Chỉ Dòng Sông Biết

Chương 25



“Rõ ràng, bà ta cảm thấy bị sỉ nhục hết mức khi con đề nghị giúp đỡ,” Emma nói. “Theo những gì con miêu tả thì bà ta đã từng là một người đáng kính được nuôi dạy trong giới thượng lưu. Hẳn nhiên những mảng danh dự còn lại bị tiêu tán đã khiến bà ta từ chối lòng tốt và sự hào phóng của con.”

“Con nghĩ là bá nói đúng,” Louisa nói, nghĩ về cuộc đụng độ với bà điếm đêm qua. “Bà ta quả thật có tỏ ra bị xúc phạm ghê gớm.”

Họ đang ngồi trong thư viện, uống trà. Ban mai trời trong trẻo, nhưng đầu chiều sương đã lần về, lẩn lút vào các đường phố quanh quảng trường Arden và đọng lại trong công viên nhỏ.

“Đó là một câu chuyện đáng buồn nhưng lại quá phổ biến.” Emma nhấc ấm trà lên. “Báo chí giật gân không ngớt đưa tin về những chuyện như vậy. Có bao nhiêu đường dẫn một bà đáng kính phải ra đứng đường. Cái chết hoặc bệnh tật của chồng, phá sản, nợ nần, ly dị, không có gia đình – bất cứ nguyên nhân nào trong đó cũng đủ khiến người đàn bà qua một đêm là tay trắng.”

“Con biết,” Louisa đáp khẽ.

“Tất nhiên là con biết rồi, con yêu.” Emma nhướng mày. “Nhưng đừng quên rằng dù đã rơi vào cảnh quẫn bách đến hai lần khác nhau, lần nào con cũng gượng dậy đứng vững mà không cần nhờ đến đứng đường.”

“Con gặp may thôi.”

“Không phải,” Emma nghiêm giọng nói. “Đó hoàn toàn không phải là do may mắn. Con là một cô gái rất có tài xoay xở, con à. Khi cha con chết và các chủ nợ tịch thu tất cả ngoài tủ sách, con đã tự cứu mình bằng cách khởi sự kinh doanh. Sau sự việc hãi hùng với Huân tước Gavin, con lại tự vực dậy lần nữa bằng cách đổi tên, chế ra một chứng nhận nhân thân giả cho mình rồi hỏi việc ở một hãng môi giới. Chính sự khôn khéo và quả quyết của con, chứ không phải vận may, đã cứu con khỏi đường phố, Louisa. Đừng bao giờ quên điều đó.”

Louisa mỉm cười mệt mỏi. “Bá lúc nào cũng là nguồn động viên tinh thần tuyệt vời, Emma à.”

Emma tó mò nhìn nàng. “Có gì khiến con phải bận tâm về người đàn bà gặp trong công viên đêm qua thế?”

“Con không biết thật sự là thế. Con không tin là bà ta đã ở lâu trong tình cảnh đáng thương hiện tại. Áo choàng của bà ta có vẻ là loại sang và rất thời trang, cả mạng lẫn găng tay cũng thế. Nếu biết mình sắp rơi vào túng thiếu sau khi chồng chết, tại sao bà ta phải bỏ nhiều tiền vào đồ để tang kiểu cách như thế làm gì?”

“Có thể đến khi đám tang đã qua bà ta mới lường hết tầm cỡ khủng hoảng của mình. Với đàn bà vẫn thường thế mà. Chồng họ chẳng bao giờ nói chuyện tiền nong với họ. Các bà góa chỉ nhận ra tình thế thực của mình khi đã quá muộn.”

“Vâng. Mà về phương diện đó thì cũng chẳng thể làm được gì hơn.” Louisa đặt chén trà sang một bên rồi mở cuốn sổ nhỏ. “Nếu bá không phiền thì cho phép con hỏi thêm vài câu về Victoria Hastings.”

“Tất nhiên rồi.” Emma hơi nghiêng đầu dò hỏi. “Sao con lại để ý tới bà ta?”

“Ông Stalbridge ngờ rằng Hastings cũng giết cả bà ta như đã giết Fiona Risby. Con nghĩ rằng bởi chúng ta không gặp may khi đi tìm động cơ dẫn đến cái chết của Fiona, có lẽ là nên thử suy đoán vì sao Hastings lại giết vợ. Con cảm thấy có mối liên hệ nào đó giữa hai vụ sát nhân này.”

Chiều hôm đó nàng theo con đường quen thuộc qua một công viên lớn tới hiệu sách Digby. Sương giăng đặc lại thành một biển lớn dường như không xuyên qua nổi, nhưng nàng lại rành đường.

Công viên thuộc về một mình nàng. Thời tiết hôm nay không dành cho tụi trẻ thả diều hay các vú em bế cô chiêu cậu ấm.

Khi đã sang tới đầu bên kia công viên, nàng thấy đường phố chỉ hơi đông đúc. Xe ngựa và xe khách lừ lừ tiến qua màn sương như một đội thuyền ma kêu lẻng kẻng. Khách bộ hành không thấy mấy trên đường.

Nàng vội vàng qua đường vào đến hiệu sách, gồng mình chờ nỗi sầu muộn giáng xuống và cơn rùng mình rất khẽ nhưng băng giá vẫn đến với nàng mỗi khi bước vào hiệu sách Digby. Hình ảnh những giá sách chất đầy ứ cùng mùi bìa da lúc nào cũng khuấy động lại những hồi ức xưa và những sợ hãi gần đây.

Albert Digby, nhỏ thó, lưng khòm, bắt đầu hói, bỏ tờ Điệp báo chớp nhoáng số ngày hôm nay mà ông ta đang săm soi xuống để nhìn Louisa, đội mắt cú liếc dưới vành mục kỉnh. Như thường lệ, ông ta hết sức cáu kỉnh khi có khách hàng tới quấy quả mình.

“Ồ, hóa ra là Bryce.”

Nàng chọn Digby làm người săn sách cho mình bởi hai lý do. Thứ nhất vì ông ta là một chủ tiệm sách cực kì thông tuệ và quen biết hết sức rộng rãi trong số những nhà sưu tập. Lý do thứ hai nàng chọn hiệu sách Digby là vì nàng chưa bao giờ trực tiếp giáp mặt ông ta trong hai năm mở hiệu sách Barclay, thế nên ông ta không thể nhận ra nàng được.

“Chào buổi chiều, ông Digby.” Nàng đến bên quầy. “Tôi có nhận được tin của ông. Tôi rất mừng được biết cuối cùng ông cũng nắm được cuốn Aristotle của Woodson.”

“Không dễ gì tìm được đúng cái bản bà muốn. Nhưng tôi cũng lấy được nó về cho bà với giá thỏa đáng, dù là chính tôi nói thế đi nữa.

“Tôi rất trọng khả năng điều đình của ông, thưa ông Digby.”

“Phì, thằng con thừa kế của Glenning chẳng biết cái quái gì về sách, mà anh ta cũng chẳng thèm học hỏi. Anh ta chỉ cần bán tháo từng cuốn sách cha để lại là sung sướng rồi. Anh ta chỉ quan tâm đến mỗi khoản tiền nhận được khi ông cụ đi ngắm củ cải dưới đất.”

Digby biến mất dưới quầy. Khi ngồi thẳng lên trở lại, ông ta cầm trong tay một gói bọc giấy nâu. Ông ta đặt xuống mặt bàn sứt sẹo rồi chậm chạp mở ra. Một cuốn sách bọc bìa da màu đỏ dần hiện ra.

Toàn thân nàng run lên vì hi vọng. Nhìn rất giống cuốn sách nàng cần. Nàng cầm sách lên, từ từ mở ra, và bắt đầu giở từng trang, gần như không dám hi vọng hơn.

Khi nàng nhìn thấy những ghi chú viết tay li ti, nàng biết chắc đó là cuốn sách của mình. Đó không chỉ là một cuốn Aristotle của Woodson, mà chính là bản nàng buộc phải bán đi năm ngoái, bản của cha nàng. Một trong hai cuốn nàng đã nhét vào vali trong cái đêm kinh hoàng ấy.

Nàng gấp sách, cố không để lộ sự phấn khích của mình. “Tôi mừng hết sức. Làm thế nào ông dò ra nó được?”

Ông già tỏ ra ranh mãnh. “Những người làm sách chúng tôi có cách riêng của mình, thưa bà Bryce.”

“Tôi hiểu. Còn về cuốn Milton…”

“Bà nên quên cuốn đó đi thì hơn. Tôi đã nói với bà rồi, người chủ mới nói rõ ràng rằng sẽ chỉ bán đi nếu được giá. Chỗ thân tình mà nói thì, bà Bryce ạ, bà không đủ tền mua cuốn đó đâu.”

“Vâng, thế nhưng, tình thế của người ta cũng thay đổi như khi Glenning chết để lại cuốn Aristotle cho một người con không cần nó và cũng không biết giá trị của nó. Tôi sẽ vô cùng biết ơn nếu ông thi thoảng nhắc lại với người chủ cuốn Milton rằng ông ta có một khách hàng rất quan tâm đến cuốn sách.”

“Tôi sẽ làm như bà muốn, bà Bryce ạ, nhưng chỉ phí thời gian của tôi thôi.”

Nàng giữ nguyên nụ cười trên mặt. “Cảm ơn ông.” Nàng liếc sang tờ báo…

Nàng liếc sang tờ báo trên quầy. “Tôi thấy ông cũng đọc tờ Điệp báo chớp nhoáng.”

Ông ta nhìn theo nàng và nhăn mặt. “Loại ba xu, cũng như cả lũ còn lại. Tất nhiên trừ tờ Thời báo. Nhưng tôi mua khi nào có bài của I.M.Phantom trên đó.”

“Tôi hiểu.”

“Một vụ thú vị về cái chết của một quý ông trẻ tuổi số hôm nay. Bề ngoài cho thấy ông ta tự tử. Có vẻ như nạn nhân mắc một khoản nợ cờ bạc khổng lồ. Nhưng I.M.Phantom nói đang có những đồn đại về chuyện đây có thể là vụ giết người. Điều này khiến người ta phải tự hỏi có bao nhiêu vụ giết người khác không được lật tẩy chỉ vì trông có vẻ như nạn nhân đã tự sát.”

“Phải, đúng thế.”

Nàng trả tiền cuốn sách rồi ra ngoài. Sương bây giờ đã dày đến mức khó mà nhìn được ra các vạt cây trong không gian công viên trải rộng. Nàng bứt rứt tự hỏi liệu có nguy cơ lạc lối trong sương dày đến thế không. Nhưng nàng lo gì cơ chứ? Chỉ cần đi theo đúng đường, nàng sẽ ổn thôi.

Nàng qua đường rồi dấn mình vào biển sương.

Nàng ước chừng đã đi được một phần ba quãng đường qua công viên thì nghe thấy tiếng giày nghiến khẽ lên đám sỏi sau lưng mình. Đôi tay bọc trong găng của nàng chợt cóng lại. Môt luồng điện cực nhỏ lướt qua gáy nàng, khiến mọi sợi lông tơ đều dựng lên.

Nàng dừng bước rồi quay ngoắt lại, mắt dõi khắp màn sương xám không hình thù. Chẳng thể nhìn thấy gì trong sương ngoài những đường nét lờ mờ tối của những cái cây gần nhất. Nàng chăm chú lắng nghe vài giây, nhưng không có tiếng bước chân nào nữa.

Nàng lại bắt đầu đi tiếp, bước chân hối hả. Nàng gần như phát hoảng, chuyện này ngớ ngẩn hết sức. Nàng có vấn đề gì vậy? Có người nào khác trên đường đằng sau nàng. Thế thì đã sao? Công viên này là của chung mà.

Nàng băng khoăn không biết cảm giác nhột nhột này có phải là tín hiệu cho thấy thần kinh nàng bắt đầu suy giảm. Nàng phải kiềm chế lại.

Tiếng bước chân lại vang lên sau nàng. Mặc bài giáo huấn về tự chủ vừa răn dạy bản thân, nỗi lo sợ của nàng mỗi lúc một tăng lên. Từng phân bản năng nàng đang xúi giục nàng bỏ chạy, nhưng nếu là một ngưới đàn ông đang theo gót và nếu hắn quyết định đuổi bằng được, chạy cũng chẳng ích gì cả. Vận một chiếc váy phồng, dù là một chiếc cắt theo những nguyên lý thiết kế váy vóc hiện đại nhất đi chăng nữa, nàng chẳng thể mong chạy thoát khỏi một người đàn ông mặc quần.

Nàng chợt hiểu ra rằng bất kì kẻ nào ở sau nàng thì hắn cũng không thể thấy nàng rõ hơn nàng thấy hắn. Ý nghĩa đó vượt lên trên con triều sợ hãi đang dâng trào. Điều khôn ngoan lúc này là rời khỏi con đường sỏi, nấp trong lùm cây, để kẻ kia vượt qua. Nếu đó chỉ là một khách bộ hành vô tư khác thì sẽ chẳng hề gì. Còn nếu cái kẻ đằng sau nàng kia đang toan tính điều xấu, hẳn hắn sẽ chỉ đồ rằng nàng vẫn ở phía trước và cứ thế đi tiếp. Dù thế nào thì nàng cũng sẽ được an toàn.

Nàng chạy ra khỏi con đường lần tới những bóng đen thẫm báo hiệu một rặng cây, tiếng chân nàng bị nuốt mất trong cỏ ướt. Khi tới được những gốc cây che chở, nàng quay lại nhìn về phía đường. Cái hình dạng ma quái của một người mặc áo choàng đen, mũ kép sụp xuống đầu bà ta, hiện ra giữa màn sương.

Người đàn bà choàng áo dừng lại như đang cố lắng nghe, và sau một quãng tưởng như vô tận, đột ngột quay lại rồi bước thoăn thoắt về phía mà bà ta đã đến. Bà ta biến mất trong biển sương gần như tức khắc.

Lousia đứng sững mất hồi lâu. Chắc chắn không thể là người nàng đã nhìn thấy ở quảng trường Arden đêm qua được. Áo choàng đen cái nào trông cũng giống cái nào. Nhưng nàng vẫn không rũ nổi ý nghĩ người quả phụ đứng đường đã theo dõi nàng hôm nay.

Khi mạch đã chậm xuống tới một nhịp có vẻ như bình thường, nàng rời khỏi nơi ẩn náu giữa lùm cây, giẫm lại những bước về tới con đường sỏi, và lần nữa lại đi về phía quảng trường Arden.

Mới đi được vài bước, nàng lại nhìn thấy một hình người khác nổi lên giữa màn sương. Lần này là đàn ông, mặc áo khoác màu xám đậm.

“Phu nhân Ashton nói nhiều phần chắc em sẽ quay lại bằng cách xuyên qua công viên,” Anthony nói khi đi về phía nàng. “Anh nghĩ nên tới đón em.”

Cảm giác nhẹ nhõm tràn ngập nàng, tiếp đó là một cơn khoan khoái mê người. Chàng trông thật mạnh mẽ và rắn rỏi đến an lòng, và đầy quyền năng, con sói phong nhã của nàng. Nàng chỉ muốn lao mình vào vòng tay chàng.

“Trời đất, anh khiến em giật mình đấy,” nàng nói, kìm lại những cảm xúc mãnh liệt trong mình.

Chàng ngưng lại trước mặt chàng, mày nhướng lên. “Vô cùng xin lỗi. Trông em quả có chút rối loạn. Có chuyện gì vậy?”

“Không có gì đâu.” Nàng ngoái đầu nhìn lại. Không còn dấu vết gì của hình hài choàng áo. “Mới ban nãy, em nhìn thấy một người đàn bà, nhưng bà ta đi rồi. Không sao đâu, không có gì quan trọng cả.”

“Cho phép anh mang giúp em.” Anthony cầm lấy gói nàng đang cặp trong tay. “Phu nhân Ashton nói em đi sắm đồ. Theo anh thấy thì em đã mua được cuốn sách rồi.”

“Vâng.”

“Một tiểu thuyết diễm tình đầy những hẹn hò vụng trộm và tương tự?”

“Không phải.” Bực tức vì lời chọc ghẹo, nàng quắc mắt nhìn. “Anh đang làm cái gì ở đây vậy?”

Chàng nắm lấy tay nàng. “Sáng hôm sau, người đàn ông không tới thăm người phụ nữ thì không thể gọi là quân tử được.”

“Sáng hôm sau cái gì?” nàng hỏi, tâm trí vẫn đặt cả vào người đàn bà choàng áo.

Miệng chàng nhệch ra vẻ sầu não. “Em xéo nát trái tim anh, Louisa. Chắc chắn em không thể quên màn dạo giữa của chúng ta trong nhà kính nhà Lorrington sớm thế chứ?”

Hơi thở nàng nghẹn lại trong họng. Nàng cảm thấy sức nóng đang dồn lên má mình.

“Ồ, chuyện đó,” nàng nói giọng nửa như tắc thở.

“Cứ tiếp tục làm vậy đi, thưa tình nương, và tôi sẽ lún thẳng xuống đất sâu dưới sự bẽ bàng đang trĩu nặng lên mình.”

“Ôi Chúa ơi…”

“Đêm qua em gọi anh là Anthony. Anh thích vậy lắm.”

“Anh cam đoan với em, nếu mục đích của em là bắt anh cảm thấy tất thảy sức nặng của thất bại thảm hại mình gây ra đêm qua thì không cần nói thêm lời nào nữa. Anh đã biết rõ mình đã làm hỏng bét như thế nào. Hôm nay, anh đến đây một phần là để xin em thứ lỗi.”

“Anh không nên tự trách mình,” nàng nói mau. “Em đã nghĩ rất nhiều về sự việc đó, và giờ đây em thấy mình đáng phải gánh lời chê trách nhiều hơn.”

“Bởi em đã không cảnh báo anh rằng em thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực cụ thể này?”

Nàng quắc mắt. “Không, vì đã trông đợi quá nhiều vào cái việc ấy. Em nghĩ mình đã đặt quá nhiều lòng tin vào những miêu tả hoa mỹ của các tiểu thuyết gia và các vở kịch diễm tình. Tất cả những thứ hay ho vô nghĩa về choáng váng mê ly và xúc cảm siêu phàm đó. Lẽ ra em phải hiểu là hiện thực sẽ khác xa một trời một vực.”

“Theo ý anh, tốt hơn là em nên tạm hoãn phán xét về chủ đề này lại cho đến khi thực hiện thêm một vài thí nghiệm nữa.”

“Hừm.”

Chàng bóp cánh tay nàng chặt hơn. “Và anh phải đòi hỏi rằng những thí nghiệm đó chỉ được thực hiện cùng anh mà thôi.”

Vì lý do nào đó, thái độ đe dọa trong giọng chàng lại khiến nàng hào hứng. Có phải chàng đang ghen không?

“Tại sao?” nàng thản nhiên hỏi. “Rõ ràng về mặt khoa học thì tốt hơn là thí nghiệm với nhiều mẫu quý ông khác nhau.”

Chàng dừng bước, khiến Louisa cũng phải dừng lại theo.

“Em trêu trọc anh,” Anthony bình tĩnh nói.

“Tất nhiên là thế.”

“Đừng có làm thế. Khi nói về vấn đề này.”

“Được thôi.” nàng hơi mỉm cười.

“Nếu anh nói sai thì cứ sửa, nhưng đêm qua có cảm giác em không phản đối những cái hôn của anh.”

Nàng đỏ mặt. “Không. Riêng cái đó thì tương đối hài lòng.”

“Anh nhẹ mình khi nghe điều đó.”

Chàng luồn bàn tay ấm áp mạnh mẽ qua gáy nàng, mạnh tay kéo nàng sát lại mình rồi hôn nàng. Miệng chàng phả lên các giác quan nàng một cơn tê say đắm. Sức nóng và sự phấn khích lại bùng lên trong nàng. Nàng vòng bàn tay còn lại qua cổ chàng và buông mình cho những cảm giác kích thích đang thổi bùng các giác quan nàng. Có lẽ nàng sắp nghiện những cái hôn của Anthony.

Khi chàng buông nàng ra một giây sau, nàng cũng thấy như nghẹt thở, nhưng lần này không phải vì sợ.

“Em cần phải nói là, các tiểu thuyết gia có thể sai lầm về công đoạn cuối của sự việc,” nàng tuyên bố, hài lòng khôn tả. “Nhưng họ nói khá đúng khi viết về những khoái lạc của nụ hôn vụng trộm.”

Anthony lại mỉm cười bí ẩn. “Anh sẽ coi đây là dấu hiệu tiến bộ.” Chàng nắm lấy tay nàng và kéo đi băng băng trên đường. “Nhưng phải tạm hoãn các thí nghiệm tương lai lại thôi. Chúng ta có việc cấp bách hơn rồi.”

“Cuộc điều tra sao?”

“Cả cái đó nữa. Tiện đây, giờ anh đã có lý do rất thuyết phục để tin rằng Hastings không giết Thurlow.”

“Cái gì?”

“Hắn đã cử người theo dõi Thurlow. Anh nghĩ hắn sẽ không làm thế nếu định giết tên kia.”

“Trời đất ơi. Thế nghĩa là hoặc Thurlow thực sự kết liễu đời mình, hoặc…”

“Hoặc có kẻ khác đã giết hắn. Trước mắt anh nghiêng về giả thiết thứ hai, nhưng đầu tiên chúng ta phải giải quyết một lời mời cái đã.”

Nàng chậc một tiếng bực bội. “Lại một sự kiện giao tế chán ngắt nữa chứ gì?”

“Không. Anh không dám đảm bảo em sẽ thích sự kiện này, nhưng anh hứa nó sẽ không buồn tẻ đâu.”

“Anh đang nói thế?”

“Mẹ anh mời em tới dùng trà chiều mai.”

Nàng đứng sững lại, kinh hoàng tột độ. “Mẹ của anh. Không thể có chuyện bà ấy muốn gặp em được”

“Đó là chuyện không tránh khỏi. Bà đã nghe đồn đại về chúng ta.”

“Nhưng chúng ta đang ở trong một cuộc tình vụng trộm. Các bà mẹ không bao giờ muốn mời đến nhà những người đán bà đang có mối quan hệ vụng trộm với con trai họ.”

“Em chưa biết mẹ anh đâu.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.