“Phate à?”, Frank Bishop hỏi.
Gillette nói, “Đó là usemame của hắn – tên hiển thị trên màn hình. Có điều hắn đánh vần nó là P-h-a-t-e. Như kiểu P-h phishing, nhớ không? Kiểu của hacker”.
Tất cả nằm ở cách đánh vần, cách viết…
“Tên thật của hắn là gì?”, Patricia Nolan hỏi.
“Tôi không biết. Có vẻ như không ai biết nhiều về hắn, hắn là một kẻ đơn độc, nhưng những ai đã nghe đến hắn đều sợ chết khiếp.”
“Một phù thủy?”, Stephen Miller hỏi.
“Thực sự là một phù thủy.”
Bishop hỏi, “Tại sao anh lại nghĩ hắn chính là hung thủ?”
Gillette lật giở đống giấy đã in. “Đây là những gì tôi tìm được. Phate và một người bạn của hắn, gã nào đó tên là Shawn, đã viết một phần mềm tên là Trapdoor. Hiện tại “Trapdoor” trong giới tin học nghĩa là một lỗ hổng được gắn vào hệ thống an ninh cho phép những nhà lập trình truy cập lại vào bên trong để sửa lỗi mà không cần mật khẩu. Phate và Shawn sử dụng chính cái tên đó cho phần mềm này của họ nhưng nó hơi khác một chút. Bằng cách nào đó, chương trình này cho phép chúng thâm nhập vào trong máy tính của bất cứ ai.”
“Trapdoor”, Bishop lơ đãng. “Cũng giống như cái giá treo cổ nhỉ.”
“Giống như giá treo cổ”, Gillette nhắc lại.
Nolan hỏi, “Nó hoạt động như thế nào?”“
Gillette định giải thích cho cô bằng ngôn ngữ chuyên môn thì liếc thấy Bishop và Shelton.
– Nói dễ hiểu thôi.
Tay hacker bước đến chiếc bảng trống và vẽ một biểu đồ. Hắn nói, “Cách mà thông tin lan truyền trên mạng không giống như trên điện thoại. Mọi thứ được gửi lên mạng – email, nhạc, ảnh tải về, đồ họa trên một website – tất cả đều được tách thành những mảnh dữ liệu nhỏ gọi là các “gói”. Khi trình duyệt của bạn yêu cầu điều gì đó từ một website, nó sẽ gửi những gói dữ liệu đó lên mạng Internet. Ở đầu thu, máy chủ ghép nối lại yêu cầu của bạn, rồi gửi đi hồi đáp của nó, đã được phân thành các gói trở lại máy của bạn”.
“Tại sao phải phân nhỏ chúng?”, Shelton hỏi.
Nolan trả lời, “Như thế thì nhiều tin nhắn có thể gửi qua một đường dây trong cùng một thời điểm. Tương tự, nếu một gói tin nào đó bị thất lạc hoặc hỏng, máy tính của bạn sẽ nhận được thông báo và chỉ cần gửi lại những gói bị trục trặc mà không phải gửi lại toàn bộ tin nhắn”.
Gillette chỉ vào sơ đồ của mình rồi tiếp tục, “Những gói tin được chuyển tiếp trên Internet qua những router (Thiết bị định tuyến) là những máy tính lớn trên khắp đất nước để truyền dẫn những gói tin đến đích cuối cùng. Router có độ an toàn cực cao nhưng Phate đã đột nhập được vào vài router và cài một phần mềm packet-sniller (Một chương trình nhận dạng các gói dữ liệu) bên trong”.
“Cái đó”, Bishop nói, “chuyên tìm kiếm những gói dữ liệu cụ thể, tôi đoán là thế”.
“Chính xác”, Gillette tiếp lời. “Nó nhận biết chúng nhờ tên hiển thị – screen name, hoặc địa chỉ máy nơi những gói tin này xuất phát hoặc hướng đến. Khi sniffer phát hiện ra những gói tin đang chờ đợi, nó sẽ chuyển hướng chúng đến máy của Phate. Khi ấy, Phate sẽ cài thêm thứ gì đó vào những gói tin này.” Gillette hỏi Miller, “Anh đã từng nghe nói về kỹ thuật giấu thông tin rồi chứ?”.
Tay cảnh sát lắc đầu. Tony Mott và Linda Sanchez cũng không biết đến thuật ngữ này, riêng Patricia Nolan nói, “Tức là giấu dữ liệu bí mật bên trong, ví dụ như những bức ảnh hay file âm thanh mà bạn gửi qua mạng. Một kiểu gián điệp”.
“Đúng vậy”, Gillette xác nhận. “Dữ liệu đã mã hóa được cài ngay vào chính file đó – vì thế kể cả nếu ai đó nhận được email của bạn rồi đọc nó hay mở file ảnh mà bạn đã gửi, thì họ chỉ thấy một file hoàn toàn vô hại, chứ không phải dữ liệu bí mật. Phần mềm Trapdoor của Phate cũng vậy. Nhưng thay vì giấu thông điệp vào file – nó giấu một ứng dụng.”
“Một chương trình hoạt động?”, Nolan hỏi.
“Phải. Rồi hắn gửi nó trở lại bằng chính đường đó đến máy của nạn nhân.”
Nolan lắc đầu. Khuôn mặt xanh xao, nhợt nhạt của cô bộc lộ sự kinh ngạc và kính cẩn. Cô thì thầm đầy kính nể, “Từ trước đến giờ chưa từng có ai làm thế”.
“Thế phần mềm mà hắn gửi là gì?”, Bishop hỏi.
“Đó là một demon “, Gillette trả lời.
“Demon?”, Shelton hỏi.
“Có cả một hạng mục phần mềm gọi là bot”, Gillette giải thích, “Viết tắt của robots. Và chúng chính xác là như thế – những robot phần mềm. Một khi được kích hoạt, chúng tự chạy hoàn toàn mà không cần con người đưa vào máy. Chúng có thể chu du từ máy này sang máy khác, có thể sinh sản, trốn chạy, và giao tiếp với con người hoặc những máy tính khác, cũng như có thể tự hủy diệt chính mình”.
Gillette vẽ một biểu đồ thứ hai, để minh họa cách Trapdoor hoạt động. “Những demon cũng là một loại bot. Chúng cư ngụ trong máy tính của bạn và thực hiện những thao tác như vận hành đồng hồ và tự động sao lưu các file. Những việc lặt vặt. Nhưng demon của Trapdoor thực hiện thao tác gì đó đáng sợ hơn nhiều. Một khi vào được máy của bạn, nó sẽ sửa đổi hệ điều hành. Và khi bạn lên mạng, nó sẽ tự động kết nối máy của bạn với máy của Phate.”
“Và hắn đoạt quyền kiểm soát thư mục gốc”, Bishop nói.
“Chính xác.”
“Ôi, tệ quá”, Linda Sanchez rên rỉ.
“Ôi trời…”
Nolan cuốn lọn tóc rối quanh ngón tay. Đằng sau cặp kính hàng hiệu mỏng manh, đôi mắt cô lộ vẻ lo sợ như thể vừa nhìn thấy một tai nạn nghiêm trọng. “Vậy nếu ta lướt web, đọc tin kiểm tra email, thanh toán hóa đơn, nghe nhạc, tải ảnh, tra chỉ số chứng khoán, nói chung là ta cần kết nối trực tuyến, Phate đều có thể xâm nhập vào máy tính của ta.”
“Đúng vậy. Bất cứ thứ gì bạn nhận được qua Internet đều có thể chứa phần mềm Trapdoor quỷ quái”
“Thế còn những lớp tường lửa firewall, thì sao?”, Miller hỏi. “Sao chúng không ngăn chặn nó?”
“Tường lửa là lính canh gác máy tính, chúng chỉ ngăn chặn những file hay dữ liệu bạn không yêu cầu khỏi máy của bạn”. – Gillette giải thích, “Đó chính là điểm siêu việt của phần mềm này: Bởi vì demon được giấu trong chính dữ liệu mà ban yêu cầu, tường lửa sẽ không ngăn chặn nó”.
“Siêu việt”, Bob Shelton lẩm bẩm một cách mỉa mai. Tony Mott vô thức gõ ngón tay lên chiếc mũ bảo hiểm xe đạp của mình. “Hắn đã phá vỡ quy tắc số một”
“Là gì?”, Bishop hỏi.
Gillette dẫn lại, “Không động đến dân thường”.
Mott gật đầu và nói tiếp, “Các hacker cho rằng Chính phủ, các tập đoàn và những hacker khác là cuộc chơi công bằng. Nhưng không bao giờ được nhắm vào dân chúng”.
Sanchez hỏi, “Liệu có cách nào biết được hắn có ở trong máy mình hay không?”.
“Chỉ vài điểm rất nhỏ nhặt, bàn phím có vẻ không nhanh nhạy, hình đồ họa nhìn hơi mờ, một trò chơi không phản hồi nhanh như thông thường, ổ cứng bất chợt khựng lại một hay hai giây. Không có gì quá rõ ràng nên hầu hết mọi người đều không để ý.”
Shelton hỏi, “Thế tại sao anh lại không tìm thấy thứ demon này trong máy tính của Lara Gibson?”.
“Có chứ, có điều cái tôi tìm thấy là tàn tích của nó – một đống dữ liệu số học vô nghĩa. Phate đã thiết kế cho nó cơ chế tự hủy nào đó. Nếu demon cảm nhận thấy bạn đang tìm kiếm nó, nó sẽ tự viết lại thành dữ liệu rác.”
“Làm thế nào cậu tìm ra tất cả những thứ này?”, Bishop hỏi.
Gillette nhún vai, “Chắp nối từ những cái này”. Hắn đưa cho Bishop những bản in.
Bishop nhìn trang trên cùng.
Đến: Nhóm Từ: Triple-X
Tôi nghe nói Titan 233 đang hỏi xin bản copy của Trapdoor. Đừng làm thế, anh bạn. Hãy coi như chưa từng nghe nói đến nó. Tôi có biết về Phate và Shawn. Họ rất NGUY HIỂM. Tôi không đùa đâu.
“Hắn là ai?”, Shelton hỏi. “Triple-X ấy? Nếu nói chuyện trực tiếp được với hắn ta là tốt nhất.”
“Tôi không có manh mối gì về việc hắn ta là ai hay sống ở đâu”, Gillette nói. “Có thể hắn ta cùng một băng nhóm trực tuyến nào đó với Phate và Shawn.”
Bishop lật giở tất cả những bản in còn lại, tất cả đều cung cấp vài chi tiết hay tin đồn về Trapdoor. Tên của Triple-X xuất hiện trên vài tờ trong số đó.
Nolan đập tay lên một tờ giấy. “Liệu chúng ta có thể truy từ thông tin trong tiêu đề này ngược trở lại máy của Triple-X không?”
Gillette giải thích cho Bishop và Shelton, “Tiêu đề của những bài đăng trong diễn đàn thảo luận trên mạng và các email thể hiện đường đi từ máy của người gửi đến máy của người nhận. Theo lý thuyết, anh có thể dựa vào tiêu đề để tìm kiếm địa điểm của máy tính đã gửi đi thông điệp đó. Nhưng tôi đã kiểm tra cả rồi.” Hắn hất đầu về phía tờ giấy. “Chúng là giả. Phần lớn những hacker thực thụ đều giả mạo tiêu đề để không ai có thể tìm được họ”.
“Vậy là ngõ cụt à?”, Shelton lẩm bẩm.
“Tôi mới chỉ đọc lướt nhanh. Chúng ta nên xem lại thật kỹ càng”, Gillette nói, hất đầu về phía những bản in. “Sau đó tôi sẽ viết ra một bot của riêng mình. Nó sẽ tìm bất cứ thứ gì đề cập đến những từ Phate/Shawn/ Trapdoor/ hay Triple-X/”
“Một mẻ lưới”, Bishop liên tưởng. “P-h phishing.”
Tất cả nằm ở cách đánh vần, cách viết…
Tony Mott nói, “Hãy gọi cho CERT. Xem họ có biết gì về thứ này không”.
Mặc dù bản thân tổ chức này chưa từng công nhận, nhưng trong giới ai cũng biết tên tổ chức là những chữ cái đầu của Computer Emergency Response Team (Đội Phản ứng nhanh An ninh mạng). Đặt tại học xá trường Camegie Mellon ở Pittsburgh, CERT là một cơ quan chuyên thu thập và phân loại thông tin về các loại virus và các mối đe dọa tin học khác. Nó cũng cảnh báo những nhà quản trị hệ thống về cuộc tấn công của các hacker.
Sau khi nghe giải thích về tổ chức này, Bishop gật đầu. “Hãy gọi cho họ xem.”
Nolan nói thêm, “Nhưng đừng nói gì về Wyatt. CERT có liên kết với Bộ Quốc phòng”.
Mott bấm máy và nói chuyện với một người quen ở tổ chức này. Sau cuộc nói chuyện ngắn, anh gác máy. “Họ chưa từng nghe nói đến Trapdoor hay thứ gì đó tương tự. Họ muốn chúng ta tiếp tục cập nhật cho họ.”
Linda Sanchez chăm chú nhìn bức ảnh chụp Andy Anderson, vợ và con gái của ông đặt trên bàn. Cô nói bằng giọng thì thầm đầy lo âu, “Vậy là một khi đã lên mạng, không ai được an toàn”.
Gillette nhìn vào đôi mắt tròn màu nâu của cô. “Phate có thể khám phá ra bất kỳ bí mật nào của ta. Hắn có thể giả làm ta hay đọc hồ sơ bệnh án của ta. Hắn có thể khiến tài khoản ngân hàng của ta rỗng không, làm những việc phi pháp dưới danh nghĩa của ta, dựng lên một nhân tình giả và gửi cho vợ hoặc chồng ta bản sao của những lá thư tình giả. Hắn có thể khiến ta bị sa thải.”
“Hoặc”, Patricia Nolan nhỏ nhẹ thêm vào, “hắn có thể giết ta”.
o O o
“Cậu Holloway, cậu có nghe không đấy?… Cậu Holloway?”
“Hừ?”
““Hừ?”. Đây có phải cách đáp lời của một sinh viên lễ phép không? Tôi đã hỏi cậu câu hỏi này hai lần còn cậu thì cứ mải nhìn ra ngoài cửa sổ. Nếu cậu không làm bài tập, chúng ta sẽ có vấn đề”
“Câu hỏi là gì ạ?”
“Để tôi nói xong đã, chàng trai trẻ. Nếu cậu không chịu làm bài tập thì chúng ta sẽ có vài rắc rối đấy. Cậu có biết bao nhiêu học sinh xứng đáng hơn đang nằm trong danh sách chờ để vào ngôi trường này không? Tất nhiên cậu không biết và cũng chẳng quan tâm. Cậu đã đọc đề bài chưa?”
“Cũng không hẳn.”
““Cũng không hẳn”, tôi hiểu rồi. Câu hỏi là: Định nghĩa hệ bát phân và cho tôi số thập phân tương đương của các số bát phân 05726 và 12438. Nhưng cậu muốn biết câu hỏi làm gì nếu cậu chưa đọc đề bài? Cậu khó mà trả lời được…”
“Hệ bát phân là một hệ thống số đếm có tám chữ số giống như hệ thập phân thì có mười, còn hệ nhị phân thì có haỉ.”
“Vậy là, cậu cũng nhớ được vài điều nhờ kênh Discovery Channel, cậu Holloway.”
“Không, em… “
“Nếu cậu biết nhiều đến thế thì tại sao cậu không lên bảng và thử chuyển những số này cho cả lớp. Lên bảng, mời cậu lên bảng!”
“Em chả cần phải viết ra. Số bát phân 05726 chuyển thành số thập phân là 3030. Thầy bị sai ở số thứ hai – 12438 không phải là một số bát phân. Không có số 8 trong hệ bát phân. Chỉ từ không đến bảy.”
“Tôi không bị nhầm. Đó là một cầu hỏi mẹo. Để xem cả lớp có tập trung không.”
“Nếu thầy nói vậy.”
“Được rồi, cậu Holloway, đến lúc phải đi gặp thầy hiệu trưởng rồi.”
Ngồi trong phòng ăn kiêm phòng làm việc trong ngôi nhà ở Los Altos, lắng nghe một CD của vở Othello của James Earl Jones, Phate sục sạo tất cả các file của nhân vật trẻ tuổi – Jamie Turner và lên kế hoạch cho chuyên viếng thăm buổi tối ở Học viện Thánh Francis.
Nhưng ý nghĩ về cậu sinh viên trẻ tuổi này gợi cho hắn nhớ lại quãng đời học sinh của chính mình – giống như hồi ức khó khăn về môn toán khi mới lên trung học. Những năm đầu thời học sinh của hắn luôn theo một mô hình rất dễ đoán. Kì đầu tiên, hắn sẽ giành toàn điểm A. Nhưng đến mùa xuân, điểm số của hắn sẽ lao dốc xuống điểm D và F. Lý do là vì hắn chỉ có thể chống đỡ nỗi chán ngán trường học trong ba hay bốn tháng, nhưng sau thời gian đó thì ngay cả việc đến lớp học cũng quá sức chịu đựng và lúc nào cũng vậy, hắn sẽ bỏ dở phần lớn học kỳ hai.
Rồi bố mẹ Phate sẽ gửi hắn đến một ngôi trường mới. Và điều tương tự lại tái diễn.
Cậu Holloway, cậu có nghe tôi nói gì không?
Chà, đó luôn là vấn đề của Phate.
Không, cơ bản thì đó luôn là vấn đề của Phate, hắn chưa từng giao du với ai, hắn đi trước họ hàng năm ánh sáng.
Các giáo viên và thầy giám thị đã tìm đủ mọi cách. Họ gửi hắn vào những lớp học tài năng và chương trình tài năng vượt bậc, nhưng vẫn không giữ được sự hứng thú của hắn. Và một khi đã phát chán, hắn trở nên vô cùng xấu xa và hằn học. Những giáo viên của hắn, như thầy Cummings tội nghiệp, người giáo viên trẻ trong vụ việc số bát phân, không dám tiếp tục gọi đến hắn, vì sợ hắn sẽ chế giễu những hạn chế của họ.
Sau vài năm, cha mẹ hắn – bản thân đều là những nhà khoa học, gần như bỏ cuộc. Bận rộn với cuộc sống riêng (Cha – một kỹ sư điện, mẹ – nhà hóa học làm việc cho một công ty mỹ phẩm), rất vui lòng trao gửi con trai cho một loạt những gia sư ngoài giờ học ở trường, mục đích là để mua thêm cho bản thân vài tiếng đồng hồ cho công việc riêng, họ đút lót Richard – đứa anh trai hơn Phate hai tuổi, thả Phate cả ngày ở trung tâm giải trí trò chơi điện tử thành phố Atlantic hoặc những trung tâm mua sắm quanh vùng cùng với một trăm đô vào lúc 10:15 sáng và đón nó sau mười hai tiếng.
Còn đối với bạn học của hắn… bọn họ, tất nhiên là không ưa Jon ngay từ lần gặp đầu tiên. Hắn là “Bộ óc”, hắn là “Jon đầu to”, hắn là “Tên phù thủy”. Họ hất hủi hắn từ những ngày đầu tiên của lớp học, và khi khóa học dần trôi, vẫn trêu trọc và lăng mạ hắn không thương tiếc. (ít nhất không đứa nào buồn đánh hắn vì như một tay trong đội bóng đã nói, “Một con ranh cũng có thể làm nó vãi ra quần. Tao không thèm.”)
Vì vậy, để giữ sức ép bên trong bộ óc quay cuồng của Phate không thổi tung hắn thành từng mảnh, hắn dành ngày càng nhiều thời gian trong một nơi đặt ra cho mình nhiều thử thách: Thế giới máy tính. Vì cha mẹ hắn sẵn lòng chi tiền để tránh bị làm phiền, hắn đã có những chiếc máy tính cá nhân tốt nhất lúc bấy giờ.
Một ngày điển hình của hắn ở trường trung học là chịu đựng cho xong những tiết học rồi phóng vội về nhà lúc 3 giờ chiều và biến vào phòng riêng nơi hắn tự ba hoa về bản thân trên các bản tin hay đột nhập các thiết bị chuyển mạch điện thoại hoặc lẻn vào hệ thống máy tính của Hội Khoa học Quốc gia, Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh, Lầu Năm Góc, Los Alamos, Harvard và CERT (Đội phản ứng nhanh an ninh mạng). Cha mẹ hắn phải cân nhắc hóa đơn điện thoại hàng tháng lên tới 800 đô la so với thứ phải đánh đổi – công việc bị mất cùng những cuộc gặp liên tục với giáo viên và giám thị, nên cuối cùng họ vui vẻ chọn việc viết séc gửi đến công ty điện thoại New Jersey Bell.
Tuy vậy, rõ ràng là thằng bé ngày một phát triển theo chiều hướng xấu đi, hắn ngày càng tự cô lập, trở nên hằn học và dễ nổi nóng mỗi khi không được vào mạng.
Nhưng trước khi hắn sụp đổ hoàn toàn và “làm một Socrates ” (một triết gia Hy Lạp cổ) cùng vài chất độc thông minh với công thức hắn tải về từ mạng, theo những gì hắn còn nhớ, có một chuyện đã xảy ra.
Thằng nhóc mười sáu tuổi tình cờ vào một bảng tin trên diễn đàn của những người chơi trò nhập vai MUD. Trò chơi này lấy bối cảnh thời trung cổ, những hiệp sỹ đi tìm một thanh kiếm hoặc một chiếc nhẫn thần kỳ, hay những thứ đại loại như thế. Hắn xem một hồi rồi ngại ngùng gõ tin nhắn, “Tôi có thể chơi không?”.
Một trong những người chơi kì cựu chào đón hắn nồng nhiệt và hỏi, “Cậu muốn là ai?”.
Jon trẻ tuổi quyết định trở thành một hiệp sỹ và vui vẻ khởi hành cùng những chiến hữu của hắn, đi tìm giết những con rồng, thủy quái và kẻ thù trong tám tiếng liền. Đêm đó, sau khi đăng xuất, hắn nằm trên giường, không thể ngừng nghĩ về ngày tuyệt vời vừa trải qua. Hắn không còn bị gọi là “Jon đầu to” hay “Tên phù thủy” đầy khinh miệt nữa. Cả ngày dài, hắn được làm một hiệp sỹ trong vùng đất Cyrania thần thoại và hắn đã rất hạnh phúc. Có lẽ ở Thế giới thực, hắn cũng có thể trở thành một ai khác.
Bạn muốn là ai?
Ngày hôm sau, hắn đăng ký một hoạt động ngoại khóa ở trường, điều mà hắn chưa từng làm trước đó: Câu lạc bộ kịch nghệ.
Hắn nhanh chóng nhận ra mình có khả năng diễn xuất thiên bẩm.
Thời gian còn lại của hắn ở ngôi trường đó không mấy tiến triển, mối bất hòa giữa Jon với các giáo viên và bạn học quá sâu sắc, nhưng hắn cũng chẳng quan tâm, hắn đã có kế hoạch của riêng mình. Vào cuối học kỳ, hắn đòi bố mẹ cho chuyển sang một trường khác cho năm trung học tiếp theo. Vì hắn nói sẽ tự lo mọi giấy tờ thủ tục và việc chuyển trường sẽ không ảnh hưởng đến cuộc sống của họ, thế là họ đồng ý.
Mùa thu năm sau, giữa những thí sinh hào hứng đăng ký vào các lớp học của trường Trung học đào tạo Tài năng Thomas Jefferson, có một thiếu niên đặc biệt hăng hái tên là Jon Patrick Holloway. Những giáo viên và giám thị xem lại tài liệu được gửi cho họ qua email từ ngôi trường cũ của cậu ta. Học bạ cho thấy thành tích B+ ổn định ở mọi cấp học kể từ nhà trẻ, bản nhận xét sinh động của các giám thị mô tả một đứa trẻ khéo léo và hòa đồng, điểm thi tuyển ấn tượng và hàng tá thư giới thiệu từ các giáo viên cũ. Buổi phỏng vấn trực tiếp với chàng trai lịch sự có ấn tượng bề ngoài gây thiện cảm bằng quần nâu, áo sơ mi xanh nhạt và áo khoác màu xanh hải quân đã diễn ra khá tốt đẹp và hắn được nồng nhiệt chào đón vào trường.
Chàng trai này luôn hoàn thành bài tập và hiếm khi bỏ lỡ buổi học. Sức học của hắn ta ổn định ở giữa khoảng B+ và A-, giống như các học sinh khác ở Tom Jefferson. Hắn học tập rất siêng năng và có chơi vài môn thể thao. Hắn thường ngồi trên đồi cỏ bên ngoài ngôi trường, nơi những học sinh nhà giàu tụ tập lén lút hút thuốc lá, tán chuyện về mấy tên mọt sách và những kẻ kém cỏi. Hắn cũng hẹn hò, tham dự khiêu vũ và làm việc trong những ngày hội tựu trường.
Giống như bất kỳ ai.
Hắn ngồi trong bếp nhà Susan Coyne, lần mò dưới lớp áo của cô nàng và nhấm nháp cái niềng răng của cô ta. Hắn và Billy Pickford lái chiếc Corvette đời cổ của bố hắn ra đường cao tốc, tăng tốc chiếc xe lên đến một trăm kilomet một giờ, rồi phóng về nhà, tháo tung ra và cài đặt lại đồng hồ công tơ mét.
Hắn có chút vui vẻ, chút tâm trạng, chút nổi loạn.
Giống như bất kỳ ai.
Vào năm mười bảy tuổi, Jon Holloway social engineered cho bản thân trở thành một trong những đứa trẻ bình thường và được yêu mến nhất ở trường.
Thực tế thì hắn đã rất được yêu mến, đến nỗi đám tang của cha mẹ và anh trai hắn là một trong những đám tang có nhiều người đến dự nhất trong lịch sử của thị trấn New Jersey nhỏ bé nơi họ sống. (Thật là kỳ diệu, bạn bè và người thân bàn luận rằng Jon tình cờ mang máy tính đến một hiệu sửa chữa vào sáng sớm ngày thứ Bảy khi thảm kịch nổ ga xảy ra, cướp đi sinh mạng của những người thân trong gia đình hắn.)
Jon Holloway đã quan sát cuộc sống và quả quyết rằng, Chúa trời và cha mẹ hắn đã làm tổn thương hắn sâu sắc đến nỗi cách duy nhất để hắn có thể tồn tại là nhìn nhận cuộc đời như một trò chơi MUD.
Và giờ thì hắn lại bắt đầu cuộc chơi.
Bạn muốn là ai?
Trong tầng hầm của căn nhà ngoại ô đẹp đẽ ở Los Altos, Phate lau rửa vết máu trên con dao Ka-bar và bắt đầu mài sắc nó, tận hưởng tiếng lưỡi dao miết vào miếng thép mài hắn mua ở Williams-Sonoma.
Đây cũng chính là con dao hắn đã dùng để đâm thẳng vào trái tim của một nhân vật quan trọng trong trò chơi cho đến khi nó bất động – Andy Anderson.
Xoẹt, xoẹt, xoẹt…
Access…
Tiếp tục mài dao vào miếng thép, trí nhớ hoàn hảo của Phate nhớ lại một đoạn trong bài viết có tiêu đề “Cuộc sống ở Miền xanh thằm vô định”, mà hắn đã chép lại vào sổ tay hack của mình vài năm trước:
Ranh giới giữa Thế giới thực và Thế giới máy tính ngày càng trở nên mờ nhạt. Nhưng không phải do con người đang biến thành máy móc hay trở thành nô lệ của máy móc. Không, chỉ đơn giản là chúng ta đang xích lại gần nhau hơn. Trong Miền xanh thẳm vô định, máy móc đang tiếp nhận những mặt tính cách và văn hóa của chúng ta – ngôn ngữ, sự liên tường, phép ẩn dụ, triết lý và tinh thần của chúng ta.
Và đổi lại, những tính cách và nền văn hóa đó cũng ngày một biến chuyển nhờ Thế giới máy tính.
Hãy thử nghĩ về cuộc sống của một kẻ độc thân, về nhà sau giờ làm việc rồi ăn tối bằng đồ ăn sẵn và xem ti vi cả đêm. Giờ đây, anh ta sẽ bật máy tính lên và đăng nhập vào Miền xanh thẳm vô định, nơi anh ta được tương tác. Anh ta có kích thích về mặt xúc giác lên bàn phím, có những trao đổi về mặt ngôn ngữ, anh ta được thử thách. Anh ta không còn bị động như trước nữa. Anh ta buộc phải cung cấp dữ liệu đầu vào để được phản hồi. Anh ta đã bước lên một mức độ tồn tại cao hơn và lý do là nhờ máy tính đã đến với anh ta. Chúng nói thứ ngôn ngữ của anh ta.
Dù tốt hay xấu, giờ đây máy tính đã phản ánh giọng nói, tinh thần, tình cảm và mục đích của con người.
Dù tốt hay xấu, chúng còn phản ánh lương tâm, và cả sự vô lương của con người.
Phate đã mài xong dao và lau nó thật sạch. Hắn đặt nó trở lại hộp dụng cụ và quay lên gác để thấy những đồng đô la đóng thuế của hắn đã được chi tiêu một cách thích đáng, những siêu máy tính của Trung tâm Nghiên cứu Quốc phòng vừa hoàn tất việc chạy chương trình của Jamie Turner và đã lấy được mật khẩu hệ thống cổng Học viện Thánh Francis. Đêm nay hắn sẽ tiếp tục cuộc chơi…
Dù tốt hay xấu…
o O o
Sau hai mươi phút mày mò khắp các bản in của Gillette, cả đội không tài nào tìm thêm được manh mối gì. Tay hacker ngồi xuống một bàn làm việc và bắt đầu viết mã chương trình bot giúp hắn tiếp tục tìm kiếm trên mạng.
Bỗng hắn ngừng lại và ngẩng lên. “Có một việc chúng ta phải làm. Sớm hay muộn thì Phate cũng sẽ nhận ra các anh đang nhờ một hacker tìm kiếm hắn và có thể hắn sẽ tìm cách theo sau chúng ta.” Gillette quay sang Stephen Miller. “Từ đây các anh có thể truy cập vào những mạng bên ngoài nào?”
“Hai cái – mạng Internet, qua domain của chính chúng tôi: cspccu.gov. Chính là mạng anh vừa dùng để Online. Ngoài ra chúng tôi cũng kết nối với ISLEnet.”
Sanchez giải thích thuật ngữ này. “Là viết tắt của Mạng lưới Hệ thống Hành pháp Liên bang – Integrated Statewide Law Enforcement Network”.
“Nó có được cách ly không?”
Một mạng cách ly được tạo nên từ những máy tính chỉ kết nối với nhau và chỉ kết nối thông qua cáp phần cứng – không ai có thể hack vào nó thông qua đường dây điện thoại hay Internet.
“Không”, Miller nói. “Cậu có thể đăng nhập từ bất cứ đâu, nhưng cậu cần có các mật khẩu và phải vượt qua được vài tường lửa.”
“Những mạng ngoài nào mà tôi có thể truy cập từ ISLEnet?”
Sanchez nhún vai. “Bất kỳ hệ thống mạng nào thuộc Cảnh sát bang hay liên bang – FBI, Sở Mật vụ, ATF (Cục cảnh sát đặc nhiệm về thuốc lá, vũ khí và chất cồn), NYPD (Sở cảnh sát New York)… thậm chí cả Scotland Yard (Sở cảnh sát Lon Don) và Interpol. Những cơ quan liên quan.”
Mott nói thêm, “Vì chúng tôi là cơ quan xử lý tất cả những tội phạm tin học của bang nên CCU có phân quyền gốc ở ISLEnet. Bởi thế chúng tôi có quyền truy cập vào nhiều máy hơn bất kỳ ai khác”.
Gillette liền nói, “Vậy thì chúng ta buộc phải ngắt mọi liên kết đến nó”.
“Này, này, này, backspace, backspace”, Miller nói, sử dụng thuật ngữ của hacker có nghĩa là chờ một chút. “Ngắn kết nối đến ISLEnet? Chúng ta không thể làm thế.”
“Chúng ta buộc phải làm thế.”
“Tại sao?”, Bishop hỏi.
“Bởi vì nếu Phate xâm nhập được vào các liên kết đó bằng một Trapdoor demon, hắn có thể đột nhập vào ISLEnet. Và khi đó, hắn sẽ có quyền truy cập đến tất cả mạng lưới của các cơ quan hành pháp mà nó liên kết. Đó sẽ là một thảm họa.”
“Nhưng chúng tôi sử dụng ISLEnet cả chục lần mỗi ngày”, Shelton phản đối. “Cơ sở dữ liệu vân tay tự động, lệnh bắt, tài liệu về nghi phạm, tìm kiếm…
“Wyatt nói đúng đấy”, Patrici Nolan nói. “Hãy nhớ rằng gã này đã đột nhập được vào VICAP và cơ sở dữ liệu của cảnh sát ở hai bang. Chúng ta không thể mạo hiểm để hắn đột nhập thêm bất kì một hệ thống nào khác.”
Gillette nói, “Nếu cần sử dụng ISLEnet, chúng ta phải đi tới địa điểm nào đó khác – trụ sở, hay bất cứ đâu”.
“Thật nực cười”, Stephen Miller nói. “Chúng ta không thể lái xe cả năm dặm chỉ để đăng nhập vào một cơ sở dữ liệu. Chỉ làm tốn thêm thời gian cho cuộc điều tra.”
“Chúng ta đang lội ngược dòng từ đây rồi”, Shelton nói. “Tên này luôn đi trước chúng ta. Hắn không cần thêm lợi thế nữa.” Ông liếc nhìn Bishop vẻ van nài.
Viên thám tử có vóc người mảnh khảnh liếc xuống gấu áo xộc xệch của mình và nhét nó vào trong cạp quần. Một lát sau, ông nói, “Cứ làm thế đi. Hãy làm như anh ta nói. Ngắt kết nối đến ISLEnet”.
Sanchez thở dài.
Gillette nhanh chóng gõ lệnh ngắt kết nối mạng ngoài trong khi Stephen Miller và Tony Mott ngao ngán đứng xem. Hắn cũng đặt lại tên miền của CCU thành caltourisim.gov để khiến Phate gặp khó khăn hơn khi tìm kiếm và đột nhập hệ thống của họ. Khi đã xong xuôi, hắn ngẩng lên nhìn cả đội.
“Còn một điều nữa… Kể từ giờ không ai được vào mạng trừ tôi”
“Tại sao?”, Shelton hỏi
“Bởi vì tôi có thể cảm nhận được khi Trapdoor ở trong hệ thống của chúng ta”
“Như thế nào?”, viên cảnh sát mặt rỗ chua chát hỏi. “Đường dây nóng Người bạn tâm tình à?”
Gillette bình thản trả lời, “Cảm nhận của bàn phím, sự chậm trễ khi hệ thống hồi đáp, âm thanh của ổ cứng, tôi đã từng đề cập rồi”.
Shelton lắc đầu. Ông hỏi Bishop, “Anh sẽ không đồng ý chứ, đúng không? Đầu tiên, chúng ta đã thống nhất là cậu ta không được liên quan đến Internet nhưng rốt cuộc cậu ta lại dạo chơi khắp nơi trên mạng. Giờ thì, cậu ta lại nói rằng mình là người duy nhất được phép làm thế còn chúng ta thì không. Thật ngược đời, Frank. Ở đây có chuyện gì rồi”.
“Chuyện xảy ra ở đây”, Gillette bật lại, “là tôi biết mình đang làm gì. Chỉ khi là một hacker, ông mới có cảm nhận về máy móc”.
“Chấp nhận”, Bishop nói.
Shelton giơ hai tay bất lực. Stephen Miller có vẻ cũng chẳng vui vẻ gì hơn. Tony Mott thì vuốt ve báng súng và dường như đang quan tâm đến việc mong muốn được bắn một phát vào tên giết người hơn là nghĩ đến máy tính.
Điện thoại của Bishop đổ chuông, ông nghe máy. Ông lắng nghe một lát và dù không thực sự mỉm cười, khuôn mặt viên cảnh sát trở nên sinh động hơn hẳn. Ông lấy bút và giấy rồi bắt đầu ghi chép. Sau năm phút tốc ký, ông gác máy và nhìn cả đội.
“Chúng ta không phải gọi hắn là Phate nữa. Đã có tên thật của hắn rồi.”