã là giáo sư tới cả chục năm, và khi bắt đầu chương trình BVW, tôi chưa biết chính xác có thể trông đợi được những gì. Tôi giao đề án cho hai tuần đầu tiên, và những kết quả đã làm tôi choáng ngợp. Tôi không biết nên làm gì tiếp theo. Tôi như mất phương hướng nên đã gọi điện cho người tư vấn của tôi, Andy van Dam.
“Andy, tôi giao đề án hai tuần cho sinh viên và họ đã mang đến cho tôi những kết quả mà nếu đó là đề án cho cả một học kỳ, thì tôi vẫn sẽ cho họ toàn điểm A. Bây giờ tôi phải làm gì đây?”
Andy suy nghĩ một phút rồi nói: “Ðược. Ðây là thứ anh làm. Hãy trở lại lớp ngày mai, nhìn vào mắt họ và nói: ‘Các bạn, các kết quả khá tốt, nhưng tôi biết, các bạn có thể làm tốt hơn’.”
Câu trả lời của ông thật sự làm tôi sửng sốt. Nhưng tôi đã theo lời tư vấn của ông và đạt kết quả thật mỹ mãn. Ông đã nói cho tôi là hiển nhiên tôi chưa biết mức ngưỡng sẽ phải cao tới đâu, và tôi chỉ cần làm một việc chơi khăm là đặt nó ở bất kỳ vị trí nào.
Và sinh viên lại tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, truyền cảm hứng cho tôi với những sáng tạo của họ. Nhiều đề án phải nói là tài giỏi, thể hiện từ các cuộc phiêu lưu đi thuyền trên nước bạc, các chuyến đi thơ mộng xuyên Venice tới các ninja trượt patanh. Một số sinh viên của tôi đã sáng tạo ra những thế giới hoàn toàn không tưởng với những vật cảnh ba chiều rất đáng yêu mà họ từng mơ ước từ khi còn là những đứa trẻ thơ.
Ngày trình diễn kết quả, tôi đến lớp, thấy trong phòng có năm mươi sinh viên và năm mươi người khác nữa mà tôi chưa quen biết, đó là những người cùng phòng, bạn hoặc cha mẹ của họ. Trước đây, tôi chưa từng thấy cha mẹ của sinh viên tới lớp học bao giờ. Và rồi họ còn kéo theo nhiều người khác đến thêm nữa.
Vì có quá nhiều người tham dự, chúng tôi phải chuyển sang một giảng đường lớn hơn. Hơn bốn trăm người đứng xem, vui mừng cổ vũ cho các trình diễn thực tế ảo ưa thích của họ. Chủ tịch Carnegie Mellon, ông Jared Cohon, nói với tôi là buổi trình diễn giống như một cuộc diễu hành, chỉ có điều, nội dung ở đây là khoa học.
Vào ngày trình diễn, tôi luôn biết những đề án nào là tốt nhất. Tôi có thể căn cứ vàọ ngôn ngữ cử chỉ. Nếu các sinh viên của một nhóm nào đó đứng sát gần nhau, tôi biết họ gắn bó với nhau, và thế giới ảo họ phát triển sẽ là sản phẩm rất đáng để xem.
Ðiều tôi ưa thích trên hết là tinh thần đồng đội đã đóng vai trò trung tâm cho thành công của đề án. Những sinh viên này có thể đi xa được đến đâu? Tôi không rõ. Họ có thể hoàn tất được những ước mơ của họ hay không? Câu trả lời chắc chắn duy nhất tôi có cho câu hỏi đó là: “Trong lớp học này, bạn không thể làm việc một mình.”
—
Liệu có cách gì để nâng những việc chúng tôi đang làm lên một mức cao hơn không?
Giáo sư kịch nghệ Don Marinelli và tôi, với sự ủng hộ của nhà trường, đã làm nên điều kỳ diệu đó. Chúng tôi đã sáng lập cái gọi là “Trung tâm công nghệ Giải trí” (Viết tắt là ETC, trang web www.etc.cmu.edu), nhưng chúng tôi muốn nghĩ tới nó như một “nhà máy hoàn tất ước mơ”: một chương trình cao học, trong đó, các nghệ sĩ và các nhà công nghệ phối hợp để cùng làm ra các trò chơi cảm giác mạnh, trò chơi vi tính, các con thú, nhân vật hoạt hình biết chuyển động, và bất kể thứ gì mà họ có thể nghĩ ra được.
Những trường đại học ôn hòa sẽ không bao giờ tiếp cận những ý tưởng như vậy, nhưng Carnegie Mellon lại công khai cho phép chúng tôi quyền được phá bỏ khuôn mẫu chật hẹp cũ.
Hai chúng tôi đã cá nhân hóa sự kết hợp giữa nghệ thuật với công nghệ; kết hợp não phải với não trái, dân kịch nghệ với dân máy tính. Do Don và tôi khá khác biệt, ban đầu, chúng tôi đã là bức tường gạch của nhau. Nhưng chúng tôi luôn tìm được cách giúp công việc tiến triển. Kết quả, sinh viên thường nhận được những điều tốt nhất từ những cách tiếp cận phân kỳ của hai chúng tôi (và chắc chắn, họ có được tấm gương để biết phải làm việc như thế nào với người có khác biệt với họ). Sự kết hợp giữa tự do và tinh thần tập thể đã mang đến sự hào hứng bất ngờ. Các công ty nhanh chóng biết đến chúng tôi, và đưa ra những đề nghị bằng văn bản với ba năm cam kết sẽ thu nhận sinh viên của chúng tôi, điều đó có nghĩa là họ đã cam kết thu nhận cả những sinh viên mà chúng tôi chưa hề tuyển vào học.
Don đã làm 70% việc của Trung tâm Công nghệ Giải trí và xứng đáng với hơn cả 70% thành quả. Ông cũng mở một trường vệ tinh ở Úc, và có kế hoạch mở thêm các trường vệ tinh khác ở Hàn Quốc và Singapore.
Hàng trăm sinh viên, mà tôi sẽ không bao giờ quen biết, trên khắp thế giới, sẽ có điều kiện để hoàn tất các mơ ước tuổi thơ mãnh liệt của họ. Điều đó làm cho tôi cảm thấy vô cùng vui sướng.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.