Chân dung một chàng trai trẻ
Chương II – Phần 5
Stephen nghe thấy giọng cha cậu chuyển thành tiếng cười gần giống như tiếng nức nở.
– Ông đẹp trai nhất vùng Cork tại thời điểm đó, có Chúa chứng giám, ông rất đẹp trai! Phụ nữ thường đứng nhìn đằng sau khi ông đi trên phố.
Stephen nghe thấy tiếng điệu cười như tiếng nức nở tắt dần đi trong họng cha cậu và mở to đôi mắt đầy xúc động. Ánh mặt trời đột ngột dịu đi trong mắt cậu và làm bầu trời cùng những đám mây biến thành một thế giới dị thường của những nỗi buồn với khoảng không gian rộng lớn của ánh sáng màu đỏ tía. Bộ óc cậu mệt mỏi và bất lực. Cậu khó mà giải nghĩa được những chữ cái trong những bảng quảng cáo của các quầy hàng. Bằng lối sống lập dị khác người, cậu dường như luôn đặt bản thân vượt ra khỏi giới hạn của thực tại. Chẳng có gì kích động được cậu hay nói với cậu từ thế giới thực tại trừ khi cậu nghe thấy nó trong tiếng vọng của sự gào thét điên cuồng trong cậu. Cậu có thể không phản ứng trước sự quyến rũ của con người và trần tục, cậu câm lặng và vô cảm với tiếng gọi của mùa hè, niềm hân hoan và tình bạn bè. Cậu buồn nản và thất vọng với giọng nói của cha cậu. Cậu chỉ vừa mới nhận ra những suy nghĩ của mình, và tự kể lại chậm rãi:
– Tôi tên là Stephen Dedalus. Tôi đang đi bên cạnh cha tôi; tên ông là Simon Dedalus. Chúng tôi đang ở Cork, Iraland. Cork là một thành phố. Chúng tôi ở trong khách sạn Victoria. Victoria, Stephen và Simon. Simon, Stephen và Victoria. Những cái tên.
Kí ức của thời thơ ấu bất chợt xuất hiện lờ mờ trong cậu. Stephen cố gắng gợi lên một số những khoảnh khắc sinh động nhưng không thể. Cậu chỉ nhớ được những cái tên. Dante, Parnell, Clane, Clongowes. Một cậu bé được một người phụ nữ già có hai chiếc bàn chải trong tủ đứng dạy địa lí. Sau đó, cậu được gửi đi học xa nhà ở trường Clongowes, cậu đã lần đầu tiên được ban thánh thể và nhai chiếc chăn dài trong chiếc mũ chơi cricket và nhìn ngắm ánh lửa bập bùng nhảy múa trên tường phòng ngủ nhỏ bé trong bệnh xá và mơ đến cái chết. Một đám tang của cậu được nghe cha hiệu trưởng trong bộ lễ phục đen ánh vàng đọc cáo phó rồi cậu bị chôn cất trong một bãi tha ma nhỏ của khu phố bên cạnh con đường lớn đầy đá vôi. Nhưng sau đó cậu không chết. Anh Parnell đã chết. Không có một buổi lễ nào cho cái chết này trong nhà nguyện và cũng không có đám rước đưa ma. Cậu không chết nhưng bị phai nhạt dần đi giống như một màn sương mỏng dưới ánh mặt trời. Thật lạ khi nghĩ rằng cậu thoát ra khỏi thực tại bằng cái cách như vậy, không phải bằng cái chết nhưng bị phai mờ dần đi dưới ánh mặt trời hoặc là biến mất hay bị lãng quên trong vũ trụ! Thật lạ lùng khi nhìn vóc dáng nhỏ bé của cậu lại xuất hiện trong khoảnh khắc: một cậu bé trong bộ quần áo đồng phục màu xám có thắt lưng. Tay cậu đút trong hai chiếc túi bên và chiếc quần của cậu được gấp đến gối nhờ những dải dây chun.
Vào buổi tối của ngày mà tài sản của gia đình cậu bị bán đi, Stephen ngoan ngoãn theo sau cha cậu vào thị trấn và đi từ quán bar này đến quán bar khác. Từ những người bán hàng trong chợ, những cậu hầu bàn và và những cô phục vụ ở quán rượu, tới những kẻ ăn mày quấy rầy ông Dedalus đã kể cùng một câu chuyện – rằng ông ấy là một ông già gốc Cork, rằng ông đã và đang cố gắng trong ba mươi năm để quên đi giọng nói của người Cork và nói bằng giọng thủ đô Dublin và rằng Peter Pickackafax bên cạnh ông là con trai cả nhưng nó chỉ là một gã Dublin.
Họ bắt đầu lên đường từ sáng sớm trong quán cà phê của Newcombe. Tách cà phê của ông Dedalus kêu lách cách trên chiếc đĩa nhỏ còn Stephen cố che đậy cử chỉ xấu hổ của cha mình trong đêm uống rượu say bí tỉ trước khi cậu cố gắng đẩy chiếc ghế và ho hắng. Một sự bẽ bàng nối tiếp hết cái này đến cái khác – những nụ cười giả tạo của người bán hàng trong chợ, những nét thu ba của các cô gái phục vụ bàn mà cha cậu tán tỉnh trong sự tán thưởng hoan nghênh của những người bạn ông. Họ nói với cậu rằng cậu trông rất giống ông nội cậu và ông Dedalus đồng ý rằng cậu có nhiều nét giống ông nội thật. Họ đã phát hiện ra dấu tích của giọng nói Cork trong cách nói của ông và làm cho ông thừa nhận rằng sông Lee đẹp hơn rất nhiều so với sông Liffey. Một trong số họ muốn cậu chứng minh khả năng tiếng La-tinh của mình đã yêu cầu cậu dịch đoạn văn ngắn từ tiếng Dilectus và hỏi cậu xem có đúng không khi nói: “Tempora mutantur nos et mutamur in illis hay Tempora mutantur et nos mutamur in illis.”[3] Một người nữa, một người đàn ông nhanh nhẩu, hoạt bát- người mà ông Dedalus gọi là Johnny Cashman, làm Stephen bối rối khi hỏi cậu xem những cô gái Dublin xinh đẹp hơn hay những cô gái Cork xinh hơn.
[3] Cả hai đoạn đều có nghĩa là ‘khi hoàn cảnh thay đổi chúng ta cũng thay đổi theo.’ Sự khác biệt là thứ tự của từ trong đoạn thơ.
– Hãy để nó yên – ông Dedalus nói. – Nó là một thằng bé thông thái điềm đạm và không bị quấy rầy với những loại chuyện vô vị như thế.
– Mà ông cũng không phải là cha nó – một người đàn ông nhỏ bé lên tiếng.
– Tôi không biết, thề đấy! – ông Dedalus vừa cười vừa nói đầy mãn nguyện.
– Cha cháu, – người đàn ông nhỏ bé ấy nói với Stephen, – là người đào hoa và mạnh bạo nhất thành phố này khi đó. Cháu có biết điều đó không?
Stephen cúi xuống và quan sát sàn lát gạch có đục lỗ của quán bar.
– Thôi đừng nhồi nhét những ý tưởng vào đầu nó – ông Dedalus nói – cứ mặc nó với Đấng sáng thế.
– Được rồi, yên tâm đi, tôi sẽ không nhồi nhét bất cứ ý tưởng gì vào đầu cậu bé. Tôi đã đủ già để làm ông nội của nó. Và tôi là một ông nội rồi đấy – người đàn ông nhỏ bé nói. – Cháu có biết điều đó không?
– Thật hả? – Stephen hỏi.
– Thật chứ – người đàn ông nhỏ bé nói. – Bác có hai đứa cháu mạnh khỏe. Thế cậu nghĩ ta bao nhiêu tuổi? Và ta vẫn nhớ hình ảnh ông nội cháu trong bộ áo choàng đỏ đi săn bằng chó trước khi cháu ra đời.
– Nhất trí – ông Dedalus nói.
– Chú thề đấy – người đàn ông nhỏ bé nhắc lại. – Và hơn cả như vậy, thậm chí ta còn nhớ được cả cụ của cháu, John Stephen Dedalus, một ông già hiếu chiến hung hăng. Giờ đây, đó là một kí ức cho cháu!
– Thế là gồm ba, bốn thế hệ – một người đi cùng nói. – Chắc Johnny Cashman, ông phải đến gần một trăm tuổi.
– Thế đấy, ta sẽ nói cho cháu sự thật – người đàn ông nhỏ bé nói. – Ta chỉ mới hai mươi bảy tuổi.
– Chúng ta già như chúng ta cảm thấy, Johnny ạ, – ông Dedalus nói – thôi hãy ngừng lại những điều ông đang nói, và chúng ta sẽ nói sang chuyện khác. Ở nơi này, Tim hay Tom hay ông có bất cứ cái tên gì thì ông vẫn bằng đấy tuổi. Có Chúa biết! Tôi không nghĩ rằng mình già hơn mười tám tuổi. Con trai của tôi chưa bằng nửa tuổi tôi và hằng ngày tôi là người đàn ông tốt hơn cậu bé.
– Đừng làm quá, Dedalus. Tôi nghĩ là đã đến lúc ông ngồi xuống ghế được rồi – người đàn ông lúc trước lên tiếng.
– Không, có Chúa biết! – ông Dedalus quả quyết. Tôi sẽ hát một bài hát bằng giọng nam cao để chống lại ông ta hoặc là tôi sẽ nhảy qua cái cửa lò sưởi để chống lại ông ấy; hay tôi sẽ chạy cùng ông ấy sau khi những con chó săn băng qua đồng quê giống như tôi làm cách đây ba mươi năm cùng với Kerry Boy và một người đàn ông xuất sắc nhất về việc này.
– Nhưng ông ta sẽ hạ gục ông ở đây – người đàn ông nhỏ bé nói – vỗ nhẹ tay vào trán và nâng gọng kính lên.
– Thôi được, tôi hi vọng nó sẽ trở thành một người tốt như cha ông ta. Đó là tất cả những gì tôi có thể nói – ông Dedalus nói.
– Ông ấy là như vậy, ông ấy sẽ làm – người đàn ông nhỏ bé khẳng định.
– Ơn Chúa, Johnny – ông Dedalus nói – vì chúng ta sống quá lâu và ít khi làm hại người khác.
– Nhưng làm quá nhiều việc tốt, Simon – người đàn ông nhỏ bé nghiêm túc nói. – Cảm ơn Chúa, chúng ta sống quá lâu và làm quá nhiều việc tốt.
Stephen quan sát ba cốc bia được nâng lên từ quầy bia khi cha cậu và hai người bạn nối khố uống vì kí ức trong quá khứ. Một sự nghiệt ngã của số phận hay tính khí ngăn cách cậu khỏi bọn họ. Trí óc cậu có lẽ già hơn họ: nó lạnh lùng soi sáng những cuộc tranh luận; hạnh phúc và tiếc nuối của họ giống như mặt trăng chiếu xuống quả đất. Cậu không có niềm vui cùng bè bạn, không có sức mạnh của một người đàn ông cũng không phải là một đứa con hiếu thảo. Chẳng có gì lay động trong tâm hồn cậu mà thay vào đó là sự thèm khát lạnh lùng, tàn nhẫn và không có tình yêu. Tuổi thơ của cậu đã mất hoặc đã chết và với nó tâm hồn cậu có thể có niềm vui giản dị và cậu đang trôi dạt giữa cuộc sống giống như bề mặt ngoài cằn cỗi của mặt trăng.
“Tài nghệ, ngươi bao quanh bằng nỗi u sầu. Khi leo lên thiên đường và ngắm nhìn trái đất. Ngươi tự hỏi không có ai làm bạn với mình.” Cậu tự nhắc lại những dòng thơ chưa hoàn chỉnh của Shelley. Sự bất lực về tình cảm u buồn luân phiên với chu kì vô cảm to lớn làm tê liệt cậu và cậu quên đi nỗi buồn bất lực và tình cảm của cậu.
* * * *
Mẹ, em trai và một trong số anh em họ của Stephen đợi tại góc của lâu đài Foster yên tĩnh trong lúc cậu và cha cậu đi thẳng lên những bậc cầu thang dọc theo dãy cột nơi những người lính gác Ecốt diễu hành. Khi họ đi vào phòng tiền sảnh và đứng cạnh quầy giao dịch, Stephen rút ra lệnh của thống đốc ngân hàng Ireland để nhận ba mươi ba bảng Anh. Đó là số tiền học bổng và tiền chiến thắng trong cuộc thi viết tiểu luận do nhân viên thu ngân đang nhanh chóng đếm trả cho cậu theo thứ tự tiền giấy và tiền xu. Cậu nhét chúng vào túi, giả vờ tỏ ra điềm tĩnh trước người thu ngân thân thiện – người mà cha cậu đã tán gẫu, bắt tay anh ta qua cửa quầy thu tiền và chúc anh ta có một sự nghiệp rạng rỡ sắp tới. Cậu không chịu đựng nổi giọng nói của họ và không thể để yên đôi chân. Nhưng nhân viên thu ngân vẫn trì hoãn phục vụ những người khác và nói rằng anh ta đang sống trong một thời kì mới và rằng không có gì so sánh được với việc cho con cái được học hành tử tế với số tiền có thể có. Ông Dedalus chần chừ nán lại trong phòng tiền sảnh, nhìn người thu ngân rồi ngước lên trần nhà và nói với Stephen rằng họ đang đứng trước tòa nhà hạ viện của nghị viện Ireland cũ.
– Chúa giúp đỡ chúng ta! – Ông ta nói một cách sùng đạo – nghĩ về những con người ở thời đó, Stephen, như ông Heli Hutchinson, Flood, Henry Grattan và Charles Kendal Bushe, và những người quý tộc hiện nay, những người lãnh đạo nhân dân Ireland trong nước và ở nước ngoài. Tại sao, ơn Chúa, người ta không nhìn thấy họ chết trong cánh đồng rộng mười mẫu Anh. Không, Stephen, ông tướng ạ, cha xin lỗi khi nói điều đó nhưng chúng chỉ giống như là khi ta đi lang thang không mục đích trong một buổi sáng tháng năm đẹp trời. Một cơn gió tháng mười lạnh thấu xương lùa quanh ngân hàng. Ba người đang đứng ở mép của con đường nhỏ lầy lội với những đôi má tái xanh và những đôi mắt nhòe nước vì rét. Stephen nhìn người mẹ gầy gò trong bộ quần áo và nhớ lại rằng vài ngày trước đó cậu nhìn thấy một chiếc áo khoác với giá hai mươi đồng ghinê[4] trong cửa hàng của Barnardo.
[4] Đồng tiền vàng của nước Anh xưa giá trị tương đương hai mươi mốt siling.
– Được rồi, đã xong – ông Dedalus nói.
– Chúng ta nên đi ăn tối – Stephen nói. – Đi đâu được nhỉ?
– Ăn hối hả? – ông Dedalus hỏi. – Được rồi, cha nghĩ chúng ta nên ăn một bữa tươi, đâu được nhỉ?
– Có vài địa điểm không quá đắt đỏ, – ông Dedalus nói.
– Không rẻ mà cũng không đắt à?
– Đúng vậy. Có vài nơi yên tĩnh.
– Đi nào cả nhà – Stephen vội vàng nói. – Giá cả đắt đỏ không thành vấn đề.
Cậu đi lên phía trước họ với những bước đi bồn chồn, miệng cười hạnh phúc. Họ cố gắng đi theo cậu, cũng vui vẻ cười trong sự hăm hở của cậu.
– Hãy coi mọi chuyện đơn giản như một chàng trai trẻ – cha cậu nói. – Chúng ta chưa đi được nửa dặm phải không?
Trong nhịp điệu hối hả của mùa hội hè này, số tiền thưởng của Stephan được cậu tiêu xài phung phí. Những kiện hàng tạp phẩm, những món ăn ngon cùng với những gói quả khô được gửi đến từ thành phố. Ngày nào cậu cũng kê ra một thực đơn cho gia đình và tối nào cũng dẫn đầu một nhóm ba hoặc bốn người tới nhà hát để xem vở kịch “Ingomar” hoặc “Quý bà Lion.” Trong túi áo choàng, cậu mang theo những thanh sô-cô-la của Vienna cho những vị khách của cậu trong khi túi quần cậu căng phồng những đồng xu bạc và đồng. Cậu mua quà cho tất cả mọi người; xem xét lại toàn bộ phòng cậu, thảo ra những kế hoạch; sắp xếp theo thứ tự những cuốn sách trên dưới gọn gàng lên giá sách; mải mê nghiên cứu mọi loại danh mục giá cả; vẽ ra một vương quốc cho mọi thành viên trong gia đình theo đó mọi thành viên giữ một chức vụ nào đó; mở một ngân hàng cho gia đình cậu và cho vay những người muốn vay tiền đến nỗi cậu có thể có niềm vui thích khi lập được hóa đơn chứng từ và tính lãi được cho tổng số cho vay. Khi cậu không thể làm được gì thêm nữa, cậu nhảy lên xe điện và đi dạo quanh thành phố. Rồi thì khoảng thời gian sự vui thích cũng kết thúc. Lọ mực men màu hồng cũng đã hết và ván ốp chân tường phòng cậu vẫn còn chưa hoàn chỉnh cùng với chiếc áo choàng nhàu nát.
Gia đình cậu lại quay trở về cuộc sống thường lệ. Mẹ cậu không có cơ hội nào để trách mắng cậu vì sự tiêu tiền phung phí của cậu. Cậu cũng quay trở về cuộc sống cũ ở trường học và tất cả những doanh nghiệp trong tiểu thuyết của cậu tan thành mảnh vụn. Vương quốc sụp đổ, ngân hàng cho vay đóng cửa các két lại và toàn bộ sổ sách thể hiện sự thua lỗ; mọi triết lí về cuộc sống mà cậu vẽ ra cho bản thân đã lỗi thời.
Một tham vọng thật ngu ngốc! Cậu đã cố gắng xây dựng một con đập chắn sóng cho sự trật tự và tao nhã chống lại các cơn thủy triều nhớp nhúa đê hèn của cuộc sống mà không có cậu và để kiềm chế chúng bằng những nguyên tắc đạo đức, quyền lợi chung và mối quan hệ mới trong đạo làm con, sự trở lại của sức mạnh của bản thân cậu. Thật vô ích. Từ bên trong cũng như từ bên ngoài, nước đã dâng tràn qua những đập chắn của cậu: các cơn thủy triều đã bắt đầu xô đẩy dữ dội tràn qua con đê chắn sóng vỡ nát.
Cậu cũng nhìn rõ sự cô đơn vô ích. Cậu vẫn chưa bước tiếp thêm một bước nào đến gần hơn cuộc sống cậu đã tìm kiếm hay tiến đến hoặc là cây cầu của sự tủi hổ và thù hận không yên đã ngăn cách cậu với bố, mẹ và các em của cậu. Cậu cảm thấy thật khó mà có chung một dòng máu với họ nhưng lại đứng cạnh họ cứ như thể là có mối quan hệ con nuôi bí ẩn, nuôi dưỡng một đứa trẻ, nuôi dưỡng người đồng hương.
Cậu làm dịu trái tim khát khao bỏng cháy trước khi tất cả mọi thứ khác trở nên vô ích và xa lạ. Cậu ít quan tâm rằng cậu đang có tội lỗi khủng khiếp, rằng cuộc sống của cậu đang trở thành một chuỗi của những thủ đoạn lừa gạt và sai lầm. Bên cạnh những khát vọng hoang dại trong cậu để nhận ra sự dã tâm mà cậu đang nghiền ngẫm, chẳng có điều gì thực sự quan trọng. Cậu bất nhẫn mang theo những chi tiết đáng xấu hổ của những cuộc nổi loạn bí mật mà cậu hả hê kiên nhẫn làm nhơ bẩn bất cứ hình ảnh nào lôi cuốn đôi mắt. Cả ban ngày và ban đêm, cậu chuyển động giữa những hình ảnh méo mó đó của thế giới bên ngoài. Một nhân vật có vẻ như nghiêm trang, từ tốn và vô tội ban ngày tiến đến gần cậu trong bóng đêm qua bóng tối uốn quanh giấc ngủ, khuôn mặt cô ấy hiện lên đầy xảo trá và phóng đãng, đôi mắt sáng của cô trông hân hoan tàn ác. Chỉ có buổi sáng cậu thấy đau đớn với trí nhớ lờ mờ về sự nổi loạn truy hoan đen tối, sự u ám và với cảm giác bẽ bàng của cảm giác vượt qua giới hạn.
Stephen quay lại với những suy nghĩ miên man. Những buổi tối mùa thu mờ đục dẫn cậu từ phố này sang phố khác giống như trước đó vài năm khi cậu tha thẩn dọc theo những đại lộ ở Blackrock. Nhưng không có một ảo ảnh nào của những khu vườn nhỏ xinh xắn hay những ánh sáng nhẹ nhàng xuyên qua khung cửa mang lại một cảm giác bình yên cho cậu. Chỉ thỉnh thoảng, khi khát vọng của cậu ngừng chảy, khi sự xa hoa đã làm cho cậu yếu mềm hơn, hình bóng của nàng Mercedes băng qua kí ức cậu. Một lần nữa, cậu nhìn thấy ngôi nhà trắng nhỏ bé và một khu vườn có các bụi hoa hồng bên đường đi và dẫn đến những ngọn núi và cậu nhớ lại cử chỉ kiêu hãnh buồn rầu của sự khước từ mà cậu đã làm khi đứng cùng cô ấy trong khu vườn le lói ánh trăng sau những năm tháng xa cách và phiêu lưu. Trong những khoảnh khắc đó, những câu văn nhẹ nhàng của Claude Melnotte dâng lên môi của cậu và làm cậu đỡ bồn chồn hơn. Một linh cảm thoáng qua chạm vào cuộc hò hẹn mà cậu chờ đợi, và thay vì thực tế khủng khiếp nằm giữa hi vọng cậu hiện tại và sau này, của cuộc gặp gỡ linh thiêng mà cậu đã tưởng tượng với sự rụt rè bẽn lẽn, sự yếu đuối và thiếu kinh nghiệm của chính cậu.
Những khoảnh khắc như thế đã qua và những ám ảnh ham muốn lại hiện lên một lần nữa. Những vần thơ phát ra từ môi cậu, những tiếng kêu không rõ, và những lời ác độc không thể nói trong tâm trí cậu phải lướt qua. Huyết quản cậu đang sôi sùng sục. Cậu lang thang khắp những khu phố lầy lội, tối om; nhòm ngó vào những ngõ hẻm tối đen và những ô cửa, hăm hở lắng nghe bất cứ âm thanh nào. Cậu than vãn với chính mình giống như con thú lang thang tìm mồi. Cậu muốn phạm tội với một bản tính khác của cậu, ép buộc người khác phạm tội cùng cậu hả hê cùng cô ấy trong tội lỗi. Cậu nhìn thấy vài vóc dáng tối đen đang di chuyển không cưỡng lại được về phía cậu từ bóng tối, một vóc dáng huyền ảo và thì thầm như một dòng nước lũ cuốn toàn bộ cậu vào trong đó. Tiếng thì thầm bao quanh đôi tai cậu giống như tiếng động của vô số người đang ngủ: những dòng chảy huyền ảo xuyên vào cơ thể cậu. Tay cậu nắm chặt run lên và răng thì nghiến lại do cậu chịu đựng sự đau đớn xuyên vào cơ thể cậu. Cậu duỗi tay ra trên phố để ôm nhanh lấy một hình thể mong manh đang lảng tránh và xúi giục cậu. Rồi cậu cất tiếng kêu từ trong cổ họng. Đây là tiếng kêu mà cậu đã thấy rất kì lạ trong một thời gian dài. Tiếng kêu cậu bật ra giống như một tiếng than khóc của nỗi thất vọng từ địa ngục thẳm sâu nơi những người chịu đau đớn và chết đi trong lời khẩn cầu rền rĩ: một tiếng gào thét cho sự buông thả trái đạo lí, một tiếng khóc vang do sự bắt chước mù quáng những chữ viết nguệch ngoạc mà cậu đọc được trên bức tường rỉ nước chỗ đi tiểu.
Cậu đi lang thang tới mê cung của những khu phố nhỏ bé và bẩn thỉu. Từ những con đường hôi thối, bẩn thỉu, cậu bất chợt nghe những tiếng tranh cãi khàn khàn cộng với những lời lè nhè của những ca sĩ say xỉn. Cậu bước tiếp, mất hết can đảm, băn khoăn tự hỏi xem cậu có lạc đường đi đến khu của người Do Thái. Những quý bà và các cô gái mặc những bộ váy áo dài sặc sỡ đi trên phố từ nhà này sang nhà khác. Họ ung dung, nhàn nhã và thơm đậm mùi nước hoa. Một cơn rùng mình chộp lấy cậu và mắt cậu mờ đi. Một ngọn lửa ga vàng bùng lên trước đôi mắt lo âu tương phản với bầu trời mờ hơi nước u ám, ngọn lửa như thể đang cháy trước bệ án thờ. Trước những cánh cửa và trong những phòng lớn sáng đèn, những nhóm người đang tụ tập và xếp hàng như thể đang chuẩn bị cho một nghi thức gì đó. Cậu đang ở trong một thế giới khác: tỉnh dậy sau một giấc ngủ hàng thế kỉ.
Cậu vẫn đứng ở giữa đường, tim cậu đang la hét phản đối tâm trí rối bời. Một cô gái trẻ ăn vận một bộ váy hồng đặt tay cô vào cánh tay cậu, ngăn cậu lại và nhìn chằm chằm vào khuôn mặt cậu. Cô ta hớn hở chào:
– Ngủ ngon nhé anh thân yêu!
Phòng cô ấm áp và thanh nhã. Một con búp bê to lớn ngồi dạng chân trên chiếc ghế có tay dựa bên cạnh chiếc giường. Cậu cố gắng ra lệnh cho lưỡi cậu nói rằng cậu dường như rất thoải mái, quan sát cô khi cô cởi nút chiếc váy dài, nhận thấy những chuyển động kiêu hãnh tỉnh táo của cái đầu xức hương thơm.
Khi cậu im lặng đứng ở giữa căn phòng, cô ấy choàng lên người cậu và ôm cậu trong niềm hứng thú thực sự. Vòng tay tròn ôm cậu vừa vặn, nhìn khuôn mặt cô đưa lên gần mặt cậu trong sự thản nhiên điềm tĩnh và khuôn ngực cô nâng lên hạ xuống đem lại cảm giác ấm áp bình yên, nhưng tất cả lại bùng lên sự xúc động trào nước mắt cuồng loạn. Những giọt nước mắt của sung sướng và thỏamãn tràn lên đôi mắt vui sướng của cậu; môi cậu hé mở nhưng không thể nói được.
Cô ấy quàng tay qua mái tóc cậu, gọi cậu trìu mến là một đứa trẻ tinh nghịch.
– Hãy hôn em đi! – Cô ấy nói.
Môi cậu không thể mở ra để hôn cô. Cậu muốn được ghì chặt trong vòng tay cô, được vuốt ve âu yếm từ từ chậm chạp. Trong vòng tay cô, cậu cảm thấy bỗng nhiên trở nên mạnh mẽ, bạo dạn và tự tin vào chính bản thân. Nhưng môi cậu không hề muốn hôn cô ấy.
Với một chuyển động bất ngờ, cô cúi đầu xuống và đưa môi cô vào môi cậu và cậu đọc được ý nghĩa của những chuyển động đó trong ánh mắt cương nghị, thẳng thắn. Thế là quá nhiều cho cậu. Cậu nhắm mắt lại, để mặc cậu cho cô ấy, thân thể và tâm hồn, không một ý thức nào về thế giới nhưng cảm nhận được sức ép đen tối mơ hồ của đôi môi mềm mại biệt li của cô. Chúng ép vào bộ óc cậu như vào đôi môi như thể chúng là phương tiện của những lời nói không rõ ràng, và giữa chúng cậu cảm nhận được một áp lực vô hình, đen tối hơn tội lỗi đã bất tỉnh, mềm mại hơn âm thanh hay mùi vị.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.