Bí Mật Núi Sát Nhân

CHƯƠNG 40



Reuben,” Stone gọi với lên khi đang ngồi thu lu trong thùng xe phụ. “Chúng ta vẫn còn chút thời gian. Chúng ta có thể dừng ở Nghĩa trang Arlington được không?”
Reuben ngước nhìn về phía nơi an nghỉ cuối cùng thiêng liêng nhất nước Mỹ dành cho những quân nhân và gật đầu.
Vài phút sau họ đã đi qua cổng dành cho khách tham quan và rảo bước qua Đài Tưởng niệm những Phụ nữ trong quân đội. Họ dừng lại một lát gần khu mộ của gia đình Kennedy, nơi thu hút du khách lớn nhất của Nghĩa trang Arlington, với cảnh đổi gác ở Mộ những Liệt sĩ Vô danh đứng ở hàng thứ hai.
Vừa định đi tiếp, Reuben chợt dừng lại và đăm đăm nhìn mảng cỏ xanh gần Nhà Arlington. Nơi đây từng có thời là nhà của tướng Robert E. Lee nhưng về sau bị chính phủ liên bang tịch thu sau khi Lee quyết định lãnh đạo lực lượng miền Nam chống lại Liên minh.
“Chẳng phải kia là nơi cậu đã tìm thấy tôi sao, khi tôi đang say mèm đến vỡ tung đầu ra?”
Stone nhìn về vị trí đó. “Chuyện đó đã lâu lắm rồi, Reuben. Cậu đã tự kéo mình ra khỏi trạng thái đó. Tự cậu đã đấu tranh chống lại lũ quỷ dữ của mình.”
“Tôi đã không thể nào làm được nếu không có cậu, Oliver.” Ông ngừng lại và nhìn quanh tất cả những hàng bia mộ trắng. “Hồi đó đúng là tôi đang suy sụp kinh khủng. Tôi đã mất nửa đại đội của mình từng chiến đấu ở Việt Nam vì chất độc da cam, sau đó quân đội lại nhất định phủ nhận trách nhiệm trong chuyện này. Và điều tương tự cũng xảy ra với Hội chứng Vùng Vịnh. Tôi chỉ muốn tới đây và gào thét, bắt người ta phải lắng nghe.”
“May mà cậu đã ngất đi sau khi làm như vậy. Hôm đó Bộ trưởng Quốc phòng cũng ở đây; mọi chuyện đã có thể trở nên tồi tệ.”
Reuben chằm chằm nhìn bạn mình với vẻ tò mò. “Cậu biết đấy, tôi chưa bao giờ hỏi hôm đó cậu đang làm gì ở nghĩa trang này.”
“Cũng giống như tất cả mọi người thôi, tôi tới đây để thể hiện lòng kính trọng của mình.”
Stone dừng lại ở một khu vực và thầm đếm những hàng bia mộ trắng cho đến khi ông bước tới một bia mộ ở gần giữa. Ông đứng đó, khoanh tay trước ngực, trong khi mặt trời đang lặn phía chân trời. Reuben kiểm tra đồng hồ của mình nhưng có vẻ không muốn làm gián đoạn cảm xúc của bạn.
Trạng thái cô độc của Stone cuối cùng cũng phá vỡ một nhóm người bước qua gần đó. Ông chăm chú nhìn theo họ bước về phía khu mở rộng mới nhất của Nghĩa trang Arlington và đây cũng là khu vực chưa được xây dựng xong. Đó là địa điểm xây dựng đài tưởng niệm vụ 11-9 với diện tích của nghĩa trang. Khu vực này bao gồm cả một công trình ghi tên những người đã chết tại Lầu Năm Góc, và một tượng đài tưởng niệm.
Stone sững người khi nhận ra người đang đứng giữa bức tường an ninh có vũ trang nghiêm mật. Reuben cũng liếc nhìn qua.
“Carter Gray,” Reuben thì thào.
“Ông ta tới đây viếng vợ ông ta, tôi đoán thế,” Stone khẽ khàng nói. “Trước khi đám đông đổ tới đây vào ngày mai.”
Carter Gray dừng lại ở ngôi mộ của vợ mình, Barbara. Ông ta quỳ xuống và đặt một bó hoa nhỏ lên mặt đất được khoét lõm. Danh chính ngôn thuận thì mai mới là ngày tưởng niệm vợ ông ta qua đời, nhưng đến ngày mai thì nghĩa trang sẽ đông kín người, và đúng như Stone suy luận Gray hoàn toàn không muốn chia sẻ nỗi tiếc thương của mình với một biển người xa lạ.
Gray đứng lên và đăm đăm nhìn xuống nơi yên nghỉ của vợ mình, trong khi đội quân bảo vệ của ông ta tôn trọng đứng cách xa một đoạn.
Barbara Gray đã về hưu khỏi quân đội với quân hàm thiếu tướng sau một sự nghiệp lẫy lừng mà trong đó bà đã đặt rất nhiều mốc đầu tiên cho những phụ nữ trong quân ngũ. Barbara Gray cũng từng là một trong những người đấu tranh mạnh mẽ nhất để các thành viên của WASP thời hậu Chiến tranh thế giới thứ hai, tức là những Nữ phi công của Không quân Mỹ, có quyền được mai táng tại Nghĩa trang Arlington với đầy đủ nghi thức quân đội, điều mà họ vẫn bị từ chối vì lực lượng này bị giải tán ngay sau chiến tranh. Tháng 6 năm 2002 một quy định mới đã cho phép một số nhóm quân sự của phụ nữ, bao gồm cả đội WASP, ít nhất cũng được mai táng với tang lễ ít nhiều hạn chế hơn, thay vì nghi thức quân đội đầy đủ. Đáng tiếc là Barbara Gray đã không còn sống để nhìn thấy điều đó.
Vào buổi sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001, Barbara Gray, một chuyên gia tư vấn dân sự, đang họp tại Lầu Năm Góc về một dự án với hai thành viên của quân đội thì chiếc máy bay của hãng American Airlines lao thẳng vào tòa nhà, phá hủy hoàn toàn căn phòng mà bà đang có mặt bên trong. Như một lời chú thích khủng khiếp cho bi kịch này, con gái của Gray, Maggie, một luật sư của chính phủ, cũng vừa mới đến Lầu Năm Góc để gặp mẹ mình. Cơ thể của cô hầu như bị thiêu cháy hoàn toàn trong vụ nổ đầu tiên.
Khi Carter Gray đăm đăm nhìn xuống nấm mộ của vợ mình, hình ảnh của buổi sáng hôm đó in sâu trong lòng ông ta. Và rồi tiếp sau đó là những cơn sóng tội lỗi, vì lẽ ra ông ta cũng đã có mặt trong tòa nhà hôm ấy. Lẽ ra Gray phải đến gặp vợ và con gái mình tại Lầu Năm Góc trước khi tất cả họ cùng lên đường thực hiện một kỳ nghỉ gia đình đã được lên kế hoạch từ lâu. Ông ta đã bị kẹt lại vì tắc đường và đến nơi muộn mất hơn hai mươi phút. Khi ông ta đến được Lầu Năm Góc, gia đình của ông ta đã không còn nữa.
Cuối cùng, khi ông ta rời mắt khỏi nấm mộ của vợ mình, Gray nhìn quanh và nhận ra hai người đàn ông đang chằm chằm nhìn về phía ông ta từ một khoảng khá xa. Ông ta không nhận ra người đàn ông to lớn, nhưng có điều gì đó rất quen thuộc ở người còn lại. Trong lúc ông ta ngước nhìn, hai người đàn ông kia quay người và bỏ đi. Gray nấn ná lại bên mộ vợ mình thêm mười phút nữa, và rồi, khi nỗi tò mò chiến thắng, ông ta bước đến chỗ hai người đàn ông kia đã đứng. Ông ta nhận ra khu vực mộ chí này rất quen thuộc. Ông ta bắt đầu chăm chú nhìn những bia mộ, ánh mắt của ông ta lướt nhanh qua những hàng bia đá ngay ngắn, cho đến dừng lại ở một tấm bia.
Một lát sau, cả đội ngũ nhân viên an ninh hộc tốc đuổi theo Gray khi ông ta lao vội ra đường chính. Khi chạy gần ra đến cổng ngoài, ông ta dừng lại và cúi gập người xuống, thở hổn hển cố hít lấy từng ngụm không khí trong khi đội an ninh của ông ta quây tròn quanh ông ta, hỏi han xem ông ta có ổn không. Ông ta không trả lời họ. Thậm chí ông ta còn không nghe thấy họ nói gì.
Cái tên trên tấm bia mộ vốn đã khiến ông ta phải choáng váng giờ đây đang xoay vòng vòng trong tâm trí ông ta. Hoàn toàn không có cái xác nào trong chiếc quan tài nằm dưới tấm bia mộ đó, điều này thì Gray biết quá rõ. Tất cả chỉ là một trò ngụy trang, một phần của kế hoạch che đậy. Nhưng cái tên trên tấm bia mộ thì không hề giả. Đó là tên của một con người thật sự, người mà mọi người vẫn tưởng đã hy sinh để bảo vệ tổ quốc của mình.
“John Carr,” Gray buột miệng nói ra cái tên đó, một cái tên mà ông ta không nhắc đến từ hàng thập kỷ nay.
John Carr. Sát thủ ghê gớm nhất mà Carter Gray từng biết.
Nhà hàng Nathan’s chưa đông đúc lắm. Alex Ford cùng với Kate Adams tìm được chỗ ngồi ở một chiếc bàn kê trong góc gần quầy bar và gọi chút đồ uống.
“Lucky đúng là một khẩu súng lục,” Alex nói. “Làm thế nào em lại biết bà ấy?”
“Trước khi làm ở Bộ Tư pháp, em làm việc ở một văn phòng luật tư nhân. Em đã giải quyết những thủ tục ủy thác và tài sản khi chồng bà ấy qua đời. Bọn em trở thành bạn vong niên, và cuối cùng bà ấy mời em tới sống cùng với bà ấy. Ban đầu em từ chối, nhưng bà ấy cứ đề nghị mãi, và trong khi đó thì ‘Ngài Thích hợp’ vẫn chẳng thấy xuất hiện trước cửa nhà em. Em trả tiền thuê căn nhà ngang,” cô vội vã nói thêm. “Lucky là một người rất thú vị. Bà ấy là mẫu người đã từng đi khắp mọi nơi, biết tất cả mọi người. Nhưng bà ấy cũng rất cô đơn. Tuổi già có vẻ không thích hợp với một người như bà ấy. Bà ấy thật sống động, và bà ấy muốn làm tất cả những gì bà ấy vẫn làm trước kia; nhưng thực sự thì không thể nào như thế được nữa.”
“Theo những gì anh thấy thì bà ấy hoàn thành rất tốt việc cố gắng đấy chứ,” anh trả lời. “Vậy tại sao em lại quyết định nhảy sang làm việc cho chính phủ?”
“Cũng chẳng có gì là to tát cả. Em chán ngấy với công việc cứ diễn ra đều đều, buồn tẻ. Và chúng ta sẽ không bao giờ có thể thay đổi thế giới nếu cứ làm mãi nghề luật trong lĩnh vực quỹ ủy thác và tài sản.”
“Vậy em làm gì ở Bộ Tư pháp để có thể thay đổi thế giới?”
“Thật ra em đang làm những công việc rất mới mẻ. Sau vụ Gitmo Bay và việc đối xử với tù binh chiến tranh ở nhà tù Abu Ghraib, vụ Salt Pit và những nơi khác nữa, Bộ Tư pháp đã thành lập một nhóm mới nhằm thực thi những quyền dân sự của các tù nhân bị xem là tù nhân chính trị hoặc các tay súng nước ngoài, và cũng là để điều tra bất kỳ tội ác nào nhằm vào những đối tượng này.”
“Hừm, qua những gì anh đọc trên báo thì chắc em phải bận rộn lắm nhỉ.”
“Về cơ bản thì nước Mỹ được biết là rất tuyệt vời trong việc đối xử với tù binh chiến tranh và những kẻ bị coi là những tay súng nước ngoài, nhưng cuộc chiến chống khủng bố này càng kéo dài bao nhiêu, thì người của chúng ta càng dễ bị tha hóa theo phía bên kia bấy nhiêu. Rốt cuộc thì họ cũng chỉ là con người, và họ có thể hình thành nên quan điểm rằng kẻ đang ngồi đối diện với họ là một người hoàn toàn không xứng đáng có bất kỳ chút quyền lợi nào.”
“Nhưng đó đâu phải là lý do biện minh cho việc họ vi phạm luật pháp.”
“Không, tất nhiên rồi. Và đó chính là lý do tại sao lại có việc cho những người như em. Em đã tới nhiều khu vực chiến sự, sáu lần liền trong vòng hai năm qua. Đáng tiếc tình hình chẳng có gì là tiến triển cả.”
“Có vẻ như Carter Gray đã bắt đầu phản đòn một cách hiệu quả đấy chứ.”
Kate ngồi ngả ra sau và nhấm nháp ly rượu vang đỏ cô đã gọi. “Em có những cảm xúc lẫn lộn về điều đó. Về mặt cá nhân em thông cảm với ông ta và những mất mát của ông ta trong vụ 11-9. Em nghĩ đó là lý do duy nhất ông ta quay lại làm việc cho khối chính phủ. Nhưng em không tin rằng đó là một việc làm tốt đẹp.”
“Ý em là gì?” Alex hỏi.
“Em biết là ông ta đã đạt được những kết quả khác thường. Em tự hỏi không biết ông ta có sử dụng đến những thủ đoạn khác thường để đạt được chúng hay không. Ví dụ, bọn em có những vấn đề thực sự về việc dẫn giải tù nhân đến nơi khác.”
“Anh cũng nghe nói đó thực sự là một trò đá bóng chính trị.”
“Kể ra cũng chẳng có gì là lạ căn cứ vào cách thức và thủ tục làm việc. Những nghi can khủng bố được chuyển từ Mỹ đến các nước khác hoặc ngược lại mà không hề có bất kỳ quá trình tố tụng nào hay những việc như tiếp xúc với Hội Chữ thập đỏ Quốc tế. Khi chúng ta chuyển tù nhân sang các nước khác, trước hết phải có sự bảo đảm bằng lời từ nước tiếp nhận rằng những tù nhân bị chuyển đến sẽ không phải chịu hình thức tra tấn. Chà, vấn đề là không có cách nào để xác định liệu việc tra tấn có xảy ra không. Và quan trọng nhất là, vì những hình thức tra tấn như vậy là bất hợp pháp tại Mỹ, một số người cho rằng NIC và CIA đang dính dáng đến việc dẫn giải tù nhân sang các nước khác nơi mà tra tấn có thể được sử dụng như một công cụ để moi ra những thông tin hữu ích. Họ thậm chí còn bố trí để nước tiếp nhận bịa ra những lời buộc tội vu cáo nhằm vào một nghi can khiến cho anh ta bị tống vào tù, bị thẩm vấn và thường là tra tấn. Điều đó đi ngược lại tất cả những gì mà nước Mỹ đại diện.”
“Hừm, sau khi được tận mắt nhìn cái nơi đó, anh tin rằng NIC hoàn toàn có khả năng làm bất kỳ điều gì.”
“Vậy em đoán là vụ điều tra của anh về cái chết của người đàn ông không tiến triển thuận lợi cho lắm?”
Alex lưỡng lự và rồi quyết định là cũng chẳng hại gì khi nói thật với cô. Anh kể cho cô nghe về cuộc “tán gẫu” không hề dễ chịu với Giám đốc Cơ quan Mật vụ và về việc bị tống trở lại làm công việc bảo vệ.
“Em rất tiếc, Alex.” Cô vươn người và chạm vào tay anh.
“Chà, anh tự gây ra chuyện đó cho mình mà. Gray là kẻ tai to mặt lớn, và anh lại bị chính cộng sự của mình phản bội. Anh nghĩ mình thua cũng đúng thôi.” Anh nhấp một ngụm cocktail. “Những ly martini của em ngon hơn nhiều,” anh nói và mỉm cười.
Cô chạm cốc của mình vào cốc của anh. “Em biết là em thích anh mà.”
Mặt anh bỗng trở nên nghiêm nghị. “Lẽ ra anh phải trung thành với kế hoạch ban đầu của mình: chỉ còn ba năm nữa là kết thúc thời hạn hai mươi năm, lẽ ra phải đặt chế độ chạy từ từ và đừng có đâm vào đá.”
“Em không hề nghĩ anh là kiểu người thích chạy ‘từ từ’,” Kate trả lời.
Anh nhún vai. “Nghe này, chúng ta hãy gác chuyện công việc sang một bên. Hãy kể cho anh nghe thêm về em đi. Những cuộc hẹn hò đầu tiên là phải thế chứ.”
Cô ngồi ngả ra sau và nhón một mẩu bánh mì trước mặt mình. “À, em là con một. Bố mẹ em sống ở Colorado. Chắc chắn người ta sẽ kể cho anh là gia đình em có gốc gác từ dòng họ Adams ở Massachusetts, nhưng em không chắc là em tin lời họ. Giấc mơ của em là trở thành một vận động viên thể dục. Và em tập luyện miệt mài vì mục tiêu đó. Thế rồi em cao thêm sáu inch trong vòng một năm và thế là giấc mơ đó đi tong. Ngay sau khi học xong trung học em muốn trở thành một người chia bài ở Vegas. Đừng hỏi tại sao, đơn giản là tự nhiên em muốn vậy. Em tham gia vào một khóa học, tốt nghiệp với kết quả mỹ mãn và lên đường tới Thành phố Tội lỗi. Nhưng công việc này không kéo dài được lâu. Em có chút trục trặc nhỏ với những con bạc say khướt, những kẻ có thể bóp mông em bất kỳ lúc nào họ muốn. Sau khi vài người trong số họ mất răng, sòng bạc đề nghị em nên quay về phía Đông. Khi bắt đầu học đại học, em quyết định làm nghề phục vụ quầy bar để lấy tiền trang trải, và rồi em tiếp tục công việc rót rượu khi vào học trường luật. Ít nhất công việc này cũng con có lớp gỗ dày giữa mình và những con quỷ dâm dật. Và đúng như anh đã đoán ra, em còn chơi cả piano nữa. Em kiếm thêm tiền từ nghề dạy piano để trang trải cho việc học. Hiện tại thì em không cần phải tiếp tục làm nghề pha rượu, nhưng thật sự là em thích làm. Đó là một cách xả hơi đối với em và thường thì ở LEAP bar người ta có thể gặp nhiều người thú vị.”
“Vận động viên thể dục, nhân viên chia bài, người pha rượu, người chơi piano, bảo vệ sự thật và công lý. Thật sự là ấn tượng đấy.”
“Nhiều lúc em nghĩ như thế phải gọi là bất thường hơn là ấn tượng. Còn anh thì sao?”
“Chẳng có gì thú vị cả. Anh lớn lên ở Ohio. Là con út trong gia đình bốn người con và là con trai duy nhất. Bố anh là một người kinh doanh phụ tùng ô tô vào ban ngày, nhưng đến đêm ông lại trở thành phiên bản thứ hai của Johnny Cash.”
“Thật sao?”
“À, dù sao thì đó cũng là những gì ông muốn. Anh nghĩ ông có bộ sưu tập lớn nhất những thứ liên quan đến Cash bên ngoài Nashville. Ông bao giờ cũng diện đồ đen, chơi một cây ghi-ta thường kỳ quặc và luôn luôn đốt thuốc. Anh đã học ghi-ta để có thể chơi cùng với ông. Hai bố con còn thậm chí cùng ra ngoài đường, chơi ở một vài quán ăn nhỏ nổi tiếng nhất ở Thung lũng Ohio. Thật ra hai bố con anh chơi không xuất sắc lắm, nhưng cũng không đến nỗi tệ. Đó là một quãng thời gian hạnh phúc. Thế rồi thói quen bốn-bao-mỗi-ngày đã đánh gục ông. Bệnh ung thư phổi cướp ông đi chỉ sau sáu tháng. Mẹ anh sống trong một làng hưu trí ở Florida. Các chị gái của anh sống rải rác trên khắp cả nước.”
“Vậy điều gì đã khiến anh muốn trở thành một tấm lá chắn sống?”
Alex uống một ngụm cocktail và vẻ mặt anh bỗng trở nên buồn bã. “Anh đã xem đoạn phim Zapruder về vụ ám sát Kennedy năm anh mười hai tuổi. Anh nhớ là đã nghĩ rằng một chuyện như vậy không bao giờ được phép xảy ra lần nữa. Anh sẽ không bao giờ quên hình ảnh đặc vụ Clint Hill nhảy lên chiếc limousine đẩy Phu nhân Kennedy trở về ghế của bà. Rất nhiều người khi đó đã nghĩ bà là một phần của âm mưu ám sát Tổng thống, hoặc không thì cũng lên án bà vì họ nghĩ bà đã tìm cách tránh để máu dính vào người, ngay cả khi đó là máu của chồng mình. Nhưng thật ra những gì bà làm lúc đó là cố gắng nhặt lại mảnh đầu của chồng mình bị bắn văng ra.”
Anh uống nốt cốc của mình trước khi tiếp tục. “Anh đã gặp Clint Hill tại một buổi họp mặt của Cơ quan Mật vụ. Lúc đó ông ấy đã là một ông già. Tất cả mọi người đều muốn bắt tay ông ấy. Anh bảo với ông ấy sẵn sàng rằng anh rất vinh dự được gặp ông ấy. Ông ấy là người duy nhất kịp phản ứng khi mọi chuyện diễn ra. Ông ấy đã giúp Phu nhân Kennedy, và ông ấy chèn người mình vào giữa bà và kẻ đang nổ súng vào họ. Anh bảo ông ấy là trong trường hợp xảy ra tình huống đó, anh hy vọng anh sẽ làm tốt như ông ấy đã làm. Em có biết ông ấy đã nói gì với anh không?”
Anh ngước lên và nhận ra ánh mắt của cô đang dán chặt vào anh; Kate Adams dường như đang nín thở. “Ông ấy đã nói gì vậy?” cô thúc giục.
“Ông ấy nói, ‘Con trai, cậu sẽ không muốn giống ta đâu. Vì ta đã đánh mất Tổng thống của mình’.”
Tiếp theo đó là một khoảng im lặng kéo dài và cuối cùng Alex lên tiếng. “Anh không thể tin nổi là anh lại đang ngồi đây kể lể câu chuyện nặng nề đó. Thực ra thì anh không phải như thế đâu.”
“Em lấy làm ngạc nhiên là sau những gì anh vừa trải qua anh vẫn không hủy buổi tối nay.”
“Kate, thật ra ý nghĩ được ra ngoài với em tối nay là điều duy nhất giúp anh vượt qua được ngày hôm nay.”
Alex không giấu nổi vẻ ngỡ ngàng vì sự thành thật trong chính lời nói của mình và vội vàng cụp mắt xuống, chăm chú săm soi vỏ ngoài của quả ôliu còn sót lại trong ly martini của mình.
Kate vươn người sang và chạm vào tay anh. “Em sẽ còn làm anh xấu hổ hơn,” cô nói, “khi nói với anh rằng đó là điều dễ thương nhất mà em được nghe.”
Câu chuyện chuyển sang những chủ đề vô thưởng vô phạt hơn, và thời gian cứ thế trôi nhanh. Khi họ đứng dậy ra về, Alex rủa thầm trong hơi thở của mình.
Đang đi qua ngưỡng cửa là Thượng nghị sĩ và Phu nhân Roger Simpson cùng con gái họ, Jackie.
Alex tìm cách lảng tránh nhưng Jackie đã nhận ra anh.
“Chào anh, Alex,” cô nói.
“Đặc vụ Simpson,” Alex trả lời cộc lốc.
“Đây là bố mẹ tôi.”
Roger Simpson và vợ ông ta trông như một cặp sinh đôi: rất cao lớn, với mái tóc sáng màu. Họ đứng lừng lững bên cô con gái nhỏ nhắn, tóc đen của mình.
“Thượng nghị sĩ, thưa bà Simpson,” Alex vừa chào, vừa gật đầu với cả hai người. Roger Simpson trừng trừng nhìn anh với vẻ đe dọa đến nỗi Alex hoàn toàn tin chắc rằng Jackie đã kể với ông ta về toàn bộ câu chuyện theo cách phiến diện của cô ta.
“Đây là Kate Adams.”
“Rất hân hạnh được gặp hai vị,” Kate nói.
“Hừm, hãy bảo trọng, đặc vụ Simpson. Tôi không nghĩ sẽ gặp lại cô đâu.”
Anh bước ra ngoài bỏ mặc Adams lẽo đẽo chạy theo.
Ngay khi họ ra đến ngoài, Alex bùng lên, “Em có tin được không, trong tất cả các nhà hàng ở cái thành phố chết tiệt này…”
Anh câm bặt đúng lúc Jackie Simpson lao vội ra khỏi nhà hàng Nathan’s.
“Alex, chúng ta có thể nói chuyện một phút được không?” cô bối rối liếc nhìn Kate. “Riêng với nhau?”
“Tôi hoàn toàn tin chắc rằng chúng ta chẳng có quái gì để nói với nhau cả,” anh bật lại.
“Sẽ chỉ mất đúng một phút thôi mà. Làm ơn được không?”
Alex quay sang nhìn Kate, cô nhún vai và bước lên trên phố một đoạn, chăm chú ngắm quần áo trong một cửa hàng qua lớp kính.
Simpson tiến lại gần hơn. “Nghe này, tôi biết anh rất hận tôi. Và anh nghĩ tôi là người bán đứng anh.”
“Hừm, cô nói đúng rồi đấy.”
“Mọi chuyện không hề xảy ra như vậy. Ngay khi Carter Gray rời khỏi chỗ chúng ta, chắc chắn ông ấy đã gọi cho cha tôi. Thậm chí cả trước khi ông ấy gọi điện cho Tổng thống. Cha tôi gọi tôi và mắng tôi một trận lôi đình. Ông ấy nói tôi không thể để một kẻ bất trị phá hỏng sự nghiệp của mình trước khi nó bắt đầu.”
“Vậy làm sao Giám đốc lại biết về người ‘bạn cũ’ của tôi?”
Simpson tỏ vẻ khổ sở. “Tôi biết, như thế thật là ngu ngốc. Nhưng cha tôi rất độc đoán. Ông bắt tôi phải nói ra.” Cô thở dài. “Cha tôi là một trong những người ghê gớm nhất mà anh từng gặp. Còn mẹ tôi từng là Hoa hậu bang Alabama, điều khiến cho bà trở thành một vị nữ thánh ở dưới đó. Nên việc tôi chỉ là một thám tử bình thường không khiến họ vừa lòng. Họ muốn tôi đi vào lĩnh vực kinh doanh hoặc chính trị. Tôi tự làm theo ý của mình và nói rằng tôi sẽ là một cảnh sát. Nhưng họ liên tục ép tôi phải tiến xa hơn. Để họ thôi hành hạ, tôi gia nhập Cơ quan Mật vụ. Cha tôi đã giật dây để tôi được phân công về WFO. Giấc mơ của ông là tôi sẽ trở thành nữ giám đốc đầu tiên của Cơ quan Mật vụ. Trong khi tất cả những gì tôi muốn là trở thành một cảnh sát giỏi. Nhưng đối với họ ngần ấy là chưa đủ.”
“Vậy là cô định làm theo ý của cha mẹ cô cả đời này chắc?”
“Không dễ như vậy đâu. Cha tôi là người đã quá quen với việc được người khác tuân lệnh.” Cô ngừng lại và ngước lên nhìn anh. “Nhưng đó là vấn đề của tôi. Tôi chỉ muốn anh biết rằng tôi thực sự lấy làm tiếc về những gì đã xảy ra. Và tôi hy vọng sẽ có cơ hội bù đắp lại cho anh.”
Cô quay người và quay trở vào bên trong trước khi anh kịp trả lời.
Khi Kate quay trở lại với anh, Alex giải thích lại tinh thần của cuộc nói chuyện. Sau khi nói xong, Alex nói thêm, “Đúng lúc anh nghĩ là anh đã biết bản chất của cô ta và anh có đủ lý do để căm thù cô ta đến bầm gan tím ruột, thì cô ta lại lộ mặt tử tế và khiến mọi chuyện trở nên phức tạp.” Anh liếc nhìn qua bên kia phố và nét mặt bỗng sáng bừng lên. “Hãy nói với anh là em cũng thích đi ăn một chút kem.”
Cô nhìn qua cửa hàng bên kia phố, “Được thôi, nhưng em phải cảnh báo anh rằng em là loại con gái ăn ít nhất cũng phải hai cốc và em không chia đâu.”
“Thế thì đúng mẫu phụ nữ của anh rồi.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.