Đây là vùng đất của sự đủ đầy, đây là vùng đất của sự dồi dào.
Vùng đất của Vua Midas – nơi cái chạm tay biến mọi thứ thành vàng. Dù vậy, nó không phải những ngón nghề ranh mãnh của phố Wall hay sự mạnh mẽ của nền công nghiệp Trung Tây mà chính là trí tưởng tượng đơn thuần.
Đây là vùng đất có nhiều thư ký và quản gia là những triệu phú hợp đồng quyền chọn (Hợp đồng tạo lập quyền mua/bán cổ phần với một mức giá và tại một thời điểm xác định), trong khi biết bao kẻ khác đang vạ vật cả đêm trên chuyến xe bus số 22 dọc tuyến đường nối giữa San Jose và Metro Park chỉ để chợp mắt một chút – họ, cũng như một phần ba số người vô gia cư trong khu vực này, có công việc toàn thời gian nhưng không tài nào chi trả nổi một triệu đô cho căn nhà gỗ nhỏ hoặc ba ngàn đô mỗi tháng cho một căn hộ.
Đây chính là Thung lũng Silicon – vùng đất đã thay đổi thế giới.
Hạt Santa Clara – một thung lũng xanh tươi trải dài mười dặm, từ lâu đã được mệnh danh là “The Valley of the Heart”s Delight – Thung lũng của niềm hân hoan nơi trái tim”. Dù niềm hứng khởi trong tên gọi này được đặt ra để nói về ẩm thực chứ không phải là công nghệ. Những cây mơ, cây mận, cây óc chó và sơ ri vươn mình xum xuê trên những vùng đất màu mỡ ở phía nam SanFrancisco. Lẽ ra thung lũng này sẽ gắn bó mãi mãi với việc trồng trọt, như những vùng khác của California: Vùng Castroville với Atisô, vùng Gilroy với cây tỏi, nếu không có quyết định bất ngờ của một người tên là Davicl Slarr Jordan vào năm 1990. Ông là hiệu trưởng trường Đại học Stanford – ngôi trường tọa lạc ở giữa thung lũng Santa Clara. Jordan quyết định đặt cược một số vốn vào phát minh ít ai biết đến của một người tên là Lee De Forrest.
Phát minh của ông ta – đèn hai cực, không giống như máy quay đĩa hay động cơ đốt trong. Đó là một phát minh mang tính cách tân mà công chúng ít ai hiểu được, và thực tế là, cũng chẳng ai để tâm vào thời điểm nó được công bố. Nhưng Jordan cùng những kỹ sư ở Standford tin rằng thiết bị này có thể đem đến một số ứng dụng thực tiễn và phải mất rất lâu trước khi thực tế chứng minh suy nghĩ của họ là vô cùng chính xác, đèn hai cực chính là ống chân không điện tử đầu tiên. Cuối cùng thì những thế hệ đời sau của nó đã thực sự tạo nên radio, ti vi, radar, thiết bị giám sát y tế, hệ thống giám sát hàng hải và chính những chiếc máy tính.
Và khi tiềm năng của chiếc đèn hai cực nhỏ xíu này được khai phá, không có gì còn nguyên vẹn như cũ ở vùng thung lũng tươi xanh, yên bình này.
Đại học Standford trở thành mảnh đất màu mỡ cho các kỹ sư điện tử, rất nhiều người trong số họ đã ở lại vùng đất này sau khi tốt nghiệp – David Packard và William Hewlett chẳng hạn. Cả Russell Varian và Philo Famsworth, bằng nghiên cứu của mình, họ đã đem đến cho chúng ta những chiếc ti vi, radar và lò vi sóng đầu tiên. Những chiếc máy tính đầu tiên như ENIAC và Univac là những phát minh của bờ đông. Nhưng một vài hạn chế của chúng như kích cỡ cồng kềnh và sức nóng cao từ những ống chân không đã khiến các nhà phát minh tìm tới California – nơi những công ty thực hiện biết bao cải tiến với những thiết bị vô cùng nhỏ, chính là những con chip bán dẫn, nhỏ hơn, ít tỏa nhiệt và hiệu quả hơn rất nhiều so với các ống chân không. Từ khi con chip được phát triển vào cuối thập niên năm mươi, thế giới của những chiếc máy tính đã bứt tốc như tàu con thoi. Từ IBM, Xeror”s PARC, đến Stanford Research Institute, Intel, Apple và hàng ngàn công ty Internet khác rải rác khắp nơi trong không gian trù phú này.
Miền đất Hứa, Thung lũng Silicon…
Nơi Jon Patrick Holloway – Phate, đang lái xe trên cao tốc 280, xuyên qua cơn mưa rào, về phía tây nam, hướng đến học viện Thánh Francis, ở đó hắn có cuộc hẹn với Jamie Turner trong trò chơi MUD phiên bản đời thực.
Trong ổ đĩa của chiếc Jaguar lần này là một vở kịch khác, vở Hamlet – phần diễn xuất của Laurence Olivier. Ngân nga theo phần thoại của diễn viên, Phate rẽ khỏi cao tốc ở lối rẽ khỏi San Jose và chỉ năm phút sau, hắn đã lượn lờ trước khối kiến trúc kiểu thực dân Tây Ban Nha của Học viện Thánh Francis. Lúc này là 5:15, vậy là hắn có hơn một giờ để theo dõi động tĩnh ở đây.
Hắn đỗ xe ở một con phố thương mại bụi bặm gần cổng phía bắc, nơi Jamie định dùng làm lối thoát. Trải biểu đồ kế hoạch tuần qua và sơ đồ của khu nhà ra, Phate nghiền ngẫm chúng trong mười phút rồi hắn ra khỏi xe và chậm rãi đi vòng quanh ngôi trường, nghiên cứu mọi lối ra vào. Sau đó hắn quay lại chiếc Jaguar.
Vặn to chiếc đài, hắn ngả ghế ngồi rồi quan sát mọi người đi dạo và đạp xe trên lối đi sũng ướt. Hắn nheo mắt nhìn họ đầy thích thú. Đối với hắn, họ không chân thực bằng, hay thậm chí còn ít chân thực hơn vị hoàng tử đau khổ trong vở kịch của Shakespeare và Phate không biết chắc lúc này hắn đang ở trong Thế giới máy tính hay Thế giới thực. Hắn nghe thấy một giọng nói, có thể là của chính hắn, có thể không, ngân nga một phiên bản hơi khác so với đoạn thoại của vở kịch. “Những cỗ máy thật kỳ diệu. Về mặt lý trí chúng cao quý làm sao. Năng lực của chúng vô tận biết bao. Hình dung và dáng điệu, thật giàu ý nghĩa và đáng kính. Khi vận hành thật thần kỳ biết bao. Việc tiếp cận được sánh ngang Thượng đế “
Hắn kiểm tra con dao và chai nhựa chứa thứ chất lỏng tự chế bốc mùi hăng hắc, tất cả được đặt cẩn thận trong những chiếc túi phía trong bộ đồ màu xám mà hắn đã cẩn thận thêu phía sau lưng dòng chữ “Công ty Vệ sinh và Bảo trì AAA”.
Hắn nhìn đồng hồ, rồi nhắm mắt lại, ngả lưng lên chiếc ghế xe bằng da đắt tiền. Hắn nghĩ: Chỉ còn bốn mươi phút nữa Jamie Turner sẽ lẻn ra sân trường để đi gặp anh trai.
Chỉ bốn mươi phút nữa Phate sẽ biết được mình thắng hay thua trong lượt chơi này.
Hắn cẩn thận miết ngón cái lên lưỡi dao sắc lạnh.
Khi vận hành, thật thần kỳ biết bao..
Việc tiếp cận được sánh ngang Thượng đế.
o O o
Ẩn núp trong vai Renegade334, Wyatt Gillette lặng lẽ theo dõi phòng chat hack.
Trước khi social engineer ai đó, bạn phải tìm hiểu về người ấy càng nhiều càng tốt để âm mưu trở lên đáng tin cậy hơn. Hắn sẽ nói ra những nhận định của mình, còn Patricia Nolan sẽ ghi lại bất cứ điều gì Gillette suy luận về Triple-X. Cô ngồi sát cạnh hắn. Hắn ngửi thấy mùi nước hoa dễ chịu và băn khoăn phải chăng đây cũng là một phần kế hoạch làm mới mình của cô.
Cho đến giờ, những gì Gillette biết được về Triple-X là: Hiện tại hắn ta đang ở trong khu vực múi giờ Thái Bình Dương (Hắn có nhắc tới thời gian vui vẻ thưởng thức cocktail trong một quán bar gần đó. Giờ đã là gần 5:50 chiều theo giờ bờ tây).
Có khả năng là hắn ở Bắc California (Hắn than phiền về trời mưa, và theo nguồn tin khí tượng học công nghệ cao của CCU, kênh Thời tiết thời điểm này phần lớn cơn mưa ở bờ tây đều tập trung tại và xung quanh khu vực vịnh San Francisco).
Hắn là người Mỹ, lớn tuổi và có thể đã tốt nghiệp đại học (ngữ pháp và dấu câu rất chuẩn so với một hacker thông thường, quá chuẩn so với một tên học sinh trung học thích nghịch máy tính và cách hắn sử dụng tiếng lóng rất chuẩn xác, cho thấy hắn không phải một tay hacker đến từ Châu Âu, kẻ vẫn thường cố gắng gây ấn tượng với người khác bằng thành ngữ và luôn khiến họ hiểu sai ý).
Có vẻ như hắn đang ở trong một khu mua sắm, đăng nhập vào phòng chat trực tuyến từ một điểm truy cập công cộng, một quán cà phê Internet chẳng hạn (Hắn vừa nhắc đến hai cô gái mà hắn vừa nhìn thấy đi vào một cửa hiệu Victoria”s Secret, bình luận về giờ khuyến mại cũng gợi ý điều này).
Hắn là một hacker sừng sỏ và có vẻ khá nguy hiểm (với điểm truy cập công cộng trong một trung tâm mua sắm như trên, hầu hết những người thực hiện các vụ hack mạo hiểm đều tránh lên mạng tại nhà bằng máy của mình, thay vào đó sử dụng thiết bị đầu cuối ở một điểm công cộng).
Hắn có cái tôi khá lớn và tự nhận mình là một thầy phù thủy, lớp đàn anh đối với những tay trẻ tuổi trong nhóm (miệt mài giải thích những khía cạnh bí truyền về hacking cho những tay mơ trong phòng chat nhưng không kiên nhẫn nổi với những tay có hiểu biết).
Với những nhận định này trong đầu, Gillette đã sẵn sàng lần theo Triple-X.
Trong Miền xanh thẳm vô định, thật dễ dàng để tìm ra ai đó nếu họ không ngại bị tìm ra. Nhưng nếu họ quyết giấu mình thì việc truy tìm là một nhiệm vụ khó khăn và thường thất bại.
Để truy theo một liên kết ngược trở lại máy tính của một cá nhân trong khi anh ta đang Online, bạn cần một bộ dụng cụ theo dấu vết trên Internet như HyperTrace của Gillette, nhưng bạn có thể cũng phải theo dấu cả công ty điện thoại.
Nếu Triple-X kết nối với nhà cung cấp dịch vụ Internet bằng cáp quang hoặc cáp tốc độ cao, chứ không phải đường điện thoại thì HyperTrace có thể dẫn họ đến tọa độ chính xác của khu mua sắm nơi tay hacker này đang ngồi.
Tuy nhiên, nếu như máy tính của Triple-X kết nối với mạng Internet bằng đường điện thoại thông qua một modem, một kết nối kiểu dial-up, giống như phần lớn máy tính cá nhân tại nhà, thì chương trình HyperTrace của Gillette chỉ có thể lần ngược trở lại nhà cung cấp dịch vụ Internet của Triple-X và dừng ở đó. Sau đó, nhân viên an ninh mạng của công ty điện thoại sẽ phải lần theo cuộc gọi từ nhà cung cấp dịch vụ ngược lại máy tính của Triple-X.
Tony Mott búng tay tanh tách, ngước lên khỏi điện thoại và nở nụ cười, “OK, Pac Bell đã sẵn sàng cuộc truy lùng”.
“Chúng ta làm điều này thôi”, Gillette nói. Hắn gõ một tin nhắn và nhấn ENTER. Trên màn hình của mọi người đang đăng nhập phòng chat hack hiện lên tin nhắn:
Renegade334; Này Triple-X, tình hình của anh thế nào.
Gillette đang đóng giả một người khác. Lần này hắn quyết định trở thành tay hacker mười bảy tuổi với học vấn tầm tầm nhưng có vô số mánh khóe và thái độ của kẻ mới lớn ngây ngô điển hình – kiểu người xuất hiện đầy rẫy trong phòng chat này.
Trong các phòng chat, bạn có thể nhìn được ai đang đăng nhập dù họ không tham gia cuộc hội thoại nào. Triple-X đang nhắc nhở Gillette rằng hắn ta đang cảnh giác, có thể luận ra là: Đừng làm phiền tôi.
Renegade334: Em đang ở chỗ công cộng, mọi người cứ đi qua, đi lại, khó chịu vãi.
Triple-X: Cậu đang ở đâu?
Gillette liếc nhìn Kênh Thời tiết.
Renegade334: Austin, ở đây nóng khiếp. Anh đến đây bao giờ chưa.
Triple-X: Mới đến Dallas thôi.
Renegade334: Dalls củ chuối, Austin tuyệt vời!!!
“Mọi người sẵn sàng chưa?”, Gillette gọi. “Tôi đang tìm cách nói chuyện riêng với hắn.”
Xung quanh đều phản hồi là đã sẵn sàng. Hắn cảm thấy đùi của Patricia Nolan chạm vào đùi hắn. Stephen Miller ngồi ngay cạnh cô. Gillette đánh vài từ rồi nhấn ENTER.
Renegade3341: Triple ICQ thì sao?
ICQ (“I seek you” tôi tìm bạn) là một tin nhắn nhanh để kết nối máy tính của họ với nhau. Vì không ai có thể xem được cuộc nói chuyện của họ. Một yêu cầu ICQ được hiểu là Renegade có thể có thứ gì đó bí mật hoặc bất hợp pháp muốn chia sẻ với Triple-X – một sự cám dỗ mà hầu hết hacker không thể cưỡng lại.
TiriplQ-X: Tại sao?
Reneqade334: Không xem ở đây được
Lát sau, một cửa sổ nhỏ xuất hiện trên màn hình của Gillette.
Triple-X: Thế có chuyện gì vậy, anh bạn?
“Chạy chương trình đi”, Milier nói với Stephen Miller, anh ta liền khởi động HyperTrace. Một cửa sổ khác hiện lên trên màn hình, minh họa bản đồ của Bắc California. Những đường màu xanh xuất hiện trên tấm bản đồ khi chương trình lần theo lộ trình từ CCU ngược trở lại chỗ Triple-X.
“Nó đang lần theo dấu vết”, Miller nói to. “Tín hiệu đi từ đây đến Oakland, đến Reno, đến Seatle…”
Renegade334: Cảm ơn đã đồng ý ICQ. Chuyện là em gặp rắc rối và em đang rất sợ. Mấy gã bàn tán về vụ của em và bảo rằng anh là siêu cao thủ và em nghe nói có thể anh biết gì đó.
Không nên vuốt ve cái tôi của một hacker quá nhiều, Gillette biết điều đó.
Triplo-X: Chuyện gì, anh bạn?
Renegado334: Tên hắn là Phate.
Không có phản hồi.
“Thôi nào, thôi nào”, Gillette thì thầm giục giã. Hắn nghĩ: Đừng biến mất. Tôi là một đứa trẻ đang run sợ. Anh là siêu cao thủ. Giúp tôi…
Triple-X: Hắn thù sao? Ý tôi là “thì sao”
Gillette liếc nhìn cửa sổ hiển thị quá trình định vị lộ trình của HyperTrace trên màn hình của hắn. Tín hiệu của Triple-X nhảy khắp các bang phía tây nước Mỹ. Rốt cuộc nó kết thúc ở bộ chia tín hiệu cuối cùng, nhà cung cấp Bay Area Online, có trụ sở tại walnut Creek, nằm ngay phía bắc Oakland.
“Đã tìm ra nhà cung cấp dịch vụ của hắn”, Stephen Miller hô to. “Đó là dịch vụ dial-in.”
“Mẹ kiếp”, Patricia Nolan làu bàu. Điều này nghĩa là sẽ phải nhờ đến một công ty điện thoại để định vị chính xác đường dẫn cuối cùng từ máy chủ ở walnut Creek đến quán cà phê nơi Triple-X đang ngồi.
“Chúng ta có thể làm được”, Linda Sanchez kêu gọi đầy nhiệt huyết, như một thành viên đội cổ vũ. “Chỉ cần giữ chân hắn Online, Wyatt.”
Tony Mott gọi cho Bay Area Online và trao đổi với trưởng phòng an ninh về mọi việc đang diễn ra. Người này lại gọi cho những kỹ thuật viên của mình – những người sẽ phối hợp cùng Pacific Bell và lần theo kết nối từ Bay Area đến chỗ của Triple-X.
Mott nghe máy một lát rồi gọi, “Pac Bell đang quét. Khu này khá đông đúc. Chắc mất tầm mười, mười lăm phút”.
“Lâu quá, lâu quá!”, Gillette nói. “Bảo họ tăng tốc lên.”
Nhưng từ khi còn là một kẻ câu trộm đường điện thoại, từng tự đột nhập vào hệ thống của Pac Bell, Gillette biết rằng những nhân viên công ty điện thoại có thế phải chạy, theo đúng nghĩa đen qua những bộ chuyển mạch – chính là những căn phòng lớn chứa hàng đống rơ-le điện tử và tìm những đường kết nối bằng mắt thường, để theo dấu vết lần ngược trở lại nơi xuất phát của cuộc gọi.
Renogadti334: Em đã nghe nói về vụ siêu hack cực đỉnh của Phate nên khi thấy hắn Online, em chỉ hỏi hắn về nó, vậy mà hắn đã gắt gỏng. Rồi mấy việc kì dị bắt đầu xảy ra sau đó, rồi em nghe đồn về chương trình mà hắn viết gọi là Trapdoor và giờ em hoàn toàn phát rồ.
Một sự im lặng, rồi:
Triple-X: Thế cậu đang muốn hỏi gì?
“Hắn đang sợ”, Gillette nói. “Tôi có thể cảm nhận được điều đó.”
Renegade334: Cái thứ trapdoor này, có phải nó thực sự đột nhập vào trong máy anh và mọi thứ của anh, ý em là TẤT CẢ MỌI THỨ, mà anh thậm chí còn không biết gì.
Triple-X: Tôi không nghĩ nó thực sự tồn tại. Chỉ là một lời đồn.
Renegade334: Em cũng không biết nữa nhưng em nghĩ nó có thật, em đã thấy mấy cái file chết tiệt TỰ MỞ dù em không hề làm thế.
“Chúng ta có tín hiệu đến”, Miller nói. “Hắn cũng đang định vị ta.”
Triple-X, đúng như Gillette đoán trước, đang chạy phiên bản HyperTrace của chính hắn để kiểm tra Renegade334. Tuy nhiên, chương trình nặc danh mà Stephen Miller đã làm khiến máy của Triple-X nghĩ rằng Renegade đang ở Austin. Tay hacker hẳn đã nhận được thông báo này và tin đó là thật vì hắn vẫn chưa đăng xuất.
Triple-X: Tại sao cậu lại quan tâm đến hắn? Cậu đang ở một cổng đầu cuối công cộng, ở đó làm sao hắn vào được file của cậu.
Renegade334: Hôm nay em ở đây vì ông bà già nhà em đã tịch thu con Dell trong một tuần vì chuyện điểm số. Lúc em Online ở nhà thì bàn phím loạn lên rồi những file bắt đầu tự mở. Em đã rất sợ. Thực sự hoảng sợ.
Thêm một sự im lặng rất lâu. Rồi cuối cùng tay hacker cũng phản hồi:
Triple-X: Cậu nên sợ đi. Tôi biết Phate.
Renegade334: ôi, như thế nào ạ?
Triple-X: Chỉ mới bắt đầu nói chuyện với hắn trong một phòng Chat. Hắn giúp tôi sửa lỗi vài phần mềm. Trao đổi vài phần mềm bị sao chép.
“Gã này quả là mỏ vàng đây”, Tony Mott thì thầm.
Nolan nói, “Có thể hắn biết địa chỉ của Phate. Hỏi hắn xem”. “Không”, Gillette nói. “Chúng ta sẽ làm hắn hoảng.”
Không có thêm tin nhắn nào trong một lúc rồi:
Triple-X: BRB
Những kẻ thường trực trong phòng chat đã nghĩ ra mấy câu viết tắt bằng chữ cái đầu – để tiết kiệm thời gian đánh máy và năng lượng. BRB có nghĩa là “Be Right Back” (sẽ quay lại ngay).
“Hắn chuồn mất à?”, Sanchez hỏi.
“Kết nối vẫn mở”, Gillette nói. “Có lẽ hắn chỉ đi vệ sinh hoặc đại loại thế. Yêu cầu Pac Bell tiếp tục lần theo dấu vết”
Hắn ngồi lại xuống ghế, nó kêu kẽo kẹt. Thời gian cứ trôi. Màn hình vẫn không thay đổi.
BRB.
Gillette liếc sang Patricia Nolan. Cô mở cái ví cũng rộng rãi như chiếc váy của cô, lấy ra chai dưỡng móng và lại lơ đễnh tô vẽ.
Con trỏ vẫn nhấp nháy. Màn hình vẫn trống không.
o O o
Những bóng ma đã quay trở lại và lần này là vô số.
Jamie Turner có thể nghe thấy tiếng họ di chuyển khi nó bước dọc hành lang Học viện Thánh Francis.
Chà, âm thanh đó chắc là tiếng của Booty hoặc một giáo viên đi kiểm tra cửa sổ và cửa ra vào. Hoặc những sinh viên đang tìm chỗ rít thuốc lá hay chơi trò Game Boys.
Nhưng cậu không thể xua những con ma ra khỏi tâm trí: Linh hồn của những người da đỏ bị tra tấn đến chết và người sinh viên bị sát hại vài năm trước bởi gã điên khùng đã đột nhập vào đây – kẻ mà giờ Jamie nhận ra là cũng gia nhập vào dân số ma ở đây sau khi bị cảnh sát bắn chết ở nhà ăn cũ.
Jamie Turner rõ ràng là một sản phẩm của Thế giới máy tính – một hacker và một nhà khoa học, cậu ta hẳn biết hồn ma và những sinh vật hoang đường không hề tồn tại. Vậy tại sao cậu ta lại cảm thấy sợ hãi đến thế?
Rồi một ý nghĩ kỳ lạ vụt đến với cậu ta. Cậu ta băn khoăn rằng phải chăng nhờ có những chiếc máy tính, cuộc sống đã quay về thời đại xa xưa, mang tính tâm linh và kỳ bí hơn. Máy tính khiến thế giới như biến thành một nơi trong những trang sách tà thập niên tám mươi của Washington Irving hay Nathaniel Hawthome. Truyền thuyết về thung lũng ngủ yên và Ngôi nhà có bảy đầu hồi. Khi đó, con người tin vào ma quỷ, linh hồn và những chuyện kỳ lạ xảy ra dù không hề thực sự nhìn thấy. Giờ đây, thế giới có mạng Internet, mã, bot và các electron cùng nhiều thứ bạn không thể nhìn thấy – cũng giống như những hồn ma. Chúng có thể trôi nổi xung quanh bạn, có thể thình lình xuất hiện, và có thể làm nhiều việc.
Những suy nghĩ này khiến Jamie sợ chết khiếp nhưng nó cố gắng xua chúng đi và tiếp tục bước xuống hành lang tối tăm của Học viện Thánh Francis, ngửi mùi mốc ẩm của vữa, nghe những tiếng rì rầm nói chuyện và tiếng nhạc vọng ra từ dãy phòng ký túc đang lùi xa khi nó rời khu nhà ở và lẻn qua phòng tập thể dục.
Những hồn ma…
Không, quên nó đi! Nó tự nhủ.
Hãy nghĩ đến Santana, nghĩ đến lúc đi chơi cùng anh trai, nghĩ đến đêm tuyệt vời trước mắt.
Nghĩ đến lối lẻn vào hậu trường sân khấu.
Cuối cùng cậu cũng đến được cửa thoát hiểm thông ra khu vườn.
Jamie nhìn xung quanh. Không có dấu hiệu của Booty, không có dấu hiệu của các giáo viên khác, những người đôi khi vẫn lởn vởn quanh khu nhà như thể cai tù trong một bộ phim tù nhân chiến tranh.
Jamie Tunmer quỳ xuống, nhìn ngắm chiếc cần gạt báo động thật kĩ càng như thể một đô vật đang ước lượng địch thủ.
(CẢNH BÁO: CHUÔNG BÁO ĐỘNG KÊU KHI CỬA MỞ
Nếu Jamie chưa ngắt được hệ thông báo động, nếu nó kêu rống lên khi cậu cố tìm cách mở cửa, đèn ở khắp nơi trong trường sẽ sáng lên, rồi cảnh sát và đội chữa cháy sẽ xuất hiện chỉ sau vài phút. Cậu sẽ phải chuồn về phòng và buổi tối hôm nay sẽ hỏng bét. Lúc này cậu đang giở một mảnh giấy nhỏ có in sơ đồ cấu tạo chuông báo động mà trưởng phòng dịch vụ của nhà sản xuất đã tốt bụng gửi cho cậu.
Rọi đèn pin vào tờ giấy, cậu nhóc nghiền ngẫm sơ đồ thêm một lần nữa. Rồi cậu xoa xoa đầu kim loại của cần gạt báo động, quan sát cách hoạt động của thiết bị kích hoạt, những con ốc ở đâu và nguồn cấp điện đã bị giấu đi như thế nào. Với trí óc lanh lẹ, cậu chắp nối những gì thấy trước mắt với sơ đồ trong tay.
Hít một hơi thật sâu.
Cậu nghĩ đến anh trai.
Kéo cặp kính dầy cộm lên để bảo vệ đôi mắt quý giá của mình, Jamie Turner thò tay vào túi áo, lấy ra một túi nhựa đựng dụng cụ, và lựa một chiếc cờ lê hiệu Phillips. Cậu còn vô số thời gian, Jamie tự nhủ. Không việc gì phải vội.
Hãy sẵn sàng nhảy múa nào…