Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ
CHƯƠNG 18: TÀU CHỢ ĐI MAYMYO
Châu Á chào buổi sáng bằng việc giặt giũ hăng say như đánh nhau. Chuyến tàu sớm đưa bạn đi qua những người dân và cứ thấy họ giặt cứ như thể đang luyện tập chuẩn bị cho một tội ác nào đó – người Pakistan giũ đống quần áo ướt sũng bằng gậy, người Ấn Độ quật dhoti vào đá như thể đang đập đá (đây là cách mà Mark Twain định nghĩa người Ấn Độ), trong khi những người Ceylon thì mắm môi mắm lợi vắt kiệt khăn lungi. Ở Thượng Miến Điện, phụ nữ ngồi xổm thành từng nhóm thì thầm với nhau một cách rất bí ẩn bên những dòng suối sủi bọt, đập phẳng đồ giặt của họ bằng những mái chèo gỗ to, lũ trẻ con lom khom loạng choạng đi giữa những khe đá, những cô gái ngực nhỏ, quấn xà rông đến nách một cách e lệ và giản dị, đội những thùng nước trên đầu. Trời còn âm u nhiều mây và bắt đầu có sương mù khi chúng tôi rời Mandalay, lão già đặt một bọc vải gọn gàng trên đầu gối ngồi cạnh tôi cứ nhìn vào các cô gái đang tắm.
Nhúng những lọn tóc vào thùng
Dày như bờm ngựa, mướt đen và bóng loáng
– Làm sao không thấy đôi mắt đục lão già rực sáng
Ngời ngời như mắt tên cướp Barbary
(Sáng như thế, nếu hắn để người ta nhìn thấy)
Phút chốc, tôi đã nghĩ đến việc nhảy khỏi tàu, rồi cầu hôn, vứt bỏ cả cuộc đời để theo một trong những tiên nữ ấy. Nhưng tôi vẫn ngồi yên trên ghế.
Những dòng suối cuồn cuộn, bọt tung trắng xóa, cho thấy đã có mưa lớn trước đó; chúng tôi đã bỏ lại cái nóng chảy mỡ cùng hàng cây cọ đầy bụi bặm ở Mandalay, đi lên sườn núi qua những rừng thông, nơi những ngôi chùa có đỉnh tháp mạ vàng, mô phỏng hình dáng của cây thông, vươn lên từ cánh rừng xanh thẳm. Một đám mây trắng như quả khí cầu dừng lại trên một nhà ga, chúng tôi đi ra khỏi đó và bắt gặp những người dân lam lũ hơn, toàn thân lấm lem bùn đất, gánh những chiếc thùng trên vai. Một cơn mưa nhỏ bắt đầu rơi và đoàn tàu đi chậm đến mức tôi có thể nghe thấy tiếng những giọt mưa tí tách trên cây lá mọc bên đường ray.
Tại các nhà ga đầu tiên nằm trên dốc núi, những người đàn bà bê khay bán đồ ăn sáng cho hành khách: cam, đu đủ cắt lát, bánh rán, lạc và chuối. Một cô bán một thứ gì đó nâu bóng như hạt gì đó. Tôi ra hiệu gọi cô ta lại gần để xem là thứ gì. Đó là những con côn trùng béo ngậy bị xiên vào que – châu chấu chiên. Tôi hỏi ông già ngồi cạnh tôi xem ông có thích một ít không. Ông trả lời lịch sự rằng ông đã ăn sáng rồi và dù sao thì ông cũng không bao giờ ăn côn trùng. “Nhưng những người địa phương thì rất thích ăn chúng.”
Hình ảnh những con châu chấu chiên đã khiến tôi chán chẳng muốn ăn uống gì, nhưng một giờ sau đó, cơn đói trở lại dữ dội như dông bão. Tôi đứng gần cửa bắt chuyện với một người Miến Điện đang trên đường đi Lashio thăm gia đình. Anh ta cũng đang đói. Anh ta nói rằng chúng tôi sắp đến một ga có thể mua thức ăn.
“Tôi thích uống chút trà,” tôi bảo.
“Nhưng tàu dừng nhanh lắm – chỉ vài phút thôi.”
“Nghe này, sao anh không đi mua thức ăn còn tôi kiếm đồ uống gì đó nhỉ? Như thế đỡ tốn thời gian hơn.”
Anh ta đồng ý, nhận lấy ba kyat tôi đưa, và khi tàu dừng thì chúng tôi nhảy ra – anh ta đi tới quầy thực phẩm, tôi đi tới một khu tường rào treo nhiều chai lọ. Người bán hàng rong giải thích với một nụ cười xin lỗi rằng tôi thể mang cốc trà của anh ta đi, vì vậy tôi uống một cốc tại chỗ và mua hai chai soda. Khi lên tàu tôi không thể tìm thấy anh người Miến Điện kia đâu, cho tới tận sau khi tàu bắt đầu lăn bánh thì anh ta mới xuất hiện, thở không ra hơi, mang đến hai gói lá cọ buộc dây. Chúng tôi mở nắp chai bằng bản lề cửa, đứng thích khuỷu tay vào với nhau ở cuối toa và mở các gói lá cọ ra. Có gì đó giống nhau ở bên trong, một xiên gỗ với ba vật đen ngòm cắm vào – đó là các miếng thịt cháy. Không chỉ là các xiên thịt này được tạo hình không đúng cách, mà đúng ra là chúng được tạo hình sai theo cách y hệt nhau. Các xiên thịt được nhồi giữa một nắm cơm.
“Tiếng Miến Điện chúng tôi gọi đó là…” Anh ta nói ra từ trong tiếng Miến Điện.
Tôi săm soi mấy xiên thịt. “Có phải từ đó là cánh?”
“Vâng, đây là thịt chim.”
Và rồi tôi thấy những cái đầu bé tí, cái mỏ, những đôi mắt cháy rụi và những cái móng sém đen trên cái chân khẳng khiu.
“Anh có thể gọi đây là thịt chim sẻ,” anh ta nói.
Có thể chúng tôi gọi đây là chim sẻ, nhưng tôi nghĩ sao chúng trông bé đến thế khi không có lông. Anh ta rút một con ra khỏi cái xiên, tọng cả vào mồm và gặm rau ráu đầu, chân, cánh, cả con chim; anh ta vừa nhai vừa mỉm cười. Tôi véo một miếng thịt nhỏ từ con chim sẻ của tôi ăn thử. Vị cũng không tồi, nhưng thật khó để ăn một con chim sẻ ở Miến Điện mà không bị những con chim bay nhanh như tên bắn riếc móc. Tôi liều ăn cơm vậy. Tôi quay trở lại chỗ ngồi, vì vậy anh kia không nhìn thấy tôi vứt chỗ thịt chim còn lại đi.
Ông già ngồi cạnh tôi hỏi: “Cậu nghĩ tôi bao nhiêu tuổi. Đoán đi.”
Tôi nói sáu mươi trong khi nghĩ ông bảy mươi.
Ông lão ngồi thẳng lên. “Sai rồi! Tôi tám mươi nhé. Thế này, tôi đã qua sinh nhật lần thứ bảy chín, tức là tôi đang ở tuổi tám mươi.”
Đoàn tàu hết lùi lại tiến trên những khúc đường cong đột ngột như những đoạn trên đường từ Simla đi Landi Koral. Tàu thường dừng lại mà chẳng có lý do rõ ràng gì, rồi sau đó lại khởi hành mà không kéo còi cảnh báo; những người Miến Điện nhảy ra ngoài đi giải phải chạy đuổi theo đoàn tàu, họ vén xà rông lên chạy dọc đường ray trong khi bạn bè trên tàu hò hét. Sương mù, cơn mưa và những đám mây lạnh sà xuống thấp khiến người đi tàu cảm thấy như đang trong buổi sáng sớm, trời lờ mờ và lạnh như trước lúc bình minh, trời cứ thế này kéo dài tới tận trưa. Tôi mặc thêm áo sơ mi bên ngoài áo len, rồi thêm một cái áo ấm và một cái áo mưa ni lông, nhưng tôi vẫn thấy lạnh, không khí ẩm ngấm vào đến tận xương. Đây là lúc tôi cảm thấy lạnh nhất kể từ khi rời khỏi Anh quốc.
Đột nhiên ông lão nói: “Tôi sinh ra ở Rangoon năm 1894. Cha tôi là người Ấn Độ, nhưng theo Công giáo. Vì vậy tôi được gọi là Bernard. Cha tôi là một quân nhân trong Quân đội Ấn Độ. Ông cả đời làm lính – tôi đồ rằng ông tham gia quân đội ở Madras vào những năm 1870. Ông phục vụ trong Trung đoàn Bộ binh 26 Madras và theo trung đoàn đến Rangoon năm 1888. Tôi từng có ảnh của ông, nhưng khi bọn Nhật chiếm Miến Điện – tất cả tài sản của chúng tôi bị tiêu tán hết, chúng tôi đã mất rất nhiều thứ.”
Ông lão rất háo hức nói chuyện, vui mừng vì có một người lắng nghe, chẳng cần hỏi gợi chuyện. Ông nói rất từ tốn, búng vào gói vải mỗi khi nhớ ra một câu, còn tôi thì tự ôm lấy mình trong cái lạnh và vui mừng rằng tất cả những gì ông lão cần ở tôi chỉ là thi thoảng tôi gật đầu một cái để bày tỏ mình quan tâm.
“Tôi chẳng nhớ nhiều về Rangoon, chúng tôi chuyển đến Mandalay khi tôi còn rất trẻ. Tôi còn nhớ gần như mọi thứ từ năm 1900 đến nay. Ông MacDowell, ông Owen, ông Stewart, đại úy Taylor – tôi đã làm việc cho những người đó. Tôi là bếp trưởng trong nhà bếp sĩ quan Pháo binh Hoàng gia nhưng tôi còn làm nhiều hơn là việc nấu nướng – tôi làm mọi thứ. Tôi đã đi khắp Miến Điện, phục vụ trong các trại khi họ ở trên chiến trường. Tôi có trí nhớ tốt. Tôi nghĩ thế. Ví dụ, tôi nhớ ngày Nữ hoàng Victoria băng hà. Tôi đang học lớp nhì Trường thánh Xavier ở Mandalay. Ông giáo nói với chúng tôi: ‘Nữ hoàng đã băng hà, nên hôm nay các em được nghỉ học.’ Khi đó, tôi – bao nhiêu nhỉ? – lên bảy tuổi. Tôi là một học sinh giỏi. Tôi làm bài tập, nhưng khi tôi không học nữa thì chẳng có gì để làm. Năm 1910 tôi mười sáu tuổi và nghĩ mình nên kiếm việc trong ngành đường sắt. Tôi muốn trở thành một người lái tàu. Tôi muốn lên một đầu máy, đi tới tận vùng Thượng Miến Điện. Nhưng rồi tôi thất vọng. Họ bắt chúng tôi đội những thúng than lên đầu. Đó là một công việc rất vất vả, cậu không thể tưởng tượng được đâu – nóng lắm – và tên quản lý chúng tôi, là Vander gì đó, người lai Anh-Ấn. Hắn quát chúng tôi, tất nhiên vào mọi lúc; chỉ được nghỉ có mười lăm phút để ăn trưa mà hắn cũng vẫn quát. Hắn béo và chẳng tử tế gì với chúng tôi. Hồi đó có nhiều người lai Anh-Ấn làm việc trong ngành đường sắt. Có lẽ tôi nên nói hầu hết bọn họ là người lai Anh-Ấn. Tôi đã tưởng tượng mình sẽ lái đầu máy và giờ đây tôi đang tải than! Công việc này quá nặng nhọc với tôi, nên tôi bỏ đi.
“Tôi rất thích công việc tiếp theo. Trong nhà bếp sĩ quan của Pháo binh Hoàng gia. Tôi vẫn còn một vài giấy chứng nhận, trên đó có ghi chữ RA[1]. Đầu tiên tôi phụ giúp đầu bếp rồi tôi trở thành đầu bếp. Ông đầu bếp tên Steward chỉ cho tôi cách gọt rau củ theo nhiều kiểu khác nhau, cách làm xa lát, cốc tai hoa quả, bánh kem xốp và các kiểu pha thịt. Khi đó là năm 1920 và là quãng thời gian đẹp nhất ở Miến Điện. Sau này chưa bao giờ được như thế. Hồi đó có rất nhiều thực phẩm, mọi thứ đều rẻ và thậm chí sau Thế chiến I ở Miến Điện; chúng tôi chẳng nghe thấy gì về nó – chúng tôi không cảm thấy nó. Tôi chỉ biết chút ít về cuộc chiến vì nó liên quan đến anh trai tôi. Anh ấy chiến đấu ở Basra – tôi chắc cậu biết nơi đó – Basra, ở vùng Lưỡng Hà.
[1] Pháo binh Hoàng gia Anh.
“Vào lúc đó tôi kiếm được hai mươi lăm rupi mỗi tháng. Nghe thì có vẻ không nhiều, đúng không nhỉ? Nhưng, cậu biết không, tôi chỉ mất có mười rupi để trang trải cuộc sống – tôi dành dụm chỗ còn lại và sau đó tôi mua một nông trại. Khi được trả lương, tôi được một đồng bảng vàng và một tờ mười rupi. Một đồng bảng vàng có giá trị bằng mười lăm rupi. Nhưng phải ví dụ để cho anh thấy mọi thứ rẻ như thế nào, một cái áo sơ mi chỉ có giá là bốn anna[2], thực phẩm thì dồi dào và cuộc sống rất dễ chịu. Tôi kết hôn và có bốn đứa con. Tôi làm việc ở nhà bếp sĩ quan từ năm 1919 đến tận năm 1941, khi quân Nhật tới. Tôi yêu công việc của mình. Tất cả các sĩ quan đều biết tôi và tôi tin là họ tôn trọng tôi. Họ chỉ nổi cáu khi có việc gì đó chậm không đúng thời hạn – nếu có sự chậm trễ – thì họ sẽ rất giận dữ. Nhưng chẳng có ai trong số họ tàn ác với tôi cả. Suy cho cùng, họ là sĩ quan – sĩ quan quân đội Anh quốc, cậu biết đấy – họ có tiêu chuẩn ứng xử tốt. Trong suốt thời gian đó, bất cứ khi nào dùng bữa, họ mặc đầy đủ quân phục, đôi khi có khách hoặc các phu nhân dự thì họ mặc dạ phục, đeo nơ đen. Còn các quý bà thì áo choàng dài. Tha thướt như những cánh bướn. Tôi cũng có đồng phục của mình, áo vest trắng, nơ đen và giày mềm – cậu biết cái kiểu giày mềm đó đấy. Chúng không phát ra tiếng động nào cả. Tôi có thể đi vào trong phòng mà không ai có thể nghe thấy tôi. Người ta không làm loại giày đó nữa, cái loại không phát ra tiếng động ấy mà.”
[2] Đơn vị tiền cũ của Ấn Độ – một rupi bằng mười sáu anna.
“Mọi việc cứ diễn ra như vậy trong vài năm. Tôi nhớ một đêm ở nhà ăn, Tướng quân Slim đến dự ở đó. Anh biết ông ấy đấy. Và cả Phu nhân Slim. Họ bước vào tận trong bếp. Cả Tướng quân Slim và Phu nhân Slim, một số người khác nữa, các sĩ quan và phu nhân của họ.
Tôi đứng nghiêm.
Phu nhân Slim hỏi tôi: ‘Anh là Bernard?’
Tôi trả lời: ‘Vâng thưa Qúy bà,’
Bà ấy nói rằng bữa ăn hôm đó tuyệt ngon. Hôm đó có món thịt gà phủ xốt bóng, rau và bánh xốp kem.
Tôi đáp: ‘Rất vui vì Qúy bà hài lòng.’
Tướng quân Slim nói: ‘Thế mới là Bernard chứ’ và họ đi ra ngoài.”
“Ngài Tưởng Giới Thạch và Tưởng phu nhân cũng từng tới đó. Ngài ấy rất cao và không nói lời nào. Tôi phục vụ họ. Họ ở lại hai ngày – một đêm và hai ngày. Và ngài Toàn quyền tới – Huân tước Curzon. Rất nhiều người đã tới – Công tước xứ Kent, những người từ Ấn Độ và một vị tướng khác – tôi sẽ cố nhớ ra tên ông này.
“Rồi người Nhật tới. Ôi, tôi còn nhớ việc này rất rõ! Nó như thế này. Tôi đang đứng trong bụi cây gần nhà – bên ngoài Maymyo, ở chỗ ngã ba đường. Tôi mặc một cái áo may ô và quần thụng longyi, như người Miến Điện vẫn mặc. Cái xe to lắm, với một lá cờ trên nắp ca pô – quốc kỳ Nhật, mặt trời mọc, đỏ và trắng. Xe dừng lại ở ngã ba. Tôi không nghĩ họ nhìn thấy tôi. Một người gọi tôi lại gần. Ông ta nói gì đó với tôi bằng tiếng Miến Điện.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.