Sát Nhân Mạng

CHƯƠNG 17



Frank Bishop và Wyatt Gillette đi xuyên qua cổng vòm cổ kính trên lối vào Học viện Thánh Francis, tiếng giày của họ bước trên những viên đá lót đường vang lên lạo xạo.
Bishop gật đầu chào Huerto Ramirez, cơ thể to lớn của anh ta choán nửa cổng vào, và hỏi, “có đúng thế không?”.
“Đúng vậy, Frank. Xin lỗi. Hắn chuồn mất rồi.”
Ramirez và Tim Morgan, hai người đang thẩm vấn các nhân chứng dọc tuyến phố xung quanh ngôi trường, là những người đầu tiên đến hiện trường.
Ramirez quay ra và dẫn Bishop, Gillette cùng Bob Shelton và Patricia Nolan theo sau vào trong ngôi trường. Linda Sanchez kéo một vali có bánh to đi theo họ.
Bên ngoài là hai xe cấp cứu và hơn chục xe cảnh sát, ánh đèn từ những chiếc xe nhấp nháy trong câm lặng. Một đám đông tò mò đứng trên lối đi bộ dọc con phố.
“Chuyện gì xảy ra thế?”, Shelton hỏi anh ta.
“Như những gì chúng tôi biết, chiếc Jaguar đó đậu ở bên ngoài cổng đằng kia.” Ramirez chỉ ra khoảng sân cách biệt với con phố bằng một bức tường cao. “Chúng tôi đã âm thầm điều động nhưng có vẻ hắn nghe ngóng được chúng ta đang đến nên đã phóng xe hết tốc lực ra khỏi ngôi trường này và bỏ trốn. Chúng tôi đã thiết lập rào chắn đường cách đây tám và mười sáu dãy phố nhưng hắn đều vượt qua được hết. Có lẽ hắn đã rẽ vào các con hẻm và đường nhỏ.”
Khi họ đi xuyên qua dãy hành lang u ám, Nolan bước đi bên cạnh Gillette. Dường như cô muốn nói điều gì đó nhưng lại thay đổi ý định và giữ im lặng.
Khi họ bước xuống sảnh, Gillette nhận thấy không có học viên nào ở đó. Có lẽ các giáo viên đang giữ họ trong phòng cho đến khi cha mẹ và những người giám hộ đến.
“Khám nghiệm hiện trường có phát hiện được gì không?”, Bishop hỏi Ramirez.
“Anh thấy đấy. Không tìm được gì cho chúng ta manh mối về nơi ở của hắn.”
Họ ngoặt vào một góc tường và ở cuối lối rẽ, họ thấy một cánh cửa đang mở, bên ngoài là hàng chục sỹ quan cảnh sát và vài nhân viên y tế. Raimirez nhìn Bishop rồi thì thầm điều gì đó với anh. Bishop gật đầu và nói với Gillette, “Trong đó không mấy dễ chịu. Giống như Andy Anderson và Lara Gibson. Tên giết người lại sử dụng con dao của hắn – đâm vào tim. Nhưng có vẻ như một lúc sau nạn nhân mới chết. Cảnh tượng khá khủng khiếp. Sao cậu không chờ ngoài này? Khi nào cần cậu xem xét chiếc máy tính tôi sẽ báo”.
“Tôi chịu được”, tay hacker trả lời.
“Cậu chắc chứ?”
“Chắc.”
Bishop hỏi Ramirez, “Bao nhiêu tuổi?”.
“Thằng bé đó à? Mười lăm.”
Bishop nhướng một bên lông mày về phía Patricia Nolan ý hỏi liệu cô có chịu được cảnh chém giết đó không. Cô trả lời “Không sao đâu”.
Họ bước vào trong căn phòng.
Dù đã cân nhắc câu trả lời trước câu hỏi của Bishop, Gillette vẫn khựng lại vì sốc. Máu lênh láng khắp nơi. Lượng máu nhiều đáng sợ – trên sàn nhà, các bức tường, hàng ghế, những khung ảnh, chiếc bảng trắng, trên bục giảng. Màu sắc thay đổi tùy theo đồ vật máu bắn lên đó, từ hồng nhạt đến sẫm gần như đen.
Trên sàn nhà, cái xác nằm chính giữa căn phòng, dưới một tấm chăn cao su màu xanh lá cây đậm. Gillette liếc nhìn Nolan, hắn nghĩ cô cũng sẽ thoái lui. Nhưng sau khi liếc nhìn những vệt máu đỏ thẫm bắn khắp nơi, đôi mắt cô chỉ quét quanh căn phòng, có lẽ để tìm kiếm chiếc máy tính mà họ sắp phân tích.
“Tên thằng bé là gì?”, Bishop hỏi. Một nữ Sỹ quan từ Sở cảnh sát San Jose đáp, “Jamie Turner”.
Bước vào căn phòng, Linda Sanchez phải hít một hơi thật sâu khi nhìn thấy cái xác và cảnh tượng máu me đó. Có vẻ như cô đang phân vân không biết mình có ngất đến nơi không. Cô lại bước ra ngoài.
Frank Bishop bước vào phòng học bên cạnh, nơi một cậu thiếu niên đang ngồi rúm ró, đung đưa trên một chiếc ghế. Gillette theo sau viên thám tử.
“Jamie?”, Bishop hỏi. “Jamie Turner?”
Cậu ta không đáp. Gillette để ý thấy mắt cậu ta đỏ rực lên và làn da xung quanh dường như bị bỏng. Bishop nhìn thấy một người đàn ông khác trong phòng. Anh ta mảnh khảnh và khoảng hơn hai mươi tuổi. Anh ta đứng cạnh Jamie và choàng tay lên vai cậu bé. Anh nói với viên thám tử, “Phải, đây là Jamie. Tôi là anh của nó. Mark Turner”.
“Booty chết rồi”, Jamie đau khổ thì thầm và chậm một miếng vải ấm lên mắt.
“Booty?”
Một người đàn ông khác khoảng tầm ngoài bốn mươi, mặc quần kaki và áo sơ mi vải phông, tự giới thiệu mình là trợ lý của hiệu trưởng và nói, “Đó là biệt danh bọn trẻ đặt cho ông ấy”. Ông ta hất đầu về phía căn phòng nơi cái xác đang nằm, “Cho ngài hiệu trưởng”.
Bishop cúi xuống, “Cháu cảm thấy thế nào, chàng trai trẻ?”.
“Hắn đã giết ông ấy. Hắn có con dao đó. Hắn đâm ông ấy còn thầy Boethe chỉ biết la hét và chạy quanh, cố tìm cách trốn chạy. Cháu…” Giọng cậu ta nghẹn lại vì thổn thức. Người anh trai siết chặt vai cậu.
“Thằng bé ổn chứ?”, Bishop hỏi một nữ nhân viên y tế vận chiếc áo khoác với ông nghe đang cầm mấy cái kẹp cầm máu. Cô nói, “Cậu bé ổn. Có vẻ như gã này phun vào mắt cậu ta thứ nước gì đó chứa chút hỗn hợp ammoniac và nước sốt hạt tiêu. Vừa đủ để gây đau nhức, nhưng không đủ để gây ra bất kỳ tổn hại nào”.
“Tại sao?”, Bishop hỏi.
Cô ta nhún vai, “Ông hiểu ý tôi mà”.
Bishop kéo một chiếc ghế và ngồi xuống. “Chú rất tiếc vì chuyện đã xảy ra, Jamie. Chú biết cháu rất buồn. Nhưng việc cháu nói hết với chú những gì cháu biết là vô cùng quan trọng.”
Cậu bé bình tĩnh trở lại và giải thích rằng cậu ta đã trốn khỏi trường để đi xem hòa nhạc cùng anh trai. Nhưng ngay lúc cậu ta mở được cửa thì gã này, trong bộ đồng phục của công nhân vệ sinh, tóm lấy cậu và xịt thứ nước đó vào mắt cậu. Hắn nói với Jamie rằng đó là axit và nếu cậu ta dẫn hắn đến chỗ thầy Boethe, hắn sẽ cho cậu ta thuốc giải. Nhưng nếu cậu ta không nghe theo thì thứ axit này sẽ ăn mòn mắt cậu ta.
Đôi tay cậu bé run bần bật và nó lại òa khóc. “Đó là nỗi sợ lớn nhất của nó”, Mark tức giận nói, “Nó sợ bị mù. Không biết tại sao tên khốn đó biết được”. Bishop gật đầu và nói với Gillette, “Thầy hiệu trưởng mới là mục tiêu của hắn. Đây là một ngôi trường lớn – Phate cần Jamie để nhanh chóng tìm ra nạn nhân”.
“Mà nó rất đau! Thực sự rất đau đớn… Cháu nói với hắn rằng sẽ không giúp hắn. Cháu không muốn, cháu đã cố gắng kháng cự nhưng cháu không thể. Cháu…” Nó im bặt.
Gillette cảm thấy Jamie còn muốn nói điều gì đó nhưng nó không thể nói ra.
Bishop đặt tay lên vai thằng bé, “Cháu đã làm điều đúng đắn. Cháu chỉ làm những gì mà ta cũng sẽ làm, con trai ạ. Đừng lo lắng về điều đó. Hãy nói cho chú biết, Jamie, cháu có gửi mail về dự định tối nay của mình cho ai không? Chúng tôi rất cần biết việc này”.
Thằng bé nuốt khan rồi nhìn xuống.
“Sẽ không có chuyện gì xảy ra với cháu đâu, Jamie. Đừng lo lắng. Chúng tôi chỉ muốn tìm ra gã này thôi”
“Anh trai cháu, hình như thế. Và rồi..
“Cháu cứ nói đi.”
“Chuyện là, cháu có lên mạng để tìm mấy mật khẩu và vài thứ khác. Mật khẩu của cổng trước. Hắn hẳn đã hack vào máy cháu và nhìn thấy chúng, nhờ thế mà hắn đột nhập được vào sân trong.”
“Thế còn chuyện cháu sợ bị mù?”, Bishop hỏi. “Liệu có phải hắn đã đọc được nó ở trên mạng?”
Jamie lại gật đầu.
Gillette nói, “Vậy là Phate đã biến Jamie thành một Trapdoor, để đột nhập vào trong”.
“Cháu rất dũng cảm, chàng trai trẻ”, Bishop tử tế nói.
Nhưng dường như điều đó chẳng thể làm thằng bé nguôi ngoai.
Những nhân viên y tế của Đội Khám nghiệm Hiện trường đưa cái xác của vị hiệu trưởng đi, những cảnh sát ở lại hội ý ngoài hành lang, Gillette và Nolan tham gia cùng họ. Shelton báo cáo những thông tin từ chuyên viên pháp y, “Chẳng có gì ở hiện trường cả. Hàng tá dấu vân tay rõ ràng – họ đã cho kiểm tra vân tay, nhưng, quỉ thật, chúng ta đều biết đó là Holloway. Hắn đi giầy đế thường. Có đến triệu sợi vải trong căn phòng đó. Đủ để khiến đội ngũ kỹ thuật viên Phòng thí nghiệm Liên bang bận rộn cả năm. Ồ, họ tìm thấy cái này nữa. Là của cậu bé Turner”.
Ông đưa một mảnh giấy cho Bishop, ông ta đọc nó rồi chuyển qua cho Gillette. Có vẻ đó là những ghi chép của thằng bé về việc bẻ mật khẩu và ngắt hệ thống báo động ở cửa.
Huerto Ramirez nói, “Không ai nhớ rõ chiếc Jaguar đã đỗ ở đâu. Mà dù sao thì cơn mưa đã xóa đi mọi dấu vết rõ ràng. Chúng ta có cả tấn rác ở lề đường nhưng liệu tên tội phạm của chúng ta có vứt bất kỳ thứ gì trong đó hay không, ai mà biết được?”
Nolan nói, “Hắn là một cracker. Tức hắn là một tên tội phạm rất có tổ chức. Hắn sẽ không ném bì thư có địa chỉ nhà mình trên đó trong lúc rình mò nạn nhân đâu”.
Ramirez nói tiếp, “Tim vẫn đang rà soát vỉa hè cùng các cảnh sát từ trụ sở nhưng chẳng tìm được gì cả”.
Bishop nhìn Nolan, Sanchez và Gillette. “Được rồi, hãy bảo vệ và kiểm tra máy tính của thằng bé.”
Linda Sanchez hỏi, “Nó ở đâu?”.
Trợ lý hiệu trưởng nói anh ta sẽ dẫn họ đến phòng máy của trường. Gillette quay lại căn phòng nơi Jamie đang ngồi và hỏi cậu ta đã sử dụng chiếc máy nào.
“Số ba”, thằng bé rầu rĩ đáp rồi lại tiếp tục chậm miếng khăn lên mắt.
Cả đội bước vào hành lang tối tăm. Trên đường đi, Linda Sanchez gọi điện cho ai đó. Từ cuộc hội thoại, Gillette đoán là con gái cô vẫn chưa chuyển dạ. Cô gác máy và nói “Dios”. (Tiếng Tây Ban Nha: Chúa ơi).
Phòng máy ở tầng hầm, một nơi lạnh lẽo và u ám, Gillette, Nolan và Sanchez bước đến chiếc máy được đánh dấu số 3. Gillette dặn Sanchez đừng vội cho chạy bất kỳ chương trình khai quật nào của cô. Hắn ngồi xuống và nói, “Theo như chúng ta biết thì Trapdoor demon vẫn chưa tự hủy. Tôi sẽ cố gắng tìm xem nó trú ngụ ở đâu trong hệ thống của máy”.
Nolan nhìn quanh căn phòng ẩm thấp theo kiểu Gô-tích. “Cảm giác như chúng ta là nhân vật trong bộ phim Quỷ ảm ấy… Không gian ma mị và nỗi ám ảnh quỷ quái.”
Gillette khẽ cười. Hắn bật nguồn và kiểm tra bảng menu chính. Sau đó hắn tải vô số ứng dụng – một file word, một bảng tính, một chương trình fax, một phần mềm kiểm tra virus, vài tiện ích sao chép đĩa, một số trò chơi, vài trình duyệt web, và một chương trình bẻ khóa mật khẩu mà Jamie mới viết gần đây (một phần mềm tự viết khá đỉnh so với một thiếu niên, Gillette nhận ra điều đó).
Hắn chăm chú nhìn màn hình, tay không ngừng gõ bàn phím, để xem mất bao lâu các ký tự mới hiện lên màn hình. Hắn lắng nghe tiếng rền rĩ của ổ cứng để xem có bất kỳ âm thanh nào lạc điệu khi nó chạy một chương trình nào đó hay không.
Patricia Nolan ngồi sát gần hắn, cũng chăm chú nhìn màn hình.
“Tôi có thể cảm thấy demon”, Gillette thì thầm. “Nhưng lạ lắm – dường như nó chạy vòng quanh. Nó nhảy từ chương trình này sang chương trình khác. Ngay khi tôi mở một chương trình, nó liền trượt ngay vào chương trình đó, có lẽ để xem tôi có đang tìm kiếm nó hay không. Khi nó cho rằng tôi không tìm nó, nó liền bỏ đi… Nhưng nhất định nó đang trú ngụ ở đâu đó.”
“Ở đâu?”, Bishop hỏi.
“Xem chúng ta có tìm ra không nhé.” Gillette mở và đóng hàng tá chương trình, rồi lại cả tá nữa, tay đánh bàn phím như vũ bão. “Được rồi, được rồi… Đây là thư mục chậm chạp nhất.” Hắn nhìn lại danh sách các file rồi nở một nụ cười lạnh nhạt. “Cậu biết Trapdoor ở đâu chưa?”
“Ở đâu?”
“Trong folder trò chơi. Hiện giờ nó đang ở trong chương trình Solitaire.”
“Cái gì?”
“Trò chơi bài.”
Sanchez nói, “Nhưng hầu như mọi máy tính được bán ra ở Mỹ đều cài sẵn trò chơi này”.
Noian nói, “Có thể vì vậy mà Phate cố tình viết chương trình kiểu đó.”
Bishop lắc đầu, “Vậy bất kỳ ai có trò chơi này trong máy đều có thể giữ Trapdoor trong đó?”“.
Nolan hỏi, “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh vô hiệu hóa trò Solitaire hoặc xóa nó?”.
Họ tranh luận một lúc. Gillette tò mò đến tuyệt vọng về cách thức hoạt động của Trapdoor và muốn tách demon ra để kiểm tra nó. Nếu họ xóa chương trình đó, demon có thể tự hủy, nhưng việc biết rằng nó sẽ tự hủy mang lại cho họ một thứ vũ khí, đó là bất kì ai nghi ngờ demon đang ở trong máy của mình chỉ cần làm một việc đơn giản là xóa trò chơi đó đi.
Họ quyết định copy toàn bộ nội dung từ ổ cứng của chiếc máy tính mà Jamie đã sử dụng và Gillette sẽ thử xóa trò Solitaire, rồi họ cùng xem chuyện gì sẽ xảy ra.
Khi Sanchez hoàn tất việc copy nội dung, Gillette xóa chương trình Solitaire. Nhưng hắn để ý thấy có chút trì hoãn trong quá trình xóa. Hắn lại thử vô số chương trình rồi bật cười chua chát. “Nó vẫn ở đó. Nó nhảy sang chương trình khác và sống khỏe re. Nó làm thế quái nào vậy nhỉ?” Demon của Trapdoor cảm nhận được ngôi nhà của nó sắp bị phá hủy nên đã kịp trì hoãn quá trình xóa đủ để thoát từ phần mềm Solitaire sang một chương trình khác.
Gillette đứng dậy và lắc đầu, “Chẳng còn việc gì để làm ở đây nữa. Hãy mang chiếc máy này về CCU và…”.
Bóng ai đó vụt xuất hiện đúng lúc cửa phòng máy bật mở, khiến kính vỡ vương vãi khắp nơi. Một tiếng hét cuồng nộ vang lên và ai đó nhảy xổ đến chiếc máy tính. Nolan khuỵu xuống, khẽ kêu lên kinh ngạc.
Bishop bị đẩy sang một bên. Linda Sanchez lóng ngóng tìm súng.
Gillette thụp người xuống che chắn đúng lúc một chiếc ghế lẳng qua đầu hắn và bổ nhào vào màn hình máy tính hắn đang ngồi.
“Jamie!”, người trợ lý hiệu trưởng gào lên thất thanh. “Không!”
Nhưng thằng bé đã nhấc chiếc ghế nặng trịch lên rồi nện nó xuống màn hình, một tiếng nổ vang lên và kính vụn văng tung tóe xung quanh họ. Khói bốc lên từ trong chiếc máy.
Người quản lý tóm lấy chiếc ghế và giằng nó khỏi tay Jamie, lôi thằng bé sang một bên rồi đè nó xuống sàn nhà. “Cậu làm cái quái quỉ gì thế, thưa cậu?”
Thằng bé giãy giụa, thổn thức và lại tiếp tục vồ lấy chiếc máy. Nhưng Bishop và người quản lý kìm được nó lại. “Em phải đập tan nó! Nó đã giết chết thầy ấy! Chính nó giết chết thầy Boethe!”
Người trợ lý hiệu trưởng quát lên, “Cậu dừng ngay lại, cậu bé ạ! Học sinh của tôi không có kiểu cư xử như thế”.
“Bỏ cái tay chết tiệt của thầy ra khỏi người em!”, thằng bé nổi đóa. “Nó đã giết thầy ấy nên em phải giết chết nó!” Toàn thân nó run lên vì cơn thịnh nộ.
“Cậu Turner, cậu bình tĩnh lại ngay! Tôi không nói lần nữa đâu.”
Mark, anh trai của Turner, chạy vào phòng máy. Anh ôm lấy thằng bé, nó đổ gục người vào anh trai, thổn thức khóc.
“Học sinh phải biết cư xử”, người quản lý nói, giận run người. Ông ta nhìn những khuôn mặt ỉu xìu của mọi người trong đội CCU. “Ở đây là phải vậy.”
Bishop liếc nhìn Sanchez, người đang kiểm tra mức độ thiệt hại. Cô nói, “Bộ vi xử lý trung tâm ổn. Chỉ có màn hình bị hỏng”.
Wyatt Gillette kéo mấy chiếc ghế vào góc rồi ra hiệu cho Jamie đi theo hắn. Thằng bé nhìn anh trai và nhận được cái gật đầu. Nó đi theo tay hacker.
“Tôi nghĩ cái đó không được bảo hành nữa rồi”, Gillette nói, bật cười và hất đầu về phía màn hình máy tính.
Một nụ cười yếu ớt nở trên môi thằng bé nhưng biến mất rất nhanh.
Lát sau, nó mới cất lời, “Là lỗi của em khiến thầy Booty chết”. Nó nhìn Gillette. “Em đã hack mật khẩu của cổng trường. Em tải sơ đồ hệ thống báo động… Ôi, em ước gì mình chết đi!” Nó lấy tay áo lau mặt.
Vẫn còn điều gì đó trong lòng nó, Gillette có thể nhận thấy điều ấy. “Cứ nói đi, nói anh nghe xem”, hắn nhẹ nhàng khích lệ.
Thằng bé nhìn xuống, rồi cuối cùng nói, “Gã đó à? Hắn nói nếu không phải tại em hack thì thầy Boethe vẫn còn sống. Chính em đã giết thầy. Và em đừng bao giờ sờ đến máy tính nữa nếu không muốn có thêm người phải chết”.
Gillette lắc đầu, “Không, không, không, Jamie. Kẻ gây ra việc này là một tên khốn bệnh hoạn. Hắn đã nung nấu ý định giết thầy giáo của em và không việc gì có thể ngăn hắn được. Nếu không phải là em thì hắn cũng sẽ lợi dụng ai đó khác. Hắn nói những điều đó với em vì hắn sợ em”.
“Sợ em?”
“Hắn đã theo dõi em từ lâu, xem em viết phần mềm và hack. Hắn sợ những điều em có thể làm để chống lại hắn một ngày nào đó.”
Jamie không nói gì.
Gillette hất hàm về phía màn hình máy tính đang bốc khói. “Em không thể phá hủy tất cả máy tính trên thế giới.”
“Nhưng em có thể đập tan cái máy đó!”, nó tức giận.
“Nó chỉ là một công cụ”, Gillette nhẹ nhàng nói. “Nhiều người dùng tua vít để đột nhập vào nhà người khác. Em không thể vứt bỏ tất cả tua vít.”
Jamie ngả người dựa vào một chồng sách và khóc. Gillette choàng tay qua vai thằng bé. “Em sẽ không bao giờ đụng đến máy tính nữa. Em ghét chúng!”
“Chà, thế thì lại là vấn đề đấy!”
Thằng bé lại lau mặt. “Vấn đề?”
Gillette nói, “Nghe này, bọn anh cần em giúp”.
“Giúp bọn anh?”
Tay hacker hất hàm về phía chiếc máy. “Em viết phần mềm đó đúng không? Phần mềm Crack-er?”
Thằng bé gật đầu.
“Em giỏi lắm, Jamie. Em thực sự rất xuất sắc đấy. Có những người làm quản trị hệ thống mà chẳng thể chạy chương trình hack như em. Bọn anh sẽ mang chiếc máy đó về trụ sở để phân tích. Nhưng những máy còn lại vẫn ở đây, anh đang hy vọng em sẽ kiểm tra tất cả chúng để xem có tìm được gì giúp bọn anh bắt tên khốn đó không”
“Anh muốn em làm thế?”
“Em biết hacker mũ trắng là như thế nào chứ?”
“Có ạ. Một hacker tốt giúp tìm ra những hacker xấu.”
“Em sẽ là mũ trắng của bọn anh chứ? Ở chỗ Cảnh sát bang bọn anh không có đủ người. Biết đâu em tìm ra điều gì đó mà bọn anh không tìm được.”
Giờ thì thằng bé có vẻ xấu hổ vì đã khóc. Nó tức giận lau mặt. “Em không biết. Em không nghĩ là mình muốn làm việc đó.”
“Bọn anh chắc chắn có thể sử dụng sự trợ giúp của em.”
Người trợ lý hiệu trưởng nói, “Được rồi, Jamie, đã đến lúc quay về phòng của cậu rồi”.
Người anh trai liền nói, “Không thể nào. Nó sẽ không ở đây đêm nay. Chúng tôi sẽ đi đến buổi hòa nhạc đó rồi sau đó nó sẽ qua đêm cùng tôi”.
Người trợ lý cứng rắn nói, “Không. Cậu ta cần phải có giấy cho phép viết tay của cha mẹ nhưng chúng tôi không thể liên lạc được với họ. Ở đây chúng tôi có những quy tắc, sau tất cả những chuyện này” – ông ta khoát tay về phía hiện trường, “chúng ta cũng không được đi chệch khỏi những quy tắc đó”.
Mark Turner chúi người về phía trước và thì thầm một cách đay nghiến, “Lạy Chúa, hãy thoải mái đi, được không? Thằng bé vừa trải qua đêm tồi tệ nhất đời nó vậy mà ông…”.
Người quản lý đáp lại, “Anh không có quyền nói tôi phải làm gì với học sinh của mình”.
Khi đó Frank Bishop lên tiếng, “Nhưng tôi thì có. Và Jamie sẽ không ở lại đây hay đi xem ca nhạc. Cậu ta sẽ phải đến trụ sở cảnh sát và viết bản khai. Sau đó chúng tôi sẽ đưa cậu ta đến chỗ bố mẹ”
“Cháu không muốn đến đó”, thằng bé đau khổ nói. “Không đến chỗ bố mẹ”
“Chú e rằng không có lựa chọn nào cả, Jamie”, viên thám tử nói.
Nó thở dài và lại trông như thể sắp khóc.
Bishop nhìn người trợ lý hiệu trưởng và nói, “Từ bây giờ tôi sẽ đảm nhận mọi việc. Tối nay anh cũng đủ bận rộn với những học viên khác rồi”.
Viên trợ lý cay cú nhìn viên thám tử và cánh cửa hỏng, rồi rời khỏi phòng máy.
Sau khi ông ta đi, Frank Bishop mỉm cười và nói với thằng bé, “Được rồi, chàng trai trẻ, cháu và anh trai ra khỏi đây đi. Có lẽ cháu đã lỡ tiết mục mở màn nhưng nếu đi nhanh có thể vẫn kịp phần trình diễn chính đấy”.
“Nhưng bố mẹ cháu? Chú nói là…”
“Quên những gì chú vừa nói đi. Chú sẽ gọi cho bố mẹ cháu và nói với họ là cháu sẽ qua đêm với anh trai.” Ông nhìn Mark. “Hãy đảm bảo là cậu ta sẽ quay lại đây kịp buổi học sáng mai nhé.”
Thằng bé không thể mỉm cười – sau tất cả những gì vừa xảy ra, nhưng nó cũng khẽ nói, “Cảm ơn chú”. Rồi nó bước ra cửa.
Mark Turner bắt tay viên thám tử. “Jamie”, Gillette gọi.
Thằng bé quay người lại.
“Hãy nghĩ về những gì anh đã nhờ – về chuyện giúp bọn anh”
Jamie nhìn một lát vào màn hình máy tính vẫn đang bốc khói.
Nó không nói gì mà quay người bước đi.
Bishop hỏi Gillette, “Cậu nghĩ thằng bé có thể tìm ra điều gì à?”.
“Tôi không biết nữa. Đó không phải là lý do tôi nhờ nó giúp. Tôi đoán là sau chuyện này, nó cần quay trở lại trên lưng ngựa.” Gillette hất đầu về phía tờ ghi chép của Jamie, “Thằng bé là một thiên tài. Sẽ là tội ác thực sự nếu nó mang tâm lý sợ hãi và từ bỏ máy tính”.
Viên thám tử khẽ cười, “Càng biết cậu, tôi càng thấy dường như cậu không giống một hacker điển hình”.
“Ai mà biết được? Có lẽ tôi thực sự không như vậy.”
Gillette giúp Linda Sanchez hoàn thành nốt việc dỡ chiếc máy tính từng đóng vai trò đồng mưu trong cái chết của thầy Willam Boethe tội nghiệp. Cô gói nó trong một chiếc chăn và cẩn thận cột nó lên chiếc xe đẩy hàng, như thể cô sợ rằng nếu mạnh tay sẽ làm văng mất những chứng cứ mong manh về kẻ thủ ác.
 
o O o
 
Ở CCU, việc điều tra đang rơi vào bế tắc.
Chương trình bot báo động để cảnh báo họ về sự hiện diện của Phate hoặc Shawn trên mạng vẫn chưa ngắt, mà Triple-X cũng không lên mạng nữa.
Tony Mott, có vẻ vẫn không vui vì đã bỏ lỡ cơ hội được sắm vai “một cảnh sát thực thụ”, đang miễn cưỡng mày mò khắp các bản dữ liệu pháp lý, nơi anh ta và Miller đã ghi chép rất nhiều trong lúc những người khác trong đội đang ở Học viện Thánh Francis. Anh thông báo, “Chẳng có thông tin hữu ích nào về cái tên Holloway ở VICAP và cơ sở dữ liệu của cảnh sát các bang. Rất nhiều file đã biến mất, những file còn lại chả nói lên cái cóc khô gì”.
Mott nói tiếp, “Chúng tôi đã nói chuyện với một số nơi mà Holloway từng làm: Westem Electric, Apple, và Nippon Electronics tức NEC. Số ít người còn nhớ hắn nói rằng hắn là một lập trình viên thực sự tài ba… và một chuyên gia social engineer siêu đẳng”.
“TMS “, Linda Sanchez nhắc lại, “IDK “.
Gillette và Nolan bật cười.
Mott thì dịch những cụm viết tắt từ Miền xanh thẳm vô định này cho Bishop và Shelton. “Hãy nói cho tôi điều mà tôi không biết.” Anh nói tiếp, “Nhưng, ngạc nhiên thay, tất cả các file đều biến mất khỏi phòng nhân sự và kiểm toán”.
“Tôi có thể hiểu cách hắn hack và hủy toàn bộ file mềm”, Linda Sanchez nói, “nhưng hắn làm thế nào với đống tài liệu từ xác cây?”.
“Thứ gì cơ?”, Shelton hỏi.
“Tài liệu bản cứng trên giấy”, Gillette giải thích. “Nhưng việc đó cũng dễ thôi: Hắn hack vào máy tính của Phòng lưu trữ giấy tờ và để lại tin nhắn yêu cầu nhân viên hủy chúng đi.”
Mott bổ sung thêm là một số nhân viên Phòng an ninh ở những công ty cũ của Phate tin rằng hắn từng và có thể vẫn đang – kiếm sống bằng cách môi giới linh kiện siêu máy tính bị ăn cắp, vì nhu cầu đối với mặt hàng này rất lớn, đặc biệt là ở Châu Âu và những nước thế giới thứ ba.
Hy vọng của họ bùng lên trong chốc lát khi Ramirez gọi điện báo cáo rằng cuối cùng anh đã nhận được thông tin từ chủ hiệu Phục trang Kịch nghệ Ollie. Sau khi nhìn bức ảnh Jon Holloway hồi trẻ, ông ta xác nhận rằng hắn có đến cửa hiệu vài lần vào tháng trước. Người chủ cửa hiệu không nhớ chính xác là hắn đã mua những gì nhưng ông ta nhớ số hàng khá nhiều và hắn trả bằng tiền mặt. Ông ta cũng không biết hắn sống ở đâu nhưng vẫn nhớ rõ cuộc trao đổi ngắn ngủi giữa họ. Ông đã hỏi Holloway rằng hắn có phải là diễn viên không, nếu đúng vậy thì hắn xin việc rất khó?
Tên sát nhân đã trả lời rằng, “Không hề, chẳng có gì là khó cả. Tôi vẫn diễn hàng ngày”.
Nửa tiếng sau, Frank Bishop đứng dậy vươn vai và nhìn quanh phòng máy chủ.
Căn phòng chẳng có mấy sức sống. Linda Sanchez đang nói chuyện điện thoại với con gái. Stephen Miller ngồi ủ rũ một mình, nhìn những tờ ghi chép, có vẻ vẫn còn buồn về sai lầm của anh ta với chương trình nặc danh khiến Triple-X xổng mất. Gillette đang ở phòng thí nghiệm, kiểm tra nội dung trong máy tính của Jamie Turner. Patricia Nolan đang gọi điện trong khoang làm việc bên cạnh. Bishop không biết Bob Shelton ở đâu.
Đúng lúc đó, điện thoại di động đổ chuông, ông nghe máy. Cuộc gọi từ Đội tuần tra cao tốc.
Một sỹ quan đi xe motor đã tìm thấy chiếc Jaguar của Phate ở Oakland.
Không có bằng chứng trực tiếp về mối liên hệ giữa chiếc xe và tên hacker nhưng nó chắc chắn thuộc về hắn, lý do duy nhất để đổ một lượng lớn xăng và châm lửa đốt một chiếc xe sáu mươi ngàn đô la chỉ có thể là để tiêu hủy bằng chứng.
Theo Ban điều tra hiện trường, ngọn lửa đã làm tốt công việc của nó, không còn chút dấu vết nào có vẻ hữu ích cho đội của ông.
Bishop quay lại mang theo báo cáo sơ bộ về hiện trường ở Học viện Thánh Francis. Huerto Ramirez đã soạn lại nó theo thời gian lưu trữ nhưng cũng chẳng tìm được gì giúp ích cho việc điều tra. Vũ khí giết người lại là một con dao Ka-bar. Loại băng dính dùng để bịt mắt Jamie Turner không giúp lần ra dấu vết, tương tự như thứ hỗn hợp nước sốt hạt tiêu và amoniac dùng để làm bỏng mắt thăng bé. Họ tìm thấy vô số dấu vấn tay của Holloway nhưng giờ chúng cũng vô dụng vì họ đã biết nhân dạng của hắn.
Bishop bước đến tấm bảng trắng và ra hiệu cho Mott đưa cho cây bút, Mott liền tung nó về phía ông. Viên thám tử viết những chi tiết này lên tấm bảng nhưng khi bắt đầu viết “Vân tay”, ông dừng lại.
Những dấu vấn tay của Phate…
Chiếc Jaguar cháy…
Những sự kiện này khiến ông gờn gợn. Tại sao? Ông băn khoăn, cọ các khớp tay vào chỗ tóc mai.
Hãy làm điều gì đó với nó…
Ông bẻ khớp ngón tay.
“Sao vậy?”, Linda Sanchez hỏi. Mott, Miller và Nolan nhìn ông.
“Lần này Phate không đi găng tay.”
Ở quán Vesta, khi hắn bắt cóc Lara Gibson, Phate đã cẩn thận quấn một tờ giấy ăn xung quanh chai bia nhằm tránh để lại dấu vân tay. Ở Học viện Thánh Francis, hắn không buồn bận tâm nữa. “Như thế nghĩa là hắn biết chúng ta đã có nhân dạng thật của hắn.” Rồi viên thám tử nói tiếp, “Và cả chiếc xe đó nữa. Lý do duy nhất để phá hủy chiếc xe vì có lẽ hắn biết chúng ta đã phát hiện ra hắn đang sử dụng một chiếc Jaguar. Làm thế nào mà hắn biết được?”.
Phía truyền thông không hề đề cập đến tên hắn hay việc kẻ giết người có sử dụng một chiếc Jaguar.
“Chúng ta có gián điệp, anh nghĩ vậy sao?”, Linda Sanchez hỏi.
Bishop lại đưa mắt nhìn tấm bảng trắng và để ý thấy cái tên Shawn, cộng sự bí ẩn của Phate. Ông gõ gõ lên cái tên đó và hỏi, “tất cả mục đích trong trò chơi của hắn là gì? Là tìm một cách bí mật nào đó để truy cập vào cuộc sống của nạn nhân”.
Nolan nói, “Ông nghĩ Shawn là một Trapdoor? Một kẻ tay trong?”“
Tony Mott nhún vai, “Có thể hắn là người ở Trung tâm Điều động hoặc Trụ sở chính? Hay một người trong nhóm cảnh sát?”.
“Hoặc ai đó từ Phòng quản lý dữ liệu cảnh sát bang California?”, Stephen Miller phỏng đoán.
“Hoặc có lẽ”, một giọng đàn ông cất lên, “Gillette chính là Shawn”.
Bishop quay lại và thấy Bob Shelton đang đứng trước khoang làm việc ở phía sau căn phòng.
“Ông đang nói gì vậy?”, Patricia Nolan hỏi.
“Lại đây”, ông ta nói, ra hiệu cho họ về phía khoang làm việc đó.
Bên trong, màn hình máy tính trên bàn vẫn sáng lên các đoạn kí tự. Shelton ngồi xuống và kéo chuột qua các dòng chữ trong khi những người khác trong đội đứng xúm xung quanh.
Linda Sanchez nhìn vào màn hình. Với vẻ lo lắng cô nói, “Anh đang vào ISLEnet. Gillette nói chúng ta không được đăng nhập từ đây”.
“Tất nhiên là hắn phải nói thế”, Shelton cay nghiệt phản ứng. “Có biết tại sao không? Vì hắn sợ chúng ta sẽ tìm ra thứ này…” Ông kéo chuột xuống một chút và chỉ vào màn hình. “Đó là một báo cáo cũ của Bộ Tư Pháp mà tôi đã tìm thấy trong tài liệu lưu trữ của hạt Contra Costa. Hẳn Phate đã hủy bản sao ở Washington nhưng bỏ quên bản này.” Shelton gõ tay lên màn hình. “Gillette chính là Valleyman. Hắn và Holloway điều hành băng đảng đó – Knights of Access (Những kị sỹ truy cập) – cùng nhau. Họ lập nên băng đó.”
“Mẹ kiếp”, Miller lẩm bẩm.
“Không”, Bishop thì thầm. “Không thể nào.”
Mott gắt lên, “Hắn cũng social engitteer với chúng ta!”.
Bishop nhắm mắt, đau đớn vì sự phản bội này.
Shelton lẩm bẩm, “Gillette và Holloway đã biết nhau nhiều năm. “Shawn” hẳn là một tên màn hình của Gillette. Hãy nhớ rằng người cai tù nói họ có bắt gặp hắn Online. Lúc đó có thể hắn đang liên hệ với Phate. Có lẽ tất cả những chuyện này là kế hoạch để đưa Gillette ra khỏi nhà tù. Thật là một kẻ khốn nạn”.
Nolan phản bác, “Nhưng Gillette cũng lập trình cho chương trình bot của mình tìm kiếm Valleyman”.
“Nhầm rồi.” Shelton thảy một bản in về phía Bishop. “Hắn chỉnh sửa lệnh tìm kiếm như thế này đây.”
Bản in ghi:
Tìm kiếm trên: IRC, Undernet, Dalnet, WAIS, gopher, Usenet, BBSS, www, FTP, ARCHIVES.
Tìm kiếm cho: (Phate HOẶC Holloway HOẶC “Jon Patrick Holloway” HOẶC “Jon Holloway”) NHƯNG KHÔNG có Valleyman HOẶC Gillette.
Bishop lắc đầu, “Tôi không hiểu”.
“Cách anh ấy viết yêu cầu”, Nolan nói, “chương trình bot của anh ta sẽ săn tìm tất cả những gì nhắc đến Phate, Holloway hoặc Trapdoor mà không nhắc đến Gillette hoặc Valleyman. Những thông tin như thế sẽ bị bỏ qua”.
Shelton nói tiếp, “Hắn chính là kẻ đã báo động cho Phate. Vì vậy mà hắn đã kịp trốn khỏi Học viện Thánh Francis. Và cũng chính Gillette báo cho hắn rằng chúng ta đã biết loại xe mà hắn đang đi, thế nên hắn mới đốt nó đi”.
Miller bổ sung, “Và hắn còn tuyệt vọng đòi ở lại để giúp chúng ta, nhớ chứ?”.
“Chắc chắn là hắn phải thế”, Shelton gật đầu nói. “Nếu không, hắn sẽ mất cơ hội để..”
Hai viên thám tử quay ra nhìn nhau.
Bishop thì thào, “… bỏ trốn”.
Họ chạy vội ra hành lang dẫn đến Phòng thí nghiệm phân tích. Bishop để ý thấy Shelton đã rút vũ khí ra.
Cánh cửa Phòng thí nghiệm đã bị khóa. Bishop đập cửa nhưng không có phản hồi. “Chìa khóa!”, ông gọi Miller.
Nhưng Shelton càu nhàu, “Chìa khóa mẹ gì…” rồi đạp cửa, giương súng lên.
Căn phòng trống không.
Bishop tiếp tục chạy đến cuối hành lang và xông vào một nhà kho ở phía sau tòa nhà.
Ông nhìn thấy cửa thoát hiểm dẫn ra bãi đỗ xe. Nó mở toang. Chuông báo động trên thanh gạt mở cửa đã bị tháo ra – hệt như cách Jamie Turner đã làm để trốn thoát khỏi Học viện Thánh Francis.
Bishop nhắm mắt và dựa vào bức tường ẩm thấp. Ông cảm thấy sự phản bội này thấm sâu tận vào tim, bén nhọn như con dao khủng khiếp của Phate.
“Càng biết cậu, tôi lại càng thấy cậu không giống như những hacker điển hình.”
“Ai mà biết được? Có lẽ tôi thực sự không như vậy!”
Viên thám tử quay lại và chạy vội vào khu vực chính của CCU. Ông nhấc điện thoại rồi gọi cho Văn phòng của Cục Cải huấn ở Tòa nhà hạt Santa Clara. Viên thám tử giới thiệu bản thân và nói, “Chúng tôi có một nghi phạm vừa bỏ trốn, chân đeo vòng giám sát. Chúng tôi cần một cuộc truy lùng khẩn cấp. Tôi sẽ cung cấp cho các anh số của chiếc vòng”. Ông nhìn vào sổ tay. “Nó là..”
“Ông vui lòng gọi lại sau được không, sỹ quan?”, một giọn uể oải đáp lại.
“Gọi lại à? Xin lỗi ông, ông không hiểu rồi. Chúng tôi vừa có một vụ đào tẩu. Chỉ trong vòng ba mươi phút trước. Chúng tôi cần phải theo dấu hắn ta.”
“À, chúng tôi không theo dấu được. Toàn bộ hệ thống đang gặp sự cố. Sập như khí cầu Hindelberg rớt vậy. Kỹ thuật viên của chúng tôi chưa thể tìm ra nguyên nhân.”
Bishop cảm nhận một cơn ớn lạnh chạy toàn thân. “Hãy nói với họ các anh vừa bị hack”, ông nói. “Đó là nguyên nhân đấy.”
Đầu máy bên kia bật cười mỉa mai. “Ông xem phim nhiều quá rồi, Ngài thám tử. Không ai có thể xâm nhập vào máy tính của chúng tôi. Hãy gọi lại sau ba hoặc bốn tiếng nữa. Người của chúng tôi nói rằng lúc đó hệ thống sẽ hoạt động trở lại.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.