Chân dung một chàng trai trẻ

Chương II – Phần 4



Tinh thần bạn bè ưa gây gổ mà cậu mới quan sát thấy ở đối thủ vẫn không thể cám dỗ được Stephen từ bỏ thói quen lặng lẽ vâng lời. Cậu hoài nghi sự hỗn loạn và nghi ngờ sự chân thành của kiểu tình bạn mà đối với cậu dường như là một sự đề phòng đáng thương hại của nhân cách. Có những vấn đề về danh dự ở đây cũng giống như những câu hỏi như vậy, đối với cậu thật tầm thường. Trong khi tâm trí cậu theo đuổi những ảo ảnh vô hình và chuyển từ những sự đeo đuổi như thế sang sự chần chừ do dự, cậu nhớ lại giọng nói đều đều của cha mình và các thầy giáo, động viên khuyến khích cậu trở thành một người đàn ông mạnh mẽ và nam tính trên tất cả mọi thứ khác; khích lệ cậu trở thành một tín đồ công giáo mẫu mực trên tất cả mọi thứ khác. Những tiếng nói này bây giờ trở thành những âm thanh trống rỗng trong tai cậu. Khi phòng tập thể dục mở cửa, cậu nghe thấy một giọng nói khác thúc giục động viên cậu trở nên mạnh mẽ, nam tính và cường tráng và khi những xu hướng phục hồi quốc gia bắt đầu được cảm nhận trong trường học, một giọng nói khác mời gọi cậu trở nên trung thành với tổ quốc, giúp phát triển ngôn ngữ và truyền thống của đất nước. Trong thế giới trần tục như cậu nhìn nhận được, giọng nói trần tục có thể mời gọi cậu giúp cha dựng lại địa vị sụp đổ của cha mình bằng sức làm việc của mình và trong khi đó thì giọng nói của những người bạn cùng trường thúc giục cậu trở thành một học sinh ngoan, che chở cho những người khác khi họ bị trách mắng hay xin tha thứ cho họ và có nỗ lực cao nhất để xin những ngày nghỉ học cho học sinh trong trường. Và đó là tiếng ầm ĩ om sòm của tất cả những lời nói trống rỗng làm cậu ngừng lại phân vân do dự trong lúc theo đuổi những ảo ảnh. Cậu chỉ lắng nghe chúng trong một thời gian nhưng chỉ cảm thấy hạnh phúc khi cậu không nghe thấy chúng, thoát khỏi những tiếng gọi của họ, cô đơn một mình hay cùng với những người bạn ảo ảnh.

Trong phòng áo lễ một thầy tu dòng Tên với gương mặt béo tốt và một người đàn ông trung niên, trong những bộ quần áo xoàng xĩnh đang học đòi với việc cầm phấn và thuốc màu. Những cậu bé với khuôn mặt hóa trang đi quanh hoặc đang đứng ngượng nghịu sờ tay lên mặt chúng bằng những đầu ngón tay lén lút của họ với điệu bộ rất rón rén. Ở giữa phòng áo lễ, một thầy tu trẻ, một khách đến thăm trường, đang đứng đung đưa nhịp nhàng từ đầu ngón chân cho tới gót chân, đôi tay người đó thọc sâu vào những chiếc túi hai bên áo. Cái đầu nhỏ anh ta nổi bật với những lọn tóc quăn đỏ bóng nhoáng và khuôn mặt vừa mới được cạo rất phù hợp với sự đứng đắn trong sạch của chiếc áo xutan và đôi giày sạch sẽ không một vết bẩn.

Khi cậu ngắm hình dáng đung đưa này và cố gắng tự đọc truyền thuyết về nụ cười mỉa mai của cha xứ thì có một giọng nói vang lên trong kí ức của Stephen. Đó là giọng nói mà cậu đã nghe được từ cha mình trước khi được gửi đến trường Clongowes rằng ta có thể luôn luôn biết được một thầy tu dòng Tên qua trang phục của ông ta. Tại cùng một thời điểm, cậu nghĩ rằng cậu nhìn thấy một sự tương đồng giữa suy nghĩ của cha cậu và vị cha xứ tươi cười trong bộ quần áo tươm tất này. Và cậu nhận thức được vài điều báng bổ thần thánh trong văn phòng của cha xứ hay của chính phòng áo lễ với sự yên lặng của nó giờ đây bị khuấy động bởi những tiếng nói, cười đùa ầm ĩ và không khí nồng nặc với mùi đèn khí ga và dầu mỡ.

Trong khi người đàn ông trung niên vẽ những vết nhăn trên trán cậu và sơn xanh và đen lên miệng cậu, cậu lắng nghe một cách điên cuồng lời nói của thầy tu dòng Tên trẻ tuổi béo tốt, ra lệnh cho cậu nói to hơn và diễn đạt một cách rõ ràng hơn. Cậu có thể nghe ban nhạc chơi bài “Những bông hoa li của Killarney” và biết rằng trong một khoảng khắc nữa thôi rèm sân khấu sẽ kéo lên. Cậu không cảm thấy sợ sệt hay hồi hộp khi ở trên sân khấu nhưng ý nghĩ về vai diễn mà cậu phải đóng trong vở kịch làm nhục cậu. Sự hồi tưởng một số dòng hội thoại làm mặt cậu đỏ lên dưới lớp hóatrang. Cậu nhìn thấy đôi mắt quyến rũ nghiêm trang của cô ấy đang nhìn mình từ giữa khán giả và hình ảnh của chúng ngay lập tức quét sạch sự đắn đo, do dự của cậu làm cậu cảm thấy tự tin hơn. Một bản chất tự nhiên khác dường như đang chảy trong người cậu: dòng chảy của tuổi trẻ và lòng nhiệt huyết len lỏi vào và thay đổi sự hoài nghi ủ rũ trong cậu. Trong một khoảnh khắc hiếm hoi, cậu như được mặc trong một bộ quần áo của tuổi thơ thực sự. Rồi khi cậu đứng bên cánh gà cùng với những diễn viên khác, cậu chia sẻ niềm vui chung khi phông cảnh cuối cùng của vở kịch được hai thầy tu khỏe mạnh kéo lên.

Một vài khoảnh khắc sau khi cậu tìm thấy chính bản thân trên sân khấu ở giữa ánh đèn ga sặc sỡ và khung cảnh tối tăm, trình diễn trước vô số những khuôn mặt dưới hội trường. Stephen cảm thấy bất ngờ khi nhận thấy rằng vở kịch mà cậu được biết trong buổi tổng duyệt như một thứ rời rạc tẻ nhạt bỗng nhiên mang một cuộc đời của riêng nó. Xem ra bây giờ vở kịch tự nó trình diễn và Stephen cùng những bạn diễn chỉ bổ sung vào những trường đoạn của nó. Khi chiếc rèm sân khấu hạ xuống kết thúc cảnh cuối cùng trong vở kịch, cậu nghe thấy những tiếng vỗ tay khen ngợi dồn dập và qua một kẽ nứt của một bên phông đạo cụ, cậu nhìn thấy một cơ thể giản dị và trước nó cậu hành động một cách biến dạng kì quái, khoảng trống của những khuôn mặt ói rạn nứt tất cả mọi chỗ và rơi xuống rời rạc vào những nhóm người đang hoan hô.

Stephen vội vàng rời sân khấu và giải thoát bản thân khỏi màn kịch câm. Cậu chạy khỏi nhà nguyện, đi đến khu vườn trường. Vở kịch kết thúc, nghị lực trong cậu muốn có một sự phiêu liêu tiếp theo. Cậu vội vàng lao về phía trước như thể bắt kịp nó. Tất cả những cánh cửa của nhà hát đã mở ra và khán giả đã ra khỏi nhà hát. Có một vài chiếc đèn lồng đung đưa trong gió trên những sợi dây mà cậu đã tưởng tượng là những dây neo của con tàu lễ hội. Cậu vội vàng trèo lên những bậc thang của khu vườn, háo hức rằng một vài nỗi giày vò sẽ không lảng tránh cậu, và sẽ thúc ép cậu đi qua đám đông trong khán phòng và đi qua hai thầy tu đang đứng quan sát đám khán giả ra về, cúi đầu và bắt tay những người khách đến thăm. Cậu bồn chồn tiến về phía trước, giả vờ vội vàng hơn và nhận ra những nụ cười uể oải, những cái nhìn chòng chọc, các cú thúc bằng khuỷu tay.

Khi ra khỏi bậc lên xuống, Stephen nhìn thấy gia đình mình đang đợi ở ngọn đèn đầu tiên. Bằng một cái liếc nhìn, cậu nhận ra rằng tất cả mọi người trong nhóm rất thân quen và cậu bực tức bỏ chạy xuống cầu thang.

– Con phải chuyển một tin nhắn đến đường George – Stephen vội vàng nói với cha. – Mọi người cứ về trước, con sẽ về nhà sau.

Không cần đợi những câu hỏi của cha mình, cậu băng qua đường và bắt đầu đi như lao xuống dưới chân đồi. Stephen hầu như chẳng biết nơi cậu đang đi là đâu. Lòng tự trọng, hi vọng và khát vọng giống như những ngọn cỏ bị vò nát trong tim cậu gây nên một luồng khí tỏa hương trước mắt cậu. Cậu lao xuống quả đồi trong trạng thái bối rối về luồng khí đột ngột trào dâng của lòng tự trọng bị tổn thương, của hi vọng tan vỡ và của khát vọng bị bóp nghẹt. Chúng chảy thẳng vào đôi mắt đau khổ trong cơn xúc động điên cuồng và ngu ngốc và vụt qua con đường trước mặt cậu cho tới khi không gian trong trẻo và se lạnh trở lại.

Một màn sương mỏng vẫn che mắt cậu nhưng đôi mắt không còn bỏng rát nữa. Một sức mạnh – hơi giống với sức mạnh thường tạo thành sự giận dữ và oán giận thoát ra khỏi thân thể cậu làm cậu dừng bước chân. Stephen đứng lại, nhìn lên cổng vòm tối tăm u ám của nhà xác và đảo mắt tới con đường nhỏ rải đá cuội tối đen bên cạnh. Cậu nhìn thấy từ “Lotts” trên bức tường trên đường và hít thở từ từ không khí nồng nặc mùi hôi thối.

Stephen nghĩ rằng đó là mùi nước đái ngựa lẫn với rơm rác thối rữa. Đó là một mùi trong lành để hít vào! Nó sẽ làm trái tim ta bình tĩnh lại. Bây giờ tim tôi hoàn toàn yên lặng. Tôi sẽ quay trở về.

* * * * * *

Stephen lại một lần nữa ngồi cạnh cha cậu trong góc của toa tàu tại ga Kingsbridge. Cậu đang đi cùng cha mình bằng tàu đêm trở về nơi ở cũ, Cork. Khi đoàn tàu chạy ra khỏi sân ga cậu nhớ lại những kỉ niệm thơ ấu trước đó và tất cả mọi sự kiện của ngày đầu tiên tại trường Clongowes. Nhưng bây giờ cậu không còn ngạc nhiên nữa. Cậu nhìn những mảnh đất tối tăm lùi lại phía sau, những cột dây điện im lặng cứ đều đặn trôi qua cửa sổ sau mỗi bốn giây, những sân ga nhỏ sáng chập chờn với những người gác ga câm lặng. Con tàu chạy trên những bánh xe bị lắc đi lắc lại dữ dội phía sau, đôi khi bắn ra những hạt sáng nhấp nháy trong đêm đen khi nghiến trên đường ray.

Cậu lắng nghe cha cậu kể về những hoài niệm tuổi trẻ ở Cork mà không có sự đồng cảm nào với ông cả. Câu chuyện truyền kì bị ngắt quãng vì những tiếng thở dài hoặc những hớp rượu từ chiếc chai rượu dẹt bỏ túi bất cứ khi nào ông kể về hình ảnh của một vài người bạn đã chết hoặc thậm chí khi ông lại bất chợt nhớ lại mục đích của chuyến về thăm Cork lần này. Stephen lắng nghe nhưng không có một chút lòng trắc ẩn nào. Tất cả những hình ảnh của những người bạn đã chết của cha cậu đều lạ lẫm đối với cậu trừ bác Charles – một hình bóng vào thời gian gần đây đã bị phai mờ đi. Tuy vậy, Stephen biết rằng, tất cả tài sản của cha cậu ở đó sẽ bị đem ra bán đấu giá và theo cách truất quyền sở hữu của mình, Stephen cảm thấy thế giới này đã thô bạo lừa dối sự tưởng tượng của cậu.

Tại ga Maryborough cậu bắt đầu buồn ngủ. Khi cậu tỉnh giấc thì đoàn tàu đã qua khỏi ga Mallow và cha cậu đã nằm vắt sang ghế kế bên để ngủ. Ánh sáng lạnh lẽo của buổi bình minh trải lên cảnh đồng quê, trên những cánh đồng không bóng người và những căn nhà nhỏ đóng kín cửa. Sự kinh hoàng của giấc ngủ mê hoặc tâm trí cậu khi cậu nhìn ngắm đồng quê yên tĩnh hay khi thỉnh thoảng nghe tiếng thở sâu của cha cậu, hay một cơn buồn ngủ bất chợt. Hành khách giường bên làm cậu sợ hãi kì lạ như thể họ có thể làm hại cậu và cậu cầu nguyện cho ban ngày sẽ chóng đến. Những lời nguyện cầu của cậu chẳng gửi đến Chúa hay vị thánh nào cả và được bắt đầu bằng một cơn rùng mình khi cơn gió lạnh buổi sáng lọt qua khe hở của toa tàu thổi vào chân cậu. Rồi những lời kết thúc bằng một chuỗi dài lê thê những từ ngu xuẩn mà cậu làm cho vừa khớp với nhịp điệu đều đều của đoàn tàu. Cậu nín lặng sau mỗi bốn giây. Khúc nhạc giận dữ này làm vơi đi nỗi sợ hãi của cậu. Tựa người vào cửa sổ, cậu nhắm mắt lại một lần nữa.

Họ đi trên một chiếc xe hai bánh ngang thị trấn Cork trong khi trời vẫn còn tờ mờ sáng và Stephen kết thúc giấc ngủ trong phòng ngủ của khách sạn Victoria. Anh sáng mặt trời ấm áp đang chảy qua cửa sổ và cậu có thể nghe thấy tiếng ồn ào của xe cộ đi lại. Cha cậu đang đứng đằng sau bàn trang điểm, chăm sóc kĩ lưỡng mái tóc, khuôn mặt và bộ ria của ông ấy, nghển cổ qua bình đựng nước và kéo nó sang một bên để có thể ngắm mình rõ hơn. Trong lúc làm như vậy, ông khe khẽ hát cho mình nghe với chất giọng là lạ và rời rạc:

Tuổi trẻ và những hành động điên rồ

Làm các bạn trẻ lấy nhau,

Còn đây, tình yêu của tôi, tôi sẽ

Không ở lại đây nữa.

Cái gì không cứu vãn được, chắc chắn, sẽ bị tổn thương,

Chắc chắn là như vậy, nên tôi sẽ đi đến Nước Mỹ.

Tình yêu của tôi – cô ấy rất đẹp, tình yêu của tôi – cô ấy mảnh mai

Cô ấy như một chai rượu Whisky ngon

Khi còn mới; Nhưng khi đã cũ

Và ngày một lạnh hơn

Nó phai màu đi và chết

Giống như sương núi.

Sự tỉnh táo của thành phố ấm áp ngoài khung cửa sổ và cảm giác rùng mình với giọng hát của cha cậu kết thành không gian buồn rầu hạnh phúc lạ lùng, xua đi màn sương của tâm trạng ốm yếu khỏi tâm trí Stephen. Cậu vội vàng đứng dậy mặc quần áo và khi bài hát kết thúc, Stephen nói:

– Bài hát đó còn đẹp hơn tất cả các bài hát của cha về “tất cả chúng ta cùng đến.”

– Con có nghĩ vậy không? – ông Dedalus hỏi.

– Con thích nó lắm – Stephen trả lời.

– Nó nói về một không gian cổ kính nhưng đẹp đẽ – ông Dedalus vừa nói vừa vân vê râu mép. – À, nhưng con nên nghe

Mick Lacy hát bài này! Tội nghiệp Mick Lacy! Anh ta đã phải đổi hướng vì bài hát đó, những mảnh giấy ghi chép trang nhã mà chưa bao giờ có được. Đó là cậu bé người có thể hát “tất cả chúng ta cùng đến” mà con thích.

Ông Dedalus gọi món bánh hầm cho bữa ăn sáng và trong bữa ăn ông kiểm tra lại với người hầu bàn về những tin tức có trên tờ tin tức địa phương.

– Ồ, dù thế nào đi chăng nữa, tôi hi vọng họ không di chuyển trường Queen – ông Dedalus nói – Vì tôi muốn dẫn cậu con trai của tôi đi thăm.

Dọc trên đại lộ Mardyke cây cối đang đâm chồi nảy lộc. Họ bước vào khuôn viên của trường học và người gác cổng lắm mồm dẫn họ vào sân trong. Nhưng nỗ lực của họ qua con đường rải sỏi đã ngừng lại khi người gác cổng trả lời họ.

– À, có phải ông nói rằng Pottlebelli tội nghiệp đã chết?

– Vâng, thưa ông. Đã chết.

Trong khi dừng lại, Stephen đứng ngây người đằng sau hai người đàn ông và mệt lử vì chủ đề đang nói và kiên nhẫn chờ đợi cuộc diễu hành chậm chạp bắt đầu lại. Vào thời điểm họ băng qua sân, tâm trạng bồn chồn của cậu tăng thêm. Cậu tự hỏi làm sao cha cậu – một người đàn ông láu đa nghi lanh lợi như cậu biết, lại bị lừa bởi một tên gác cổng hèn hạ; và cách nói vui vẻ hoạt bát của người miền Nam mà cậu rất thích thú cả buổi sáng bây giờ chọc tức đôi tai cậu.

Họ đi ngang qua khoa giải phẫu nơi ông Dedalus dưới sự giúp đỡ của người gác cổng, tìm kiếm những chiếc bàn có tên viết tắt của mình. Stephen ngồi lại trong khuôn viên trường, chán nản hơn bao giờ hết trước bóng tối và sự yên lặng của giảng đường và không gian viết lên sự học hành nghiêm trang và chán ngắt. Trên chiếc bàn, cậu đọc từ “bào thai” được khắc vài lần trên chiếc bàn gỗ đen đầy vết bẩn. Một truyền thuyết đột ngột làm cậu hoảng hốt. Cậu dường như thấy những sinh viên vắng mặt của trường đang quây xung quanh cậu và cậu lùi lại trước sự hộ tống của họ. Một viễn cảnh về cuộc sống của họ, mà những lời nói của cha cậu không có khả năng gợi lên trong cậu trước đó, hiện ra trước mắt cậu từ chữ “bào thai” khắc trên bàn. Cậu như thấy hình ảnh một sinh viên với đôi vai to rộng có ria mép đang nghiêm túc khắc lên bàn những chữ cái bằng con dao xép bỏ túi. Những sinh viên khác đứng hoặc ngồi cạnh cậu ta đang cười thích thú. Một người trong số họ đẩy nhẹ khuỷu tay cậu ta. Một sinh viên to lớn quay sang phía cậu ta và nhăn mặt cau mày không đồng tình. Anh ta mặc bộ quần áo màu xám rộng thùng thình và đi đôi giày ống màu nâu vàng.

Ai đó gọi tên Stephen. Cậu vội vàng lao xuống những bậc cầu thang trong giảng đường để tránh càng xa cái viễn cảnh cậu vừa tưởng tượng ra, nhìn kĩ cái tên viết tắt của cha cậu để giấu khuôn mặt đầy xúc động.

Nhưng chữ khắc và viễn cảnh đó cứ nhảy múa trước mặt cậu khi cậu quay trở lại sân trong trường và hướng về phía cổng trường. Nó làm cậu ghê sợ khi tìm kiếm cái thế giới bên ngoài một dấu vết mà cậu vẫn tưởng là một chứng bệnh thần kinh riêng trong tâm trí cậu. Những ảo tưởng quái dị đi thẳng vào kí ức cậu. Chúng lại nhảy múa trước mặt cậu một cách bất ngờ và dữ dội không dùng từ ngữ nào tả xiết. Ngay sau đó cậu tự hiến dâng cho những ảo tưởng này và để chúng tràn ngập tâm trí cũng như đè bẹp khả năng hiểu biết của mình. Cậu luôn tự hỏi xem chúng từ đâu đến, từ sào huyệt nào của những hình bóng kì quái, và rồi cậu luôn nhún nhường, khiêm tốn đối với những ảo tưởng khác, bồn chồn và ghê sợ chính bản thân khi chúng lướt qua cậu.

– Được! Và đó chắc chắn là gia đình Groceries! – ông Dedalus la lên. – Con thường nghe thấy cha nói về gia đình Groceries đúng không, Stephen? Rất nhiều lần chúng ta đi xuống đó khi những cái tên của chúng ta được đánh dấu, Harry Peard và Jack Mountain nhỏ con; Bob Dyas và Maurice Moriarty; một người đàn ông Pháp; Tom O’ Grady và Mick Lacy người mà cha kể cho con sáng nay; Joey Corbet và Johnny Keevers bé nhỏ nhưng tốt bụng của gia đình Tantiles.

Những tán lá cây ven đường Mardyke đang xào xạc và thì thầm trong ánh mặt trời. Một đội bóng crickét băng qua, những chàng trai trẻ nhanh nhẹn trong quần vải flanen và áo cộc tay có đính biểu trưng đội bóng. Một trong số họ mang theo chiếc túi dài màu xanh lá cây đựng các thanh chắn của trò cricket. Trong một khu phố hẻo lánh, một ban nhạc gồm năm thành viên người Đức trong những bộ đồng phục phai màu với những nhạc cụ méo mó làm bằng đồng thau, đang biểu diễn cho những khán giả đường phố và những cậu bé đưa tin nhàn nhã. Một người hầu gái trong chiếc mũ trắng và chiếc tạp dề đang tưới nước cho những chậu cây cảnh đặt trên cửa sổ. Có tiếng piano vọng ra từ một khung cửa sổ mở khác, ngân vang cao dần sang âm bậc cao.

Stephen đi về phía cha mình, lắng nghe những câu chuyện mà cậu đã được nghe trước đó, lắng nghe một lần nữa những cái tên những người đã là bạn của cha cậu thời trai trẻ. Và một sự kinh tởm đến buồn nôn xuất hiện trong trái tim cậu. Cậu nhớ lại lập trường hai mặt của chính cậu khi còn ở Belvedere – một cậu bé tự do, một người lãnh đạo sợ hãi quyền lực của chính mình, nhưng kiêu hãnh, nhạy cảm và đầy hoài nghi đang cố chiến đấu với cuộc sống nghèo hèn và chống lại tâm trí nổi loạn của mình. Những chữ cái khắc trên chiếc bàn gỗ màu đen đầy vết bẩn nhìn chằm chằm vào cậu, chế nhạo sự yếu đuối về thể chất và sự nhiệt tình mù quáng của cậu và làm cậu ghê tởm chính sự điên rồ và bẩn thỉu của bản thân. Nước bọt trong cổ họng cậu trở nên đắng ngắt, tắc nghẹn lại cùng với cảm giác buồn nôn lan truyền lên não cậu đến nỗi trong một khoảnh khắc cậu nhắm đôi mắt lại và bước đi trong bóng tối.

Cậu vẫn có thể nghe được giọng nói của cha cậu.

– Hãy nhớ rằng, Stephan, khi một ngày nào đó cha dám nói là sẽ xảy ra với con bằng bất cứ việc gì con làm thì con hãy tự đi kết giao với những người đàn ông thực sự. Khi cha còn là một cậu bé, cha nói với con rằng cha cảm thấy rất thoải mái với bản thân. Cha kết bạn với những người tử tế. Mọi người trong chúng ta có thể cùng nhau làm một điều gì đó. Một người có giọng nói dễ thương, người khác rất giỏi đóng kịch, có người rất giỏi hát những bài hài hước, có người rất giỏi chèo thuyền hay rất giỏi quần vợt, người thì rất giỏi kể chuyện và vân vân. Chúng ta luôn luôn trôi theo dòng cuộc sống và cảm thấy khoái trá với bản thân, chúng ta nhìn thấy một phần cuộc sống, và chúng ta không ai kém hơn ai. Nhưng tất cả chúng ta là những người đàn ông chân chính, Stephen ạ – Ít nhất là cha hi vọng chúng ta là – và thực sự là – những người đàn ông có dòng máu Ireland trung thực và tốt bụng. Đó là những dạng người cha muốn con kết bạn, những người cùng có bản chất tốt. Cha đang nói chuyện với con như một người bạn, Stephen ạ. Cha không tin rằng một người con trai lại sợ cha mình. Không, cha cư xử với con như ông nội đã đối xử với cha khi cha còn là một cậu bé. Chúng ta đã giống như anh em trai hơn là cha và con. Cha không thể nào quên ngày đầu tiên ông nội con bắt gặp cha hút thuốc. Một ngày mà cha đang đứng ở cuối Terrace phía Nam cùng với vài cậu thanh niên nhỏ giống như cha. Bọn cha đã chắc chắn rằng chúng ta là những thanh niên đã lớn vì chúng ta có ngậm tẩu thuốc ở góc miệng. Bất thình lình, ông nội đi qua. Ông không nói một lời, hay thậm chí chỉ là dừng lại. Nhưng ngày hôm sau – một ngày Chủ nhật, chúng ta cùng đi tản bộ và khi quay trở về ông lấy ra một hộp đựng xì gà và nói: “Tiện đây, Simon, bố không biết con hút thuốc, hay tương tự như thế. Dĩ nhiên, bố cố gắng tối đa để giữ những điếu thuốc này. Nếu con muốn làm một người hút thuốc giỏi, con hãy thử hút những điếu xì gà này. Một thuyền trưởng người Mỹ đã tặng bố đêm qua ở thị trấn Queenstown.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.