Trường Junipero Serra trông thật bình dị trong sương sớm.
Ngôi trường tư dành riêng cho giới nhà giàu, tọa lạc tại một khu đất rộng tám héc ta, nằm giữa Trung tâm nghiên cứu Xerox”s Palo Alto và một trong nhiều cơ sở của Hewlett-Packard gần Đại học Stanford. Nó trở nên nổi tiếng và gắn liền với danh tiếng tuyệt vời vì đã đào tạo nên hầu hết những học sinh đủ tiêu chuẩn vào các trường trung học mà (bố mẹ) họ chọn lựa. Khuôn viên trường tuyệt đẹp và nhân viên thì được trả lương hậu hĩnh.
Tuy nhiên, lúc này cô tiếp tân có thâm niên làm việc vài năm ở đây lại không muốn tận hưởng những lợi ích từ môi trường làm việc của mình. Đôi mắt cô nhòa lệ và cô phải cố hết sức để kiểm soát cơn run rẩy trong giọng nói. “Ôi Chúa ơi, Chúa ơi”, cô thì thào. “Joyce vừa ở đây nửa tiếng trước. Tôi có nhìn thấy chị ấy. Chị ấy vẫn ổn. Ý tôi là, mới chỉ nửa tiếng trước thôi mà.”
Đứng trước mặt cô ta là một người đàn ông trẻ tuổi, tóc hung đỏ và có ria mép, vận một bộ vét đắt tiền. Mắt anh ta đỏ hoe, như thể anh ta cũng đang khóc, hai bàn tay siết chặt vào nhau, dường như đang rất đau buồn.
“Chị ấy và Don đang lái xe đến Napa, tới vườn nho. Họ dự định ăn trưa với một đối tác đầu tư của Don.”
“Đã xảy ra chuyện gì?”, cô ta nghẹn lời hỏi.
“Một chiếc xe buýt chở công nhân nhập cư… nó bất ngờ ngoặt tay lái và đâm thẳng vào họ.”
“Ôi, Chúa ơi”, cô lại lẩm bẩm. Một người phụ nữ khác đi ngang qua và người lễ tân nói, “Amy, lại đây”.
Người phụ nữ này, mặc một bộ vét màu đỏ, trên tay mang một mảnh giấy có tiêu đề “Giáo án”, bước tới chiếc bàn. Người lễ tân thì thầm, “Joyce và Don Wingate gặp tai nạn”.
“Không!”
“Thật tệ.” Cô lễ tân gật đầu. “Đây là em trai Don, Irv.”
Họ gật đầu chào nhau rồi cô Amy rầu rĩ nói, “Họ thế nào?”.
Người em trai nuốt khan nơi cổ họng đang nghẹn lên vì xúc động. “Họ sẽ qua khỏi. Ít nhất đó là điều bác sỹ nói lúc này. Nhưng cả hai vẫn còn đang hôn mê. Anh trai tôi bị thương ở lưng.” Anh ta cố kìm nén những giọt nước mắt.
Người lễ tân cũng lau nước mắt. “Joyce rất tích cực trong hội phụ huynh. Ai cũng yêu mến chị ấy. Chúng tôi có thể giúp gì không?”
“Tôi cũng chưa biết”, Irv nói, lắc đầu. “Tôi chưa thể nghĩ thông suốt được.”
“Không, không, tất nhiên là không.”
Amy nói, “Nhưng mọi người ở trường sẵn sàng giúp đỡ anh, dù anh cần gì”. Amy gọi đến một người phụ nữ dáng người đậm khoảng gần sáu mươi. “Ồ, bà Nagler!”
Người phụ nữ vận bộ vét màu xám tiến đến và nhìn Irv, người đang gật đầu chào bà. “Bà Nagler”, anh ta nói. “Bà là giám đốc ở đây đúng không?”
“Đúng vậy.”
“Tôi là Irv Wingate, chú của Samantha. Tôi đã gặp bà ở Hội bình thơ xuân năm ngoái.”
Bà ta gật đầu và bắt tay anh.
Wingate tóm tắt vụ tai nạn.
“Ôi, Chúa ơi, không”, bà Nagler thảng thốt. “Tôi rất tiếc.”
Irv nói, “Kathy – vợ tôi, đang tới đó. Tôi đến để đón Sammie”.
“Tất nhiên rồi.”
Nhưng dù rất đồng cảm, bà Nagler vẫn giữ nguyên tắc và không đời nào bỏ qua những quy định. Bà cúi xuống rồi gõ lên bàn phím bằng những ngón tay được cắt móng vuông vức và không sơn bóng. Bà nhìn màn hình rồi nói, “Anh có trong danh sách người thân được ủy quyền để đón Samantha”. Bà nhấn một phím khác và một bức ảnh hiện lên – ảnh bằng lái của Irving Wingate. Bà ngước lên nhìn anh ta. Trùng khớp. Rồi bà nói, “Nhưng tôi e rằng vẫn còn hai việc nữa mà anh phải xác nhận. Đầu tiên, vui lòng cho tôi xem bằng lái của anh?”.
“Chắc chắn rồi.” Anh ta đưa tấm thẻ ra. Nó trùng khớp với vẻ ngoài của anh ta và bức ảnh trên máy tính.
“Thêm một việc nữa thôi. Tôi xin lỗi. Anh trai anh là người rất quan tâm đến an ninh, anh biết mà.”
“Ồ, chắc chắn rồi”, Wingate nói. “Mật khẩu.” Anh ta nói nhỏ với bà, “Là S-H-E-P”. Bà Nagler gật đầu xác nhận. Irv đưa mắt ra ngoài cửa sổ nhìn những tia nắng mặt trời trong trẻo rơi trên hàng rào bằng gỗ hoàng dương. “Đó là con chó giống Airedale đầu tiên của Donald, Shep. Chúng tôi nhận nuôi nó khi anh ấy mười hai tuổi. Nó là một con chó tuyệt vời. Anh ấy vẫn nuôi giống chó ấy, bà biết đấy.”
Bà Nagler buồn rầu nói, “Tôi biết. Thi thoảng chúng tôi email cho nhau ảnh những chú chó của mình. Tôi nuôi hai con weimaraner”. Giọng bà nhỏ dần và cố gắng gạt nỗi đau buồn sang một bên. Bà nhấc máy gọi cho giáo viên của Sammie rồi đề nghị đưa cô bé đến khu vực lễ tân.
Irv nói, “Xin đừng nói gì với Sammie. Tôi sẽ nói với con bé khi lên xe”.
“Tất nhiên rồi.”
“Chúng tôi sẽ dừng xe ăn sáng trên đường đi. Bánh kẹp trứng McMuffin”s là món ưa thích của con bé.”
Cô Amy vận bộ vét đỏ nghẹn lại vì mẩu chuyện nhỏ ấy. “Đó cũng là món con bé ăn trong chuyến đi của lớp đến Yosemite.. Cô nhắm mắt và thầm khóc.
Một người phụ nữ châu Á, có vẻ là giáo viên của Sammie, dẫn một bé gái mảnh khảnh có mái tóc hung đỏ vào văn phòng. Bà Nagler mỉm cười và nói, “Chú Irving của con đây”.
“Irv”, anh ta chữa. “Con bé gọi tôi là chú Irv. Chào Sammie.”
“Wow, râu chú mọc lại nhanh thật đấy.”
Wingate bật cười. “Cô Kathy của cháu nói nhìn chú lúc trước trông tao nhã hơn.” Anh ta cúi xuống. “Nghe này, bố mẹ cháu quyết định cho cháu nghỉ học một ngày. Chúng ta sẽ dành ngày hôm nay cùng với họ ở Napa.”
“Bố mẹ đến vườn nho ạ?”
“Đúng thế”
Một thoáng lưỡng lự xuất hiện trên khuôn mặt lấm tấm tàn nhang của con bé. “Bố nói bố mẹ không đi được cho đến tuần sau. Bởi vì những thợ săn.”
“Họ đã đổi ý. Và cháu sẽ đến đó cùng với chú.”
“Tuyệt vời!”
Người giáo viên nói, “Em quay về lớp lấy cặp sách nhé?”
Cô bé chạy vội đi và bà Nagler bắt đầu kể với cô giáo mọi chuyện. “Ôi, không”, cô khẽ thốt lên khi nghe về thảm kịch đó. Vài phút sau, Samantha quay lại, chiếc cặp sách nặng trĩu trên vai. Cô bé và chú Irv bước ra cửa. Người lễ tân thì thầm với bà Nagler ““Cảm ơn Chúa, con bé sẽ được bao bọc”.
Irv Wingate chắc hẳn đã nghe thấy điều này vì anh ta quay lại và gật đầu. Tuy vậy, người lễ tân thoáng khựng lại, nụ cười của anh ta dường như không thân thiện, mà giống như một sự hả hê đầy ma mãnh. Nhưng cô quả quyết rằng mình đã nhầm và cảm thông với nỗi đau buồn tột độ mà người đàn ông tội nghiệp này đang phải chịu đựng.
o O o
“Dậy thôi”, một giọng nói mạnh mẽ cất lên.
Gillette mở mắt và nhìn lên thấy Frank Bishop, đã cạo râu và tắm táp xong, đang tiện tay nhét gấu áo xấu tính của mình vào cạp quần.
“Tám giờ ba mươi rồi”, Bishop nói. “Trong tù họ cho cậu dậy muộn à?”
“Hôm qua tôi thức đến tận bốn giờ”, tay hacker càu nhàu. “Tôi không thể cảm thấy thoải mái. Nhưng cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, đúng không?” Gillette hất đầu về phía chiếc ghế sắt lớn mà Bishop đã còng tay hắn vào.
“Là ý tưởng của cậu đấy chứ, còng tay và chiếc ghế”.
“Tôi không nghĩ ông lại hiểu theo nghĩa đen.”
“Hiểu nghĩa đen cái gì?”, Bishop hỏi. “Hoặc cậu còng tay ai đó vào ghế hoặc là không.”
Viên thám tử mở khóa cho Gillette, tay hacker khó nhọc đứng dậy, xoa cổ tay. Hắn đi vào bếp để pha cà phê và lấy một chiếc bánh vòng để từ hôm trước.
“Mà này, ở đây các ông có Pop-Tarts không? Gillette nói, quay trở lại gian chính của CCU.
“Tôi không biết”, Bishop đáp. “Đây không phải là văn phòng của tôi, nhớ chứ? Dù sao thì, tôi không ưa đồ ngọt. Mọi người chỉ nên ăn sáng bằng thịt xông khói và trứng. Cậu biết đấy, mấy đồ tốt cho tim”. Ông nhấp một ngụm cà phê. “Tôi đã quan sát cậu – khi cậu ngủ.”
Gillette không biết phải nói gì cả. Hắn nhướng một bên lông mày.
“Cậu đã đánh máy trong khi ngủ”
“Giờ người ta gọi là gõ bàn phím, không phải là đánh máy.”
“Cậu có biết mình làm thế không?”
Tay hacker gật đầu. “Ellie thường nói tôi luôn làm thế. Đôi khi tôi cũng mơ thấy mã.”
“Cậu mơ gì?”
“Tôi mơ thấy các tập lệnh – ông biết đấy, những dạng mã nguồn phần mềm. Bằng ngôn ngữ Basic hay C++ hoặc Java.”
Hắn nhìn quanh. “Mọi người đâu cả rồi?”
“Linda và Tony đang trên đường đến đây. Miller cũng thế. Linda vẫn chưa được lên chức bà. Patricia Nolan vừa gọi điện tới từ khách sạn.” Ông nhìn vào mắt Gillette một thoáng. “Cô ấy hỏi cậu có ổn không.”
“Thật à?”
Viên thám tử gật đầu cười. “Càu nhàu tôi vì đã còng tay cậu vào ghế. Cô ấy nói lẽ ra cậu có thể ngủ qua đêm trên ghế bành trong phòng khách sạn của cô ấy. Quả quyết là đêm nay sẽ như vậy”
“Shelton?”
Bishop nói, “Anh ấy đang ở nhà với vợ. Tôi đã gọi cho anh ấy nhưng không ai nghe máy. Đôi khi chỉ đơn giản là anh ấy phải biến mất và dành thời gian bên vợ – cậu biết đấy, vì vấn đề mà tôi đã kể với cậu. Cái chết của cậu con trai”.
Một tiếng bíp vang lên từ khoang làm việc gần đó. Gillette nhỏm dậy và nhìn vào màn hình. Chương trình bot của hắn đã làm việc không ngừng nghỉ cả đêm, lùng sục khắp thế giới, và giờ nó có một phần thưởng mới cho những nỗ lực của mình. Hắn đọc tin nhắn và nói với Bishop, “Triple-X lại đang Online. Hắn ta đã quay lại phòng chat của hacker”.
Gillette ngồi xuống bên máy tính.
“Chúng ta sẽ lại social engineering hắn à?”, Bishop hỏi.
“Không. Tôi có ý tưởng khác.”
“Gì thế?”
“Tôi sẽ thử nói thật xem.”
o O o
Tony Mott tăng tốc chiếc xe đạp Fisher đắt tiền của mình về hướng đông, dọc theo đại lộ Stevens Creek, vượt qua rất nhiều ô tô và xe tải, và ngoặt nhanh vào bãi đỗ xe của CCU.
Anh luôn đạp xe suốt hơn sáu dặm từ nhà ở Santa Clara đến tòa văn phòng CCU với một tốc độ ổn định – tay cảnh sát vạm vỡ rạp mình đạp xe hết tốc lực, như khi chơi các môn thể thao khác, dù là đang trượt tuyết ở A-basin ở Colorado, trượt tuyết bằng trực thăng ở Châu Âu, bơi xuồng hay đu dây xuống từ những vách đá dựng đứng của dãy núi mà anh thích trèo.
Nhưng hôm nay anh đạp xe nhanh một cách khác thường, ý nghĩ rằng sớm hay muộn sẽ năn nỉ được Frank Bishop cứ lẩn quẩn trong đầu anh, bằng cái cách mà anh chưa thể thuyết phục được Andy Anderson, để khoác lên mình bộ áo chống đạn và thực thi công việc của một cảnh sát thực thụ. Anh đã học hành rất chăm chỉ ở học viện, và dù là một cảnh sát mạng giỏi, nhiệm vụ của anh tại CCU vẫn chẳng mấy thú vị hơn việc làm luận văn tốt nghiệp. Có vẻ như anh đã bị phân biệt đối xử chỉ vì bảng điểm trung bình 3.97 ở MIT.
Thòng chiếc khóa Kryptonite cũ kỹ mòn vẹt qua phần khung xe, anh ngước lên nhìn, thấy một người đàn ông mảnh khảnh, để ria mép, đang sải bước về phía anh trong bộ áo mưa.
“Chào”, người đàn ông cất lời, mỉm cười.
“Xin chào.”
“Tôi là Charlie Pittman, Sở cảnh sát quận Santa Clara.” Anh ta nói rồi chìa tay ra.
Mott bắt tay anh ta. Dù biết rất nhiều thanh tra quận, anh vẫn không nhận ra người này. Nhưng liếc nhanh tấm thẻ căn cước lủng lẳng trên cổ anh ta, Mott thấy tấm ảnh đó trùng khớp.
“Anh chắc là Tony Mott.”
“Đúng vậy.”
Viên cảnh sát quận trầm trồ nhìn chiếc xe Fisher. “Tôi nghe nói anh đạp xe thần sầu.”
“Chỉ khi xuống dốc thôi”, Mott nói, mỉm cười khiêm tốn, dù sự thật đúng là thế, phải, anh đạp xe thần sầu, dù là xuống dốc, lên dốc hay trên đường bằng.
Pittman cũng bật cười. “Tôi không tập nổi nửa số bài thể dục cần thiết. Đặc biệt là khi đang phải theo chân một tên như gã máy tính này”
Buồn cười thật – Mott chưa từng nghe nói ai đó từ cảnh sát quận đang làm vụ này. “Anh có vào trong không?”, Mott tháo mũ bảo hiểm.
“Tôi vừa vào đó rồi. Frank đã nói qua tình hình cho tôi. Đây quả là một vụ điên rồ.”
“Tôi cũng thấy thế”, Mott đồng tình, nhét đôi găng tay bắn súng kiêm găng tay đi xe vào cạp quần soóc spandex của mình.
“Gã mà Frank đang làm việc cùng – gã cố vấn ấy? Cái gã trẻ đấy?”
“Ý anh là Wyatt Gillette?”
“Phải, đó là tên của hắn. Hắn thực sự hiểu biết về máy tính, đúng không?”
“Hắn là một cao thủ”, Mott nói.
“Hắn sẽ giúp các anh trong bao lâu?”
“Đến khi nào chúng tôi tóm được tên khốn này, tôi đoán thế.”
Pittman nhìn đồng hồ. “Tôi nên đi thôi. Khi khác tôi qua”
Khi Pittman quay bước đi, Tony Mott gật đầu, rút di động ra và bấm máy gọi. Tay cảnh sát quận đi qua bãi đỗ của CCU rồi vào bãi đỗ bên cạnh. Mott để ý điều này và thoáng nghĩ thật lạ khi anh ta lại đỗ xe xa thế, trong khi còn rất nhiều chỗ trống ngay phía trước CCU. Nhưng rồi Mott tiếp tục bước về phía văn phòng, miên man nghĩ về vụ án và làm thế nào, bằng cách này hay cách khác, kiếm được một chân trong đội tác chiến lúc họ đá tung cửa để tóm cổ Jon Patrick Holloway.
o O o
“Ani, Ani, Animorphs”, bé gái nhỏ nói.
“Gì nhỉ?”, Phate lơ đãng hỏi. Họ đang ở trên một chiếc xe Acura Legend, vừa mới bị đánh cắp nhưng đã được đăng ký hợp lệ bằng một trong số những nhân dạng của hắn. Chiếc xe đang trên đường đến tầng hầm nhà hắn ở Los Altos, nơi cuộn băng dính, con dao Ka-bar và một chiếc camera kỹ thuật số đang chờ Samantha Wingate bé nhỏ.
“Ani, Ani, Animorphs. Này, Chú Irv, chú có thích Animorphs không?”
Không, không một chút quái nào hết, Phate nghĩ. Nhưng chú Irv nói, “Chắc chắn là có rồi”.
“Sao bà Gitting lại buồn thế?”, Samie Wingate hỏi.
“Ai cơ?”
“Cái bà ở bàn tiếp tân ấy.”
“Chú không biết.”
“Có phải bố mẹ đã đến Napa rồi đúng không ạ?”
“Đúng vậy.”
Phate không biết họ đang ở đâu. Nhưng hắn biết, dù ở đâu thì họ cũng được tận hưởng những khoảnh khắc bình yên cuối cùng trước khi cơn bão kinh hoàng nổi lên. Chỉ mấy phút trước, khi ai đó ở trường Junipero Serra gọi cho bạn bè cùng gia đình của Wingate và phát hiện ra rằng không hề có vụ tai nạn nào.
Phate băn khoăn ai sẽ kinh hoàng nhất: Cha mẹ của đứa trẻ mất tích, bà hiệu trưởng hay những giáo viên đã giao nó cho một tên sát nhân?
“Ani, Ani, Ani, Ani, Animorphs. Ai là nhân vật yêu thích của chú?”
“Yêu thích cái gì?”, Phate hỏi.
“Chú nghĩ là cái gì?”, Samantha nhỏ bé hỏi – hơi hỗn, cả Phate và chú Irv đều nghĩ thế.
Con bé nói, “Animorph yêu thích ấy. Cháu nghĩ Rachel là nhân vật yêu thích của cháu. Cô ấy biến thành một con sư tử. Cháu đã nghĩ ra một câu chuyện về cô ấy. Và nó cực hay. Chuyện xảy ra thế này…”.
Phate lắng nghe câu chuyện tầm phào khi cô bé tiếp tục huyên thuyên bên tai. Con bé hỗn hào cứ nói mãi câu chuyện ngớ ngẩn mà chẳng cần chút khích lệ nào từ chú Irv, kẻ lúc này chỉ cảm thấy dễ chịu khi nghĩ đến con dao sắc như dao cạo đang chờ ở nhà và mường tượng ra phản ứng của Donald Wingate khi tay doanh nhân nhận được chiếc túi nhựa chứa một món quà khá kinh khủng vào cuối ngày. Như trong trò Access, bản thân Phate là người giao UPS, kẻ giao món hàng và nhận được chữ ký nhận của D. wingate trên hóa đơn. Với nhiệm vụ này, hắn sẽ thu được hai mươi lăm điểm, số điểm cao nhất cho một vụ giết người. Hắn nghĩ lại cú social engỉneer của mình ở ngôi trường đó. Quả là một vụ hack tuyệt đỉnh. Rất thách thức nhưng vẫn ổn thỏa (mặc dù chú Irv không mấy hợp tác vì hắn rõ ràng đã cạo ria sau khi chụp bức ảnh trên bằng lái xe gần đây).
Ngồi trên ghế xe, con bé ngó ngoáy kinh khủng. “Chú có nghĩ chúng ta sẽ được cưỡi chú ngựa con mà bố mua cho cháu không? Trời, thế mới là tuyệt. Billy Tomkins suốt ngày nói về con chó ngu ngốc của nó, kiểu như, ai mà lại không có nổi một con chó chứ? Ý cháu là, ai cũng có một con chó. Nhưng cháu có hẳn một chú ngựa con.”
Phate liếc nhìn con bé. Mái tóc được chải chuốt hoàn hảo. Chiếc đồng hồ đeo tay đắt tiền với quai đeo bằng da bị nó bôi bẩn với những hình vẽ bằng mực rối rắm. Đôi giày được đánh bóng loáng. Hơi thở thơm mùi pho mát.
Hắn quyết định rằng Sammie không giống Jamie Turner, kẻ mà hắn do dự không giết vì thằng bé gợi lên nhiều điều về chính bản thân hắn. Không, đứa bé này cũng giống như tất cả những đứa nhỏ thối tha khác đã biến cuộc sống ở trường của cậu bé Jon Patrick Holloway thành địa ngục.
Chụp vài bức ảnh của Samantha bé nhỏ trước chuyến đi đến tầng hầm của hắn và sau đó, Samantha bé nhỏ hẳn sẽ mang lại cho hắn rất nhiều khoái cảm.
“Chú có muốn cưỡi con Charizard không, chú Irv?”
“Ai cơ?”, Phate hỏi.
“Trời, con ngựa của cháu. Con mà bố mua cho cháu hôm sinh nhật ấy. Hình như chú cũng ở đó mà.”
“Đúng rồi, chú quên mất.”
“Bố con cháu đôi khi cũng đi cưỡi ngựa. Charizard khá là tài. Nó biết tự quay về chuồng. Hoặc, cháu biết rồi, chú có thể lấy con ngựa của bố và chúng ta sẽ đi quanh hồ cùng nhau. Nếu chú theo kịp.”
Phate băn khoăn không biết hắn có đợi được đến lúc đưa con bé vào tầng hầm không.
Đột nhiên, một tiếng bíp vang lên trong xe, và trong khi con bé vẫn tiếp tục huyên thuyên về những con chó hay sư tử hoạt hình, hoặc bất kể cái gì, Phate lôi chiếc máy nhắn tin ra khỏi thắt lưng rồi lướt ngón tay trên màn hình hiển thị.
Phản ứng của hắn là một cơn thở dốc có thể nghe rõ.
Nội dung tin nhắn của Shawn là Wyatt Gillette đang ở trụ sở CCU.
Phate cảm thấy choáng váng như thể hắn vừa chạm phải một dây điện hở. Hắn buộc phải tấp xe vào lề đường.
Chúa trên cao… Gillette – Valleyman, đang hỗ trợ bọn cớm! Đó là lý do tại sao chúng biết rất nhiều về hắn và đang theo hắn sát nút. Đột nhiên hàng trăm ký ức từ những ngày của hội Knights of Access ùa về. Những vụ hack không thể tin nổi. Hàng giờ đồng hồ dành cho những cuộc trò chuyện điên rồ, gõ bàn phím hết tốc lực vì sợ tan biến một ý tưởng. Nỗi ám ảnh. Sự liều lĩnh. Niềm hứng khởi khi vào được những nơi trên mạng mà chẳng ai đến được.
Và mới hôm qua thôi, hắn vẫn nghĩ về bài báo mà Gillette đã viết. Hắn nhớ dòng cuối cùng: Một khi bạn đã dành thời gian trong Blue Noivhere – Miền xanh thẳm vô định, bạn sẽ không bao giờ có thể hoàn toàn quay lại Thế giới thực.
Valleyman – kẻ mang trong mình nỗi tò mò trẻ thơ và bản năng gan lì không cho phép hắn ngơi nghỉ cho đến khi hiểu được mọi điều cần biết về những thứ mới mẻ.
Valleyman – kẻ có tài viết phần mềm giỏi ngang ngửa, và đôi khi, vượt qua cả Phate.
Valleyman – kẻ đã phản bội và phá hủy đời Holloway, đập tan sự nghiệp Social Engineer vĩ đại của hắn. Và cũng là kẻ vẫn còn sống sót vì Phate chưa bận tâm đến việc giết hắn.
“Chú Irv, ừm, sao ta lại dừng ở đây? Ý cháu là, có phải xe bị làm sao không?”
Hắn liếc nhìn con bé. Rồi lại nhìn quanh con đường vắng vẻ.
“Chà, Sammie, cháu biết không – chú nghĩ có vẻ là thế đấy. Cháu xem hộ một chút được không?”
“Ừm, cháu ư?”
“Phải.”
“Cháu không biết phải làm gì.”
“Chỉ cần xem có phải xe bị xịt lốp không”, chú Irv ân cần nói. “Cháu làm được không?”
“Cháu nghĩ là được. Thế bánh nào?”
“Bánh sau bên phải”
Con bé nhìn về bên trái.
Phate chỉ hướng ngược lại.
“Ừm, được rồi, bánh xe đó. Cháu phải xem gì đây?”
“Chà, thế Animorphs sẽ xem xét gì nhỉ?”
“Cháu không biết. Có lẽ là xem có đinh cắm vào nó không hay đại loại thế?”
“Giỏi đấy. Sao cháu không đi xem có đinh găm vào bánh xe không nhỉ?”
“Được ạ.”
Phate mở khóa dây đai an toàn cho con bé.
Rồi hắn vươn người qua Sammie để với tay nắm cửa.
“Cháu tự làm được”, nó quả quyết nói. “Chú không cần giúp đâu.”
“Được.” Phate ngồi lại và quan sát con bé lóng ngóng với cái chốt rồi đẩy cửa xe mở ra.
Sammie bước ra ngoài và đi tới phía sau xe. “Cháu thấy nó ổn”, con bé nói to.
“Tốt lắm”, Phate nói. Và khởi động động cơ, phóng vọt lên phía trước. Cửa xe sập lại và từ bánh xe, bụi và sỏi bắn tung tóe vào Sammie. Con bé bắt đầu gào lên, “Chờ đã, chú Irv”..
Chiếc xe phóng lên đường cao tốc.
Sammie khóc lóc chạy theo chiếc xe nhưng nhanh chóng khuất trong đám bụi lớn từ những bánh xe đang phóng hết tốc lực. Về phần mình, Phate đã không hề nghĩ đến Samantha Wingate bé nhỏ ngay từ lúc cửa xe sập lại.