Bí Mật Núi Sát Nhân

CHƯƠNG 26



Sau khi rời khỏi quầy bar, Alex Ford ăn tạm một chút đồ ở quán ăn gần đó. Anh chia sẻ vài lời về công việc với hai anh em đồng đạo thực thi luật pháp của mình và cũng tranh thủ tán gẫu một chút. Câu nói ưa thích của riêng Alex là, “Bằng mọi giá, hãy tránh tàu điện ngầm vào ngày lễ Halloween.” Điều Alex thực sự muốn làm là đứng hẳn lên quầy và gào tướng lên cho mọi người nghe là có một người phụ nữ xinh đẹp vừa mới mời anh đi chơi. Thay vào đó, anh lặng lẽ ăn nốt chiếc bánh mì nhân pho mát, với khoai tây chiên và một chiếc bánh nhân việt quất, đi kèm với cà phê đen. Sau đó, anh quay lại WFO để kiểm tra e-mail của mình.
Sykes vẫn chưa trả lời, mặc dù Alex đã nhận được một thông báo điện tử cho biết anh ta đã mở báo cáo gửi bằng e-mail của anh. Anh đi lang thang qua những hành lang của WFO, hy vọng tình cờ gặp được Sykes và hỏi xem anh ta nghĩ thế nào về cuộc điều tra. Alex đã viết cả hàng nghìn bản báo cáo, nhưng báo cáo này được gửi thẳng lên Sở chỉ huy, điều không thường xuyên lắm đối với dân lính đường phố như anh, những người không hề được quy hoạch và nâng đỡ để tiếp tục đi lên trên bậc thang lãnh đạo của cơ quan. Khi bạn biết rằng đôi mắt của Giám đốc đang sắp sửa lướt qua những nỗ lực yếu ớt của bạn nhằm đạt được bố cục chuẩn về mặt logic, thì ngần ấy cũng quá đủ để bạn dựng tóc gáy cảm thấy lo lắng.
Anh đi ngang qua bảng phân công nhiệm vụ và thấy ảnh của anh và của Simpson đã được đặt dưới mục “Nhiệm vụ Đặc biệt”. Ngắm nhìn người phụ nữ với làn da màu ôliu đang chăm chú nhìn anh từ trong ảnh, anh lẩm bẩm cái tên “J-Glo”. Có lẽ cô ta nên quay về Alabama cho xong chuyện. Ông bố cô ta hẳn sẽ rất hài lòng.
Anh giết thêm chút thời gian ở bàn làm việc của mình và quyết định rằng nếu Sykes thực sự muốn nói chuyện, anh ta sẽ đi tìm anh.
Ra ngoài vỉa hè, anh hít căng lồng ngực không khí ban đêm mát lạnh và mỉm cười khi nghĩ tới Kate Adams, rồi anh bước dọc trên phố với bước chân nhẹ lâng lâng vốn đã tưởng như biến mất từ lâu lắm rồi. Anh nghĩ đến việc đi thẳng về nhà, nhưng điều anh thực sự muốn làm là nói chuyện với ai đó. Tuy nhiên, tất cả những bạn bè thân thiết của anh đều là các nhân viên Mật vụ đã có gia đình, có nghĩa là nếu như không phải trực, thì giờ này họ đang dành chút thời gian quý giá bên gia đình mình. Trong khi Alex lại chẳng có mấy điểm chung với những tay lính trẻ ở WFO.
Điều đó khiến anh nhận ra rằng trong vòng ba năm ngắn ngủi sắp tới anh sẽ phải đưa ra những quyết định vô cùng quan trọng. Anh có nên nghỉ hưu không? Hay là anh nên chuyển sang một cơ quan khác, sống bằng khoản lương hưu từ Cơ quan Mật vụ và để dành khoản tiền lương của công việc mới? Cách này được gọi là xơi cả gốc lẫn ngọn. Đó là việc hoàn toàn hợp pháp, và nhiều nhân viên liên bang cũng đã làm như vậy để làm đầy thêm quỹ nghỉ hưu của mình. Đó là một cách để bù đắp lại mọi chuyện sau khi họ đã phải làm việc với đồng lương dưới giá thị trường trong lĩnh vực hành chính sự nghiệp.
Phần lớn quãng đời trưởng thành của Alex giống như một vệt mờ, học cách thích ứng với công việc ở Cơ quan Mật vụ, bắt giữ những kẻ xấu ở tám địa bàn khác nhau, rồi chuyển sang làm nhiệm vụ bảo vệ, nơi anh phải dành nhiều giờ không ngủ cho việc chuyển từ máy bay này sang máy bay khác, từ thành phố này sang thành phố khác, từ nước này sang nước khác. Anh luôn bận rộn lo lắng cho những người khác mà không bao giờ có thời gian để lo lắng cho mình. Và bây giờ khi đến lúc phải suy nghĩ về tương lai, Alex chợt cảm thấy hoàn toàn bất lực không biết phải làm thế nào. Anh phải bắt đầu từ đâu? Anh phải làm gì? Anh cảm thấy một nỗi hoảng sợ đang ập đến mà một ly martini khác nữa cũng không thể hóa giải.
Anh đang đứng lặng trên một góc phố để quyết định xem phải làm gì với quãng thời gian còn lại của cuộc đời mình thì điện thoại di động của anh đổ chuông. Thoạt đầu cái tên và số máy hiện ra trên màn hình hiển thị không gợi cho anh nhớ tới điều gì, nhưng rồi bất thình lình mọi việc quay trở lại. Đó là Anne Jeffries, người vợ chưa cưới của anh chàng Patrick Johnson xấu số.
“A lô?”
“Chả lẽ anh nghĩ là tôi không biết gì khi người đàn ông mà tôi sắp cưới, người đàn ông mà tôi định chia sẻ cả phần đời còn lại của mình là một tên trùm ma túy khốn kiếp!” Cô ta gào vào trong máy to đến nỗi anh phải đưa điện thoại xa khỏi tai.
“Cô Jeffries…”
“Tôi sẽ đi kiện. Tôi sẽ kiện cả FBI và cả Cơ quan Mật vụ. Và cả anh nữa. Và cả cái con ranh cộng sự của anh nữa!”
“Ôi chà, chờ chút đã nào. Tôi có thể hiểu là cô đang đau khổ…”
“Đau khổ ư? Đau khổ thậm chí còn không có trong thế giới cảm xúc của tôi lúc này. Việc Patrick bị giết hại còn chưa đủ hay sao mà các người còn định hủy hoại cả thanh danh của anh ấy nữa.”
“Cô Jeffries, tôi chỉ đang cố gắng làm tròn phận sự của mình thôi…”
“Đi mà nói những lời bao biện chết tiệt của anh với luật sư của tôi ấy,” cô ta quát giật giọng, và gác máy.
Alex cất điện thoại của mình và thở dài. Anh tự hỏi không biết tiếp theo người phụ nữ này sẽ gọi điện cho ai đây? Tờ Washington Post? Chương trình 60 phút? Tất cả những tay sếp mà anh có? Anh gọi vào số di động cá nhân của Jerry Sykes. Nó dẫn thẳng tới hộp thư thoại, nhưng Alex để lại một tin nhắn chi tiết về mẩu hội thoại ngắn ngủi nhưng bùng nổ giữa anh với vị hôn thê của kẻ đã chết. Được rồi, anh đã làm những gì có thể. Chắc chắn những chuyện bung bét cũng phải xảy ra thôi.
Anh không muốn về nhà lúc này. Anh muốn đi dạo. Và suy nghĩ.
Chuyến lang thang đưa anh, như mọi khi, đến Nhà Trắng. Anh gật đầu với nhân viên Mật vụ mặc sắc phục mà anh biết, rồi dừng lại và tán gẫu với một đặc vụ khác đang ngồi trong một chiếc Suburban màu đen nốc cà phê đen. Alex và anh chàng này đã bắt đầu sự nghiệp cùng nhau ở Văn phòng Địa bàn Louisville, mặc dù sau đó mỗi người đi theo một hướng.
POTUS đang tổ chức một bữa tiệc tối nhà nước đêm nay, bạn của Alex cho anh biết. Và sau đó là lên đường bắt đầu chiến dịch tranh cử ở miền Trung Tây ngày hôm sau, với một buổi lễ tưởng niệm ngày 11-9 ở thành phố New York diễn ra sau đó.
“Tôi thích thấy một vị Tổng thống luôn bận rộn,” Alex trả lời. Một số nhà lãnh đạo làm việc luôn chân luôn tay, trọn vẹn cả mười hai tiếng đồng hồ một ngày. Họ có thể thay những bộ vest khác để dự tiệc và chủ trì những buổi tiếp tân của Washington và rồi lại làm việc qua điện thoại ở phòng riêng của mình cho tới gần sáng. Một số Tổng thống khác thích nhởn nhơ cho hết ngày và lên giường rất sớm. Alex chưa từng bao giờ nghĩ rằng Tổng thống lại là một kiểu nghề “nhởn nhơ”.
Anh đi tiếp vào Công viên Lafayette và ngạc nhiên thấy có ánh sáng trong lều của Stone. Có lẽ cuối cùng thì anh cũng tìm được người mà anh thực sự có thể nói chuyện.
“Oliver?” anh khe khẽ gọi với vào, khi đứng sát căn lều được chiếu sáng.
Cửa lều mở ra, và trước mặt anh lúc này là một người đàn ông anh không nhận ra.
“Tôi xin lỗi,” Alex nói, “Tôi đang đi tìm…”
“Đặc vụ Ford,” Oliver Stone vừa nói vừa bước hẳn ra ngoài.
“Oliver? Là ông đấy sao?”
Stone mỉm cười và xoa xoa bộ mặt nhẵn nhụi của mình. “Thỉnh thoảng trong đời một người đàn ông cũng cần đến sự khởi đầu mới mẻ,” ông giải thích.
“Tối qua tôi cũng ghé qua tìm ông.”
“Adelphia có kể với tôi. Tôi nhớ những trận đấu cờ vua của chúng ta.”
“Tôi e là tôi không phải là đối thủ tương xứng với ông cho lắm.”
“Anh đang tiến bộ rất nhanh đấy thôi,” Stone khiêm tốn nói.
Dạo Alex còn làm nhiệm vụ bảo vệ Tổng thống, anh vẫn đến thăm Stone thường xuyên trong phạm vi lịch làm việc kín đặc của mình cho phép. Thoạt đầu là để kiểm tra những vấn đề nguy cơ tiềm ẩn gần Nhà Trắng. Hồi đó, Alex coi bất kỳ ai ở trong vòng một dặm vuông quanh Nhà Trắng mà không mang phù hiệu Cơ quan Mật vụ đều là kỳ thù, và Stone cũng không phải là ngoại lệ.
Điều thực sự khiến Alex thấy thích thú ở Oliver Stone là ở chỗ người đàn ông này dường như không hề có quá khứ. Alex có nghe đồn là Stone từng có thời gian làm việc cho chính phủ. Vì vậy Alex truy cập vào bất kỳ cơ sở dữ liệu nào anh có thể nghĩ ra để tìm hiểu lý lịch của người đàn ông này, nhưng đơn giản là chẳng có gì hết. Anh không tìm kiếm bằng từ khóa “Oliver Stone”, vì rõ ràng đó là một cái tên giả. Thay vào đó, anh lén lấy mẫu vân tay của Stone và cho kiểm tra qua AFIS, tức hệ thống xác định dấu vân tay tự động khổng lồ của FBI. Kết quả là vẫn không có gì hết. Sau đó anh kiểm tra qua ngân hàng dữ liệu của quân đội, các file máy tính của Cơ quan Mật vụ và tất cả những nơi khác anh có thể nghĩ được ra. Nhưng tất cả đều chẳng mang lại kết quả gì. Theo như tất cả những gì liên quan đến chính phủ của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Oliver Stone không hề tồn tại.
Đã có lần anh bám theo Stone về ngôi nhà nhỏ của ông ở nghĩa trang. Anh kiểm tra nhà thờ sở hữu ngôi nhà nhỏ đó nhưng họ nhất định không cho anh biết bất kỳ điều gì về người đàn ông này, và Alex cũng chẳng có lý do xác đáng nào buộc họ phải nói ra. Anh đã theo dõi Stone làm việc ở nghĩa trang một vài lần, và khi ông đi vắng, Alex đã tính đến việc kiểm tra ngôi nhà. Tuy nhiên có điều gì đó ở Stone, một vẻ tự trọng và lòng chân thành toát lên rất rõ, khiến Alex cuối cùng cũng quyết định từ bỏ ý định này.
“Hôm qua anh tới tìm tôi có chuyện gì thế?” Stone hỏi.
“Tình cờ đi qua thôi. Adelphia nói là ông đang đi họp.”
“Bà ấy cứ thích thêm thắt đấy mà. Tôi gặp vài người bạn ở khu The Mall. Chúng tôi thích đi dạo ở đó vào buổi tối.” Ông ngừng lại và nói tiếp. “Thế công việc của anh ở WFO dạo này thế nào?”
“Kể cũng thú vị khi lại được điều tra các vụ án.”
“Tôi nghe nói một nhân viên ở chỗ các anh vừa bị giết.”
Alex gật đầu. “Patrick Johnson. Anh ta làm việc ở Trung tâm Đánh giá Đe dọa Quốc gia. Thực ra giờ thì chỗ đó được sáp nhập vào NIC rồi, nhưng tôi có liên quan vì Johnson vẫn được coi là nhân viên biệt phái của chúng tôi.”
“Anh có liên quan?” Stone nói. “Ý anh là anh đang điều tra vụ này sao?”
Alex lưỡng lự. Thật ra cũng chẳng có lý do gì để không thừa nhận sự liên quan của anh cả. Đây không hẳn là vấn đề gì đó bí mật. “Tôi được phân công tìm hiểu sơ qua, nhưng vụ này có vẻ như được giải quyết xong rồi.”
“Tôi không nghe nói thế.”
“Họ đã tìm thấy heroin trong nhà của Johnson. Họ nghĩ chính những kẻ làm ăn cùng anh ta đã khử anh ta.” Anh không đả động gì đến cuộc gọi của Anne Jeffries. Đó không phải là điều có thể để công chúng biết.
“Vậy anh nghĩ sao?” Stone vừa hỏi, vừa chăm chú nhìn anh.
Alex nhún vai. “Ai mà biết được? Và thật ra chúng tôi cũng đang dựa hoàn toàn vào FBI.”
“Nhưng một người đã bị giết cơ mà.”
Alex nhìn người bạn của mình với ánh mắt dò hỏi. “Thì sao? Tôi biết rồi mà.”
“Qua nhiều năm nay tôi vẫn theo dõi anh, đặc vụ Ford. Anh có óc quan sát, mẫn cán, và anh có những bản năng nhanh nhạy. Tôi nghĩ anh nên sử dụng những năng khiếu đó trong vụ án này. Nếu công việc của người đàn ông đó nhạy cảm với an ninh của đất nước này, chắc chắn phải có một đôi mắt thứ hai nhòm vào.”
“Tôi đã xem xét các yếu tố rồi, Oliver. Nếu đó không phải là ma túy?”
“Chính xác. Nếu không phải là ma túy, thì sao đây? Tôi nghĩ ai đó nên trả lời câu hỏi đó thật cụ thể. Có lẽ câu trả lời liên quan đến công việc của anh ta. Căn cứ vào thực tế là việc giấu ma túy vào nhà anh ta là một cách dễ dàng để che đậy mọi việc.”
Alex tỏ vẻ nghi ngờ. “Điều đó rất khó có khả năng xảy ra. Và nói thật nhé, NIC là cả một thùng giòi lớn, mà tôi, còn ba năm nữa mới nghỉ hưu.”
“Ba năm không phải là quãng thời gian dài đến thế đâu, đặc vụ Ford; không thể nào dài bằng những năm tháng anh đã phục vụ đất nước này. Và thật không may, dù có công bằng hay không cũng vậy, đoạn kết trong sự nghiệp của một người mới là điều khiến mọi người nhớ tới anh ta.”
“Và nếu tôi có một bước sảy chân trong vụ này thôi, có thể tôi sẽ chẳng còn sự nghiệp nào nữa cả.”
“Nhưng điều quan trọng nhất phải nhận ra là ở chỗ: Đoạn kết sự nghiệp của một người là điều mà anh ghi nhớ nhất. Ngược lại anh sẽ có đến cả hàng thập kỷ để mà hối tiếc. Và đó mới là quãng thời gian dài đấy.”
Chia tay Stone, Alex chậm rãi quay về chỗ đậu xe của mình. Những gì ông già vừa nói nghe cũng có lý. Alex cũng nhận ra có những vấn đề không thực sự rõ ràng về cái chết của Patrick Johnson. Việc phát hiện ra ma túy có vẻ quá dễ dàng, và những chi tiết khác cũng không ăn khớp chút nào. Trong thực tế, anh cũng mới chỉ điều tra vụ án này một cách hời hợt, lúc nào cũng chỉ chăm chăm theo sự chỉ dẫn của FBI và những kết luận của cơ quan này.
Và Stone cũng nói đúng ở một khía cạnh khác. Alex đã ở lại Cơ quan Mật vụ sau vụ tai nạn vì anh không muốn ra đi với lý do thương tật. Bước hững hờ như người mộng du qua một vụ án nghiêm trọng cũng không phải là cách anh muốn khi ra khỏi sự nghiệp của mình. Có nhiều điều để nói về niềm tự hào nghề nghiệp. Và nếu những Tổng thống Mỹ không nên nhởn nhơ khi thực hiện trọng trách của họ, thì các nhân viên Mật vụ cũng lại càng không nên.
Oliver Stone nhìn Alex đi khuất khỏi tầm mắt rồi mới vội vàng rảo bước về ngôi nhà nhỏ của ông ở nghĩa trang. Ông dùng chiếc điện thoại di động Milton đưa cho để gọi Caleb và cho bạn mình biết về diễn biến mới nhất. “Đó là một dịp may cực lớn mà tôi không thể bỏ qua,” Stone giải thích.
“Nhưng cậu không hề nói gì về việc chúng ta chứng kiến vụ giết người đấy chứ?”
“Đặc vụ Ford là một nhân viên cảnh sát liên bang. Tôi mà nói với anh ta điều đó, nhiệm vụ của anh ta coi như đã xong xuôi rồi. Hy vọng lớn nhất của tôi là anh ta sẽ đào xới được điều gì đó ở NIC nằm ngoài khả năng của chúng ta.”
“Chẳng phải như vậy sẽ gây nguy hiểm cho anh ta sao? Ý tôi là nếu NIC đang thủ tiêu những nhân viên của chính mình, có khi họ sẽ không ngần ngại giết thêm một nhân viên Mật vụ.”
“Đặc vụ Ford là một người có năng lực. Nhưng chúng ta cũng sẽ phải hành động như những thiên thần hộ mệnh cho anh ta, đúng không?”
Stone tắt máy và chợt nhớ ra là chưa hề ăn chút gì cho bữa tối, ông đi vào bếp nấu một ít súp, rồi mang ra ăn ngay trước đống lửa nhỏ mà ông vừa nhóm. Những nghĩa trang dường như lúc nào cũng lạnh lẽo, bất kể mùa nào trong năm.
Sau đó, ông ngồi vào chiếc ghế bành cũ kỹ của mình bên cạnh lò sưởi với cuốn sách mà ông vẫn đọc từ bộ sưu tập được thu thập từ nhiều nguồn mà Caleb đã giúp ông tập hợp. Đó là tất cả những gì ông còn lại: bạn bè, những cuốn sách, mấy giả thuyết, một vài kỷ niệm.
Ông lại nhìn xuống chiếc hộp với cuốn album ảnh, và cho dù trong thâm tâm biết rõ ràng đó là một việc không hay, ông vẫn đặt cuốn sách xuống và dành cả tiếng đồng hồ tiếp theo thơ thẩn thả hồn vào quá khứ của mình. Stone lưu luyến không rời những bức ảnh mà ông có về con gái mình. Một bức chụp cô bé đang cầm bó hoa cúc, loài hoa yêu thích của cô bé. Ông mỉm cười khi nhớ lại cách cô bé phát âm loài hoa đó như thế nào: hoa cuuuúc. Một bức ảnh khác chụp cô bé đang thổi nến cắm trên một chiếc bánh. Hôm đó không phải là sinh nhật của con gái ông. Cô bé vừa phải khâu mấy mũi trên bàn tay sau khi ngã vào mấy mảnh kính vỡ, và chiếc bánh là phần thưởng cho cô bé vì đã tỏ ra vô cùng dũng cảm. Vết cắt đã để lại một vết sẹo có hình trăng lưỡi liềm trên lòng bàn tay phải của cô bé. Ông vẫn hôn vết sẹo đó mỗi lần ôm con gái vào lòng. Stone chỉ có ngần ấy ký ức ít ỏi về cô bé đến nỗi ông phải bấu víu đến tuyệt vọng vào từng ký ức một.
Cuối cùng tâm trí ông cũng lại quay về cái đêm cuối cùng đó. Ngôi nhà của họ được bố trí ở một nơi rất tách biệt; cấp trên của ông yêu cầu nhất định phải như vậy. Chỉ mãi đến sau khi xảy ra vụ tấn công Stone mới hiểu ra lý do của lời yêu cầu đó.
Ông nhớ tiếng cánh cửa rít lên khi nó được mở ra. Bị chia cắt khỏi con gái của mình, ông và vợ ông hầu như chỉ kịp nhào ra khỏi cửa sổ khi những phát súng tắc nghẹn bắt đầu vang lên. Stone vẫn có thể hình dung ra những ống giảm thanh gắn trên đầu nòng súng. Bụp – bụp – bụp. Chúng lao về phía ông như những con muỗi giết người. Và rồi vợ ông thét lên một tiếng, và tất cả thế là xong. Bà đã chết. Stone giết chết hai trong số những kẻ được cử đến giết hại ông đêm đó, ông dùng chính súng của chúng để chống lại chúng. Và sau đó ông trốn thoát đến một nơi an toàn.
Đêm đó là lần cuối cùng Stone nhìn thấy vợ và con gái mình. Ngày hôm sau cuộc sống tiếp tục như thể họ chưa bao giờ tồn tại. Ngôi nhà đã bị san bằng và tất cả những dấu vết của cuộc tấn công hèn hạ bị xóa sạch. Tất cả những nỗ lực tìm lại con gái của ông suốt bao nhiêu năm đều thất bại. Beth. Tên đầy đủ của cô bé là Elizabeth, nhưng họ vẫn luôn gọi cô bé là Beth. Đó là một cô bé cực kỳ đáng yêu và là niềm tự hào của ông. Và ông đã mất con gái mình mãi mãi trong cái đêm địa ngục đó cách đây hàng thập kỷ.
Khi tìm hiểu ra sự thật của những gì đã xảy ra, Stone hừng hực khát khao trả thù. Và rồi một chuyện xảy ra đã khiến ông phải suy nghĩ lại. Ông đọc trên báo về cái chết thê thảm của một người đàn ông, một nhân vật rất quan trọng, ở một đất nước xa xôi. Vụ ám sát không bao giờ được phanh phui. Người đàn ông để lại một người vợ và những đứa con. Stone nhận ra dấu vân tay của cấp trên cũ của ông khắp trong vụ giết người đó. Đó là một cảnh tượng mà bản thân Stone hiểu rõ hơn ai hết.
Chính khi đó ông chợt nhận ra rằng ông phải là người có quyền trả thù cho dù là vợ ông đã bị giết và con gái ông bị bắt đi. Tội lỗi trong quá khứ của ông quá nhiều, chồng chất cao dưới lớp vỏ mơ hồ là lòng yêu nước. Đối với Stone, nó hoàn toàn tước đi của ông tham vọng đòi lại công lý cho những gì khủng khiếp xảy ra với gia đình mình.
Ông biến mất và đi lang thang khắp thế giới dưới nhiều tên họ giả khác nhau. Mọi việc cũng tương đối dễ dàng; chính phủ của ông đã huấn luyện ông quá kỹ càng để làm như vậy. Sau rất nhiều năm lang thang ông quyết định dấn thân vào lựa chọn duy nhất còn lại cho mình. Ông trở thành Oliver Stone, một con người của sự nghiệp đấu tranh âm thầm, người theo dõi và chú ý tới những vấn đề quan trọng của nước Mỹ mà nhiều người khác dường như không mấy khi để tâm đến. Và dù vậy, tất cả vẫn chẳng đủ để làm nguôi ngoai nỗi đau mất đi hai con người mà ông yêu thương nhất trên đời. Đó sẽ là gánh nặng mà ông phải mang cho đến hơi thở cuối cùng.
Khi ông ngủ thiếp đi trong chiếc ghế bành trước ánh lửa đang lụi dần, những giọt nước mắt của ông vẫn còn lấp lánh trên những trang giấy bóng loáng của cuốn album.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.