Có vẻ như không có ai ở nhà,” Tyler Reinke vừa nói vừa quan sát mặt trước ngôi nhà của Milton từ chiếc xe đậu bên ngoài. Hắn liếc nhìn tập hồ sơ về Milton Farb. “Dọa đầu độc những chiếc kẹo nhân mềm của Tổng thống Reagan thì kể cũng điên thật,” Reinke chế giễu nói thêm. “Đó có thể là lý do tại sao chúng không lộ diện. Vì tiền sự của hắn.”
Peters nói, “Điều tôi muốn biết là, hắn làm gì trên đảo Roosevelt lúc nửa đêm như thế?”
“Theo tôi chúng ta nên chờ đợi thêm một chút rồi đi kiểm tra xem sao. Nếu hắn đang lẩn trốn, nhiều khả năng hắn sẽ để lại thứ gì đó ở nhà giúp chúng ta biết hắn đang ở đâu.”
“Trong thời gian đó tôi nghĩ chúng ta nên làm chuyến nữa tới Georgetown. Có thể có người đã nhìn thấy gì đó hữu ích trong đêm hôm ấy,” Peters nói.
“Và có lẽ cũng chẳng hại gì khi xem xét lại chiếc thuyền khi chúng ta ở đó,” Reinke nói thêm.
Thuyền trưởng Jack chỉnh lại chiếc mũ và gại gại một ngón tay vào bông hồng vàng đang thò ra khỏi ve áo, trong lúc hắn đang ngắm nghía bên trong cơ ngơi mới của mình. Đó là một ga-ra rộng thênh thang với ba khu làm việc rất rộng. Tuy nhiên, hiện tại cả chỗ này đều trống trơn ngoại trừ chiếc xe duy nhất đang được những “thợ cơ khí” của hắn chăm sóc. Admed, gã người Iran, quệt mồ hôi trên trán khi chui lên khỏi hố làm việc được khoét sâu dưới sàn của ga-ra.
“Mọi việc thế nào rồi?” Thuyền trưởng Jack hỏi.
“Chúng tôi đang bảo đảm tiến độ. Ông đã nói chuyện với người phụ nữ đó chưa?”
“Phần đó đã xong xuôi và sẵn sàng,” Thuyền trưởng Jack nói. “Và đừng hỏi nữa, Ahmed,” hắn vừa nói, vừa lạnh lùng nhìn tên kia. Gã người Iran gật đầu cộc lốc rồi lại lăng mình xuống hố làm việc. Một lát sau, những âm thanh chan chát của cờ lê vang vọng khắp không gian, và Thuyền trưởng Jack bước ra ngoài ánh sáng.
Ahmed chờ thêm vài phút nữa, rồi hắn lại thò ra khỏi hố, bước vội vàng tới bàn làm việc và lôi ra một con dao lưỡi dài từ một miếng giẻ đầy dầu mỡ mà hắn đã giấu dưới một số dụng cụ. Hắn đặt con dao xuống dưới một miếng thảm ở phía sau chiếc xe và kéo tấm thảm lại như cũ.
Bên ngoài, Thuyền trưởng Jack trèo vào trong chiếc Audi của hắn và lái tới căn hộ đối diện với Bệnh viện Mercy. Một tên người Afghanistan mở cửa cho hắn vào.
“Vũ khí được chuyển vào đây chưa?” Thuyền trưởng Jack hỏi.
“Đã tách rời chúng thành từng bộ phận và bỏ vào trong túi giấy đựng rau quả đúng như ông nói.”
“Hãy đưa tôi xem.”
Gã đàn ông dẫn hắn tới chiếc TV màn hình lớn được kê ở góc phòng. Hai người chung tay chuyển chiếc TV ra khỏi vị trí, và gã Afghanistan dùng một chiếc tuốc nơ vít để nạy tấm thảm lên, để lộ phần ván lót và sàn dưới. Tại đây phần sàn dưới đã được khoét bỏ và thay thế bằng gỗ dán. Dưới tấm gỗ dán Thuyền trưởng Jack có thể thấy những sợi dây thừng được buộc chặt vào rầm sàn nhà thành những đoạn dài sáu inch một. Nằm trên cùng của đống dây thừng là hai khẩu súng trường bắn tỉa được lắp ráp có trang bị kính ngắm cực mạnh.
“Tôi đã nghe nói đến những khẩu M-50 nhưng tôi chưa bao giờ sử dụng khẩu nào cả,” Thuyền trưởng Jack nói.
“Nó có thiết bị quang học kỹ thuật số nên không thể bị phát hiện theo cách thông thường; nó sử dụng loại đạn cỡ hai mươi mốt mi-li-mét có gắn kèm thiết bị cảm biến môi trường cùng với thiết bị tầm đa nhiệt.” Gã người Afghanistan quỳ xuống và chỉ vào một bộ phận trên khẩu súng. “Ngoài ra nó còn có một hệ thống chống giật rất hiện đại.”
“Tôi chưa bao giờ cần cái đó để hoàn thành công việc của mình.” Thuyền trưởng Jack điềm nhiên nói.
“Khẩu súng này còn được phủ một lớp ngụy trang Camoflex hiện đại giúp nó hòa lẫn vào môi trường xung quanh mà chỉ cần nhấn vào cái nút này. Nòng súng được tinh luyện bằng công nghệ nano và có thể bắn ra một viên đạn ở khoảng cách 1 nghìn mét với độ lệch chưa đến 0,00001 độ. Kể ra thì cũng quá kỳ công cho nhiệm vụ này, nhưng thế thì sao chứ. Chúng ta còn hai khẩu MP-5 với khoảng hai nghìn viên đạn.”
Khi mới bắt đầu sự nghiệp của mình Thuyền trưởng Jack từng mắc sai lầm không thể tha thứ khi tính thêm cả áp suất không khí sau khi đã thực hiện xong việc điều chỉnh độ cao, thông số thường do những nhà dự báo khí tượng đưa nhiên, các xạ thủ cần áp suất không khí thực tế không liên quan đến điều chỉnh độ cao. Đó là một sai lầm khủng khiếp vì không khí khí lạnh đặc quánh hơn không khí nóng, tốc độ của âm thanh cũng thấp hơn trong điều kiện không khí lạnh, đây là điều đặc biệt quan trọng khi đang sử dụng loại đạn siêu thanh. Sai lầm đó đã khiến viên đạn của hắn chỉ gây bị thương thay vì tiêu diệt mục tiêu, đó không phải là một kết quả có thể chấp nhận được khi người ta đang tìm cách ám sát một nguyên thủ quốc gia.
“Các anh đã giấu số vũ khí đó ở đâu rồi?” hắn hỏi.
Gã người Afghanistan đi vòng ra phía sau chiếc TV màn hình lớn và tháo tấm chắn sau ra. Xếp gọn gàng bên trong là hàng tá những băng đạn MP-5 đã nạp đầy đủ và những hộp đựng đạn MP-5. “Như ông thấy đấy, chúng tôi cũng không cần xem TV nhiều lắm,” gã người Afghanistan nói một cách không cần thiết.
“Vậy còn hai khẩu súng trường khác và đạn dược mà các anh sẽ sử dụng thì sao? Chúng mới là yếu tố quan trọng nhất đấy.”
“Chúng đang được giấu dưới một lát sàn nhà khác. Lúc nào cũng sẵn sàng sử dụng. Chúng tôi đã tập luyện hơn năm mươi giờ với chúng rồi. Đừng lo, chúng tôi sẽ không bắn trượt đâu.”
“Thời tiết có vẻ sẽ thuận lợi trong ngày đi săn, nhưng ở đây thì nó vẫn có thể thay đổi chỉ trong nháy mắt.”
Gã người Afghanistan nhún vai. “Bắn từ một cự ly như thế này thì có gì là khó khăn đâu. Tôi từng dễ dàng bắn trúng mục tiêu ở cự ly xa gấp ba thế này vào ban đêm trong điều kiện bị bắn trả.”
Thuyền trưởng Jack biết rằng đó hoàn toàn không phải là sự ngạo mạn thông thường, đây chính là một trong những lý do tại sao gã này lại ở đây ngay từ đầu.
“Nhưng từ trước đến nay anh cũng chưa bao giờ làm chuyện đó như kiểu này,” hắn nói. “Cự ly và hướng bay của đường đạn cũng hơi khác một chút.”
“Tin tôi đi, tôi biết chứ.”
Thuyền trưởng Jack vào nhà tắm và chăm chú nhìn hình ảnh ngụy trang của mình trong gương. Hắn cởi bỏ chiếc mũ và kiểm tra mái tóc dày lấm tấm điểm màu muối tiêu của mình cùng bộ ria mép và lớp râu quai nón ngắn cùng màu. Hắn gỡ bỏ cặp kính râm, và trong gương lúc này là đôi mắt xanh đang nhìn thẳng vào hắn. Một vết sẹo nhỏ ngự trị ở một bên cánh mũi, một cái mũi dài và to. Trong thực tế bộ râu quai nón và mái tóc là đồ giả. Thật ra hắn bị hói và đã cạo trọc đầu. Hắn có đôi mắt màu nâu và không có vết sẹo nào và mũi hắn cũng dài, nhưng mảnh.
Hắn đội chiếc mũ lên đầu và đeo kính vào như cũ. Trong đời mình hắn đã biến mất rất nhiều lần, đó là khi làm việc cho những người chủ khác, trong đó phải kể đến chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Những lần khác hắn hành động hoàn toàn dựa vào chính mình, vào kỹ năng giết người và hệ thần kinh thép luôn được trả giá cao nhất. Nhưng như hắn đã nói với Hemingway, lần biến mất sắp tới của hắn sẽ là lần cuối cùng.
Hắn lái xe ra khỏi thị trấn với địa điểm diễn ra buổi lễ, chỉ cách khu trung tâm có mười phút lái xe, tuy nhiên rất nhiều chuyện có thể xảy ra trong mười phút đó.
Thuyền trưởng Jack không dừng lại ở địa điểm tổ chức mà thay vào đó hắn chậm rãi lái xe qua, quan sát những vật chuẩn cụ thể mà từ lâu hắn đã nhớ rõ mồn một. Địa điểm diễn ra buổi lễ được bao quanh bằng hàng rào trang trại màu trắng với chỉ một lối vào duy nhất dành cho xe và rất nhiều lối cho người đi bộ. Những cột xếp bằng gạch cao gần hai mét bao quanh lối vào của xe, và cả đoàn xe hộ tống sẽ phải đi qua đó cả lúc vào lẫn lúc ra. Đối với con Quái vật thì chắc sẽ hơi chật một chút.
Hắn nheo mắt quan sát những hàng cây bao quanh, phỏng đoán những nơi mà các xạ thủ chống bắn tỉa Mỹ sẽ được bố trí quanh khu vực này. Sẽ có bao nhiêu người nhỉ? Một tá? Hai tá? Thời buổi này cũng khó mà biết được, ngay cả với thông tin tình báo tốt nhất. Những tay súng chống bắn tỉa sẽ bọc kín trong bộ đồ ngụy trang, trộn lẫn vào với môi trường xung quanh một cách hoàn hảo đến nỗi bạn sẽ giẫm lên họ trước khi kịp nhìn thấy họ. Đúng, người của hắn chắc chắn sẽ chết trên mảnh đất thiêng liêng này. Ít nhất đó cũng sẽ là một cái chết nhanh chóng và không đau đớn. Những viên đạn siêu thanh tầm xa, đặc biệt là vào đầu, giết người nhanh hơn cả khả năng ghi nhận của não bộ. Tuy nhiên, cái chết của người fedayeen có lẽ không được nhẹ nhàng như vậy.
Thuyền trưởng Jack hình dung ra cảnh đoàn xe hộ tống đi vào và Tổng thống từ Quái vật bước ra. Ông ta sẽ vẫy chào, bắt tay, vỗ vỗ vài cái lưng, ôm vài người và sau đó được hộ tống tới chiếc bục chống đạn và chống bom trong khi giai điệu của bản “Ngợi ca lãnh tụ” được cất lên.
Lý do bản nhạc này được sử dụng khi một Tổng thống Mỹ bước vào một căn phòng bắt nguồn từ ý tưởng của vợ Tổng thống James Polk. Bà này lấy làm phẫn nộ khi người chồng bé nhỏ và giản dị của mình hoàn toàn bị lờ đi mỗi khi bước vào đâu đó. Và thế là Sarah Polk ra lệnh phải tấu lên bản nhạc này bất cứ khi nào chồng bà bước vào một căn phòng. Từ đó về sau tất cả các Tổng thống đều tuân theo sự lãnh đạo của người phụ nữ hống hách này.
Tuy nhiên, nguồn gốc của chính bản nhạc thậm chí còn thú vị hơn, ít nhất là trong suy nghĩ của Thuyền trưởng Jack. Dựa theo lời trong bản trường ca The Lady of the Lake của Sir Walter Scott, bản nhạc nói về số phận bi thảm của một thủ lĩnh Scotland bị phản bội và sau đó bị chết dưới tay đại kình địch của mình, Vua James V. Điều thật trớ trêu là bản nhạc để chào đón sự xuất hiện của Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thực ra lại kể về vụ ám sát của một nguyên thủ quốc gia. Trong phần cuối cùng của Chương 5, bản trường ca tóm lại, theo quan điểm của Thuyền trưởng Jack, đó là một câu hỏi mà tất cả các chính trị gia tương lai đều phải suy nghĩ đến một cách nghiêm túc: “Ôi, ai sẽ muốn trở thành vua của các người đây?”
“Không phải mình,” hắn lầm bầm tự nhủ. “Không phải mình.”
Viên cựu binh Vệ binh Quốc gia ngồi ngay ngắn trên ghế và ngắm nghía bàn tay mới của mình trong khi hai gã đàn ông chăm chú nhìn ông ta.
“Giờ thì chúng tôi đã gắn xong chiếc túi, hãy bắt đầu tập luyện các chuyển động nhé,” tên kỹ sư nói.
Lão người Mỹ cử động bàn tay và cổ tay theo lời hướng dẫn, nhưng không có gì xảy ra.
“Cái này phải tập luyện nhiều. Ông sẽ sớm trở thành một chuyên gia thôi.”
Hai tiếng đồng hồ sau họ đã có được tiến bộ rất đáng kể. Khi nghỉ giải lao, những gã đàn ông ngồi xuống và nói chuyện. “Vậy là ông đã từng là tài xế xe tải?” gã dược sĩ hỏi.
Tay cựu binh gật đầu, và giơ chiếc móc sắt cùng bàn tay giả của ông ta lên. “Đó là một nghề mà các anh không thể làm được với những cái này bởi vì tôi còn phải giúp bốc hàng xuống nữa.”
“Ông đã ở Iraq được bao lâu trước khi chuyện này xảy ra?”
“Mười tám tháng. Tôi chỉ còn phải phục vụ thêm có bốn tháng nữa là được rút về, ít nhất thì đó cũng là điều tôi nghĩ. Và rồi chúng tôi nhận được lệnh kéo dài thời hạn phục vụ thêm hai mươi hai tháng nữa. Những bốn năm! Trước khi tất cả chuyện này xảy ra tôi từng kết hôn với một người và có một gia đình cùng công việc làm ăn riêng của mình tại Detroit. Điều tiếp theo tôi biết, là tôi đang phải gom góp từng đồng một để đi mua áo giáp chống đạn cho mình cùng thiết bị GPS vì Chú Sam không có tiền. Sau đó một quả mìn phát nổ ngay bên ngoài Mosul lấy đi cả hai tay của tôi và cả một mảng ngực. Bốn tháng ở Bệnh viện Walter Reed, và khi tôi trở về nhà vợ tôi đã quyết định ly dị, công việc thì không còn và cơ bản thì tôi thành người vô gia cư.” Ông ta ngừng lại và lắc đầu. “Tôi đã hoàn thành thời gian phục vụ của mình trong cuộc chiến Vùng Vịnh lần thứ nhất và phải nếm trải tất cả những thứ chết tiệt nhất mà Saddam tống cho chúng tôi. Sau khi giải ngũ khỏi quân đội tôi gia nhập Vệ binh Quốc gia để ít nhất cũng có chút ít thu nhập cho đến khi tôi có thể đứng trở lại trên đôi chân của mình. Tôi hoàn thành nhiệm vụ ở Vệ binh Quốc gia và sau đó từ chức và bắt đầu lái xe tải. Thế rồi sau ngần ấy năm quân đội lại gõ cửa nhà tôi và bảo tôi làm đơn xin ra khỏi Vệ binh Quốc gia, nơi tôi chưa bao giờ được chấp nhận ‘chính thức’. Tôi bảo với chúng một cách không được lịch sự cho lắm là quỷ tha ma bắt chúng đi. Nhưng chúng xách cổ lôi tôi đi đúng theo nghĩa đen mặc kệ tôi la hét và quẫy đạp. Rồi một năm rưỡi sau đó, ‘bùm’ một cái, thế là cả hai tay và cuộc đời tôi đi tong. Chính Tổ quốc của tôi đã làm như thế đối với tôi!”
“Giờ thì đến lượt ông đáp trả bọn chúng,” tên kỹ sư nói
“Đúng, đúng thế,” viên cựu binh Vệ binh Quốc gia vừa đồng tình vừa cử động bàn tay mới của mình.
Adnan al-Rimi sải bước dọc theo những hành lang của Bệnh viện Mercy. Gã thận trọng nhìn bao quát tất cả các chi tiết xung quanh. Một phút sau gã quay lại cổng vào phía trước của bệnh viện đúng lúc một bệnh nhân cao tuổi đang được đẩy vào trên xe lăn, dính vào cánh tay bà cụ là một cây truyền tĩnh mạch.
Adnan bước ra ngoài và hít bầu không khí ấm áp. Phía bên trái bậc thềm phía trước của bệnh viện là một đường dốc cho những bệnh nhân phải nhập viện bằng cáng hoặc xe lăn. al-Rimi bước xuống bậc thềm tới lối đi bộ phía trước bệnh viện. Có tất cả là mười bốn bậc. Gã quay người và bước ngược lên, vừa đi vừa thầm đếm trong đầu. Bảy giây ở tốc độ bình thường, có lẽ chỉ mất một nửa quãng thời gian đó nếu chạy.
Gã quay trở vào trong bệnh viện, bàn tay lần xuống khẩu súng của mình. Đó là một khẩu ổ quay 38 kiểu cổ, một thứ rác rưởi của Mỹ, đó là tất cả những gì gã quan tâm. Tuy nhiên đó cũng là thứ vũ khí duy nhất mà hãng an ninh nơi gã làm việc có thể trang bị cho nhân viên. Cũng chẳng trọng gì, gã biết, nhưng dù thế nào đi nữa vũ khí vẫn có ý nghĩa tối thượng đối với Adnan. Gã đã cần đến chúng hầu như trong suốt cuộc đời đơn giản chỉ để sống sót.
Gã quay trở về khu vực dành cho các y tá và dừng lại ở viên gạch lát thứ tư tính từ chính giữa của khu. Sau đó gã quay người và bước ngược lại lối ra vào phía trước. Bất kỳ ai đang quan sát lúc này chắc cũng chỉ nghĩ rằng gã đang đi kiểm tra an ninh như bình thường. Gã thầm đếm số bước chân trong đầu, gật đầu chào hai cô y tá đi qua trước mặt mình. Đến gần lối ra vào phía trước, gã rẽ phải, đếm bước của mình dọc theo hành lang, quay người, đẩy mở cánh cửa tới cầu thang dẫn ra ngoài, đếm bước của mình dọc theo hai dải cầu thang và nhận ra mình đang ở trong hành lang tầng hầm ở phía chái tây của tòa nhà bệnh viện. Hành lang này dẫn thẳng vào một hành lang khác đưa gã đi về phía Bắc và rồi đâm ra khu vực bên ngoài, Một lối đi cho xe rải asphalt được bố trí ở đoạn này dẫn theo triền dốc thoai thoải lên đường chính chạy phía sau bệnh viện. Do độ dốc và khả năng thoát nước kém, chỗ này thường xuyên bị ngập thậm chí chỉ cần sau một trận mưa xoàng, đây cũng là một trong những lý do khiến mọi người thích vào bệnh viện qua lối trước hơn.
Khi đứng tại đó, Adnan tưởng tượng rất nhiều lần trong đầu về một hành động cụ thể. Sau đó gã bước tới một cánh cửa đôi, mở khóa và bước vào bên trong và đóng cửa lại. Lúc này gã đang ở trong phòng điện của bệnh viện, đây cũng là nơi đặt máy phát điện dự phòng. Gã đã được hãng an ninh huấn luyện về những cơ chế hoạt động cơ bản của căn phòng này, trong trường hợp có tình huống khẩn cấp. Gã cũng đã bổ sung cho những kiến thức huấn luyện đó bằng cách đọc hướng dẫn sử dụng của từng thiết bị riêng lẻ trong căn phòng này. Nhưng chỉ có đúng một thứ mà gã thực sự quan tâm đến. Nó được gắn trên một bức tường đối diện với máy phát điện. Gã mở cái hộp ra bằng một chiếc chìa khóa khác trên dây đeo của mình và nghiên cứu bảng điều khiển bên trong. Kể ra thì việc điều chỉnh lại thiết bị này cũng không có gì là khó khăn cho lắm, gã tự nhủ.
Gã khóa phòng điện lại và bước quay trở vào bệnh viện để tiếp tục công việc đi tuần của mình. Ngày nào gã cũng sẽ làm như vậy, cho đến cái ngày đó.
Một lúc sau ca trực của Adnan kết thúc, gã cởi bỏ bộ đồng phục trong phòng thay đồ của bệnh viện, cưỡi chiếc xe đạp của mình về căn hộ cách đó hai dặm. Gã chuẩn bị một bữa ăn gồm bánh mì dẹt, chà là, đậu fava, quả ôliu và một mẩu thịt halal được gã nấu chín bằng chiếc lò vi sóng trong căn bếp bé xíu của mình.
Gia đình Adnan từng chăn nuôi gia súc và trồng chà là ở Saudi Arabia, một công việc không hề tầm thường ở đất nước chỉ có một phần trăm diện tích đất là có thể canh tác, nhưng họ đã phải chịu đựng những khó khăn khủng khiếp. Sau cái chết của người cha, gia đình al-Rimi chạy sang Iraq, tại đây họ trồng lúa mì và chăn nuôi dê. Adnan, với tư cách là con trai trưởng, trở thành người đứng đầu gia đình. Gã bắt đầu nghề giết mổ động vật theo đúng quy định của luật Hồi giáo để thịt đó trở thành halal, và những khoản tiền kiếm thêm từ công việc đó đã giúp đỡ cho gia đình rất nhiều.
Adnan ngồi trong căn hộ của mình đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ và xoay xoay một tách trà, hồi tưởng lại quãng thời gian đó. Cừu, dê, gà và các loại gia súc khác đã được hóa kiếp dưới mũi dao cực kỳ sắc nhọn của gã. Những con vật này phải được hóa kiếp bằng cách cắt tiết ở cổ trong khi Adnan gọi tên Chúa. Adnan không bao giờ đánh vào cột sống của con vật khi làm công việc giết mổ, vì hai lý do: như thế sẽ đỡ đau đớn hơn cho con vật, và nó cho phép con vật tiếp tục giãy chết, khiến cho việc thoát máu ra ngoài được nhanh gọn hơn. Theo luật Hồi giáo, không được để một con vật khác chứng kiến cái chết của đồng loại, và những con vật trước khi bị giết phải được ăn uống và nghỉ ngơi đầy đủ. Đó là điều hoàn toàn khác với trò giết mổ tập thể bằng phương pháp “gây choáng và nện gậy” thường được sử dụng ở các lò mổ của Mỹ. Đúng, người Mỹ quả là giỏi nhất trong việc giết rất nhiều thứ trong nháy mắt, Adnan thầm nghĩ.
Vừa nhấm nháp tách trà của mình, Adnan vừa tiếp tục hồi tưởng sâu hơn về quá khứ. Gã đã tham gia cuộc chiến tranh kéo dài cả thập kỷ giữa Iraq và Iran nơi mà người Hồi giáo thảm sát người Hồi giáo với quy mô hàng nghìn người trong những trận đánh giáp lá cà khốc liệt nhất mà lịch sử từng chứng kiến. Sau khi cuộc chiến đó kết thúc, cuộc sống của Adnan trở lại bình thường. Gã kết hôn, có gia đình riêng và cố hết sức để cho Saddam Hussein cùng tay chân của nhà độc tài đó không có lý do làm hại gã và gia đình.
Rồi vụ 11-9 xảy ra, Afghanistan bị xâm lược và chế độ Taliban nhanh chóng sụp đổ. Về mặt cá nhân, Adnan không hề bận tâm gì đến chuyện đó. Nước Mỹ đã bị tấn công và nó đã đáp trả. Adnan, giống như hầu hết người dân Iraq, không ủng hộ Taliban. Cuộc sống vẫn tiếp tục tại Iraq. Và ngay cả trong hoàn cảnh lệnh cấm vận quốc tế được duy trì đối với đất nước của gã thì Adnan vẫn có thể duy trì một cuộc sống khiêm tốn. Và rồi, nước Mỹ tuyên chiến với Iraq. Giống như tất cả những người đồng hương của mình, Adnan kinh hoàng chờ đợi cảnh những quả bom và tên lửa bắt đầu trút xuống. Gã đã gửi gia đình mình đến nơi an toàn, nhưng bản thân gã thì vẫn ở lại vì dù sao đây cũng là tổ quốc thứ hai của gã và lại sắp bị một nước khác tấn công.
Khi những chiếc máy bay Mỹ ập đến, Adnan kinh hoàng đến chết lặng trước cảnh thủ đô Baghdad trở thành một quả cầu lửa liền tục cháy rừng rực. Người Mỹ gọi đây là những thiệt hại phụ, nhưng trước mắt Adnan, những người đàn ông, đàn bà và trẻ nhỏ đã tan xác ngay trong ngôi nhà của họ. Và rồi những chiếc xe tăng cùng binh lính Mỹ đổ vào. Trong thâm tâm Adnan chưa bao giờ nghi ngờ về kết cục này. Đơn giản là người Mỹ quá mạnh. Họ có thể giết bạn từ khoảng cách hàng nghìn dặm bằng những vũ khí của mình. Tất cả những gì Adnan từng có để chiến đấu là súng, dao và hai bàn tay của mình. Và người ta bảo người Mỹ có những quả tên lửa được bắn lên từ nước Mỹ có thể làm bốc hơi toàn bộ khu vực Trung Đông sau vài phút. Điều đó khiến Adnan hoảng sợ. Không thể có cách nào chống lại một thế lực quỷ dữ đến thế.
Mặc dù vậy, sau khi Hussein bị lật đổ, gã cũng có đôi chút hy vọng. Nhưng niềm hy vọng đó nhanh chóng biến thành thất vọng khi bạo lực và chết chóc lan tràn và xã hội dân sự đơn giản đã vụt biến mất. Và khi sự hiện diệt của quân Mỹ thực sự trở thành một sự “chiếm đóng”, Adnan cảm thấy sứ mệnh của gã trở nên quá rõ ràng. Vì vậy gã đã chống lại họ, dù điều đó đồng nghĩa với việc nhiều khi phải giết ngay chính những người đồng hương của mình, hành động khiến gã thấy buồn nôn nhưng dù sao thì cuối cùng gã cũng dùng lý trí gạt bỏ được sang một bên. Gã từng giết những người Iran trong cuộc chiến giữa hai nước. Gã đã giết người Ả-rập và người Mỹ tại Iraq. Gã từng giết mổ súc vật bằng con dao của mình. Adnan có cảm giác như thể cả cuộc đời gã chỉ được dùng vào việc lấy đi mạng sống của những sinh vật khác.
Mà giờ đây mạng sống của chính gã là mạng sống duy nhất còn sót lại. Vợ và các con gã đều đã chết. Cha mẹ anh chị em của gã cũng chẳng còn một ai. Chỉ còn duy nhất Adnan trên cõi đời này trong khi cả gia đình gã ngự trị trên thiên đường.
Và gã đang ở đây, ngay chính giữa nước Mỹ, trong lòng kẻ thù. Đây sẽ là cuộc chiến đấu cuối cùng của gã, hành động cuối cùng của gã trong cả một cuộc đời toàn là tấn công và bị tấn công. Adnan thấy mệt mỏi; gã dường như đã sống cả tám mươi năm chỉ trong một nửa quãng thời gian đó. Thể xác và tinh thần của gã không thể chịu đựng thêm được nữa.
Gã uống nốt tách trà nhưng vẫn tiếp tục trân trân nhìn ra ngoài cửa sổ ngắm mấy đứa trẻ đang chạy dưới sân chơi của khu chung cư. Những đứa trẻ da đen, da trắng và cả da nâu đang chơi đùa cùng nhau. Ở tuổi đó, sự khác biệt về màu da và văn hóa chẳng có ý nghĩa gì đối với chúng. Tuy vậy, thật đáng tiếc, điều đó sẽ thay đổi khi chúng trở thành người lớn, Adnan biết. Bao giờ cũng vậy.