“Đến nơi rồi”, Bishop nói.
Họ dừng xe trước một ngôi nhà kiểu nông trang nhỏ nhắn nhưng nằm giữa một bãi cỏ xanh tươi, áng chừng khoảng nửa mẫu Anh, một mảnh đất có thể coi là lớn trong khu vực Thung lũng Silicon này.
Gillette hỏi tên thị trấn và Bishop trả lời là Moutain View. Rồi ông nói thêm, “Tất nhiên tôi không thực sự nhìn thấy ngọn núi nào. Cảnh duy nhất tôi thấy là khu nhà của ông hàng xóm Dodge, vào những ngày quang đãng thì là nhà chứa máy bay khổng lồ ở Monett Filed”. Ông chỉ về phía bắc, bên kia dòng đèn xe cộ ngược xuôi dọc cao tốc 101.
Họ đi dọc trên vỉa hè quanh co rạn nứt và lồi lõm tệ hại. Bishop nói, “Cẩn thận bước chân cậu đó. Tôi cũng định sửa mấy lần rồi. Cậu phải biết đó là nhờ dãy đứt gãy San Andreas đấy (Đứt gãy San Andreas là một đứt gãy chuyển dạng lục địa, có độ dài khoảng 1.300 km (800 dặm), cắt qua Califomia, Hoa Kỳ.) Nó cách đây ba dặm về phía kia. Này, nếu cậu không phiền thì hãy lau chân đã”.
Ông mở cửa và dẫn tay hacker vào trong nhà.
Vợ của Frank Bishop – Jennie, là một người phụ nữ nhỏ nhắn độ gần bốn mươi tuổi. Khuôn mặt ngắn của cô không xinh đẹp nhưng lại rất lôi cuốn và có nét gì đó hiền dịu. Trong khi Bishop có mái tóc xịt keo, tóc mai dài và áo sơ mi tay ngắn màu trắng – đích thực là một kẻ du hành xuyên thời gian đến từ thập niên năm mươi thì vợ ông lại là một bà nội trợ rất thời thượng. Mái tóc dài bện kiểu Pháp, quần jean, áo sơ mi hàng thiết kế. Trông cô rất gọn gàng và khỏe mạnh, dù với Gillette – một người vừa thoát khỏi nhà tù và xung quanh toàn những người California rám nắng, cô có vẻ xanh xao.
Cô không có vẻ gì là ngạc nhiên khi chồng mang gã tội phạm về nhà ngủ lại qua đêm, nên Gillette tự nhủ hẳn cô đã nhận được điện thoại báo trước về vị khách.
“Anh đã ăn chưa?”, cô hỏi.
“Chưa”, Bishop đáp.
Nhưng Gillette giơ lên túi giấy đựng thứ họ đã ghé mua trên đường từ CCU về. “Tôi ổn với cái này.”
Rất tự nhiên, Jennie giật lấy cái túi, nhìn vào trong. Cô bật cười. “Cậu sẽ không ăn tối bằng bánh Pop-Tarts. Cậu cần một bữa ăn thực sự.”
“Không, thật ra…” Ngoài mặt thì cười mà lòng đau như cắt, Gillette đành nhìn món bánh của mình biến mất vào trong nhà bếp.
Rất gần, mà lại rất xa…
Bishop tháo dây, cởi giầy rồi đi đôi dép lê trong nhà vào. Tay hacker cũng tháo giày, và chân đi tất bước vào phòng khách, nhìn ngó xung quanh.
Nơi này gợi cho Gillette nhớ về những ngôi nhà tuổi thơ của mình. Thảm trải sàn màu trắng đã tới lúc phải thay. Đồ đạc của hãng JCPenney hoặc Sears. Một chiếc ti vi đắt tiền và dàn âm thanh rẻ tiền. Chiếc bàn ăn cũ đang được trưng dụng thành bàn làm việc, có vẻ hôm nay là ngày thanh toán các hóa đơn. Cả tá bì thư được bày ra cẩn thận chờ gửi đi. Pacitic Bell, Mervyn’s, MasterCard, Visa.
Gillette ngắm nghía mấy cái khung ảnh đặt trên bệ lò sưởi. Có đến mấy chục khung như thế. Trên tường, bàn và giá sách còn nhiều hơn. Trong tấm ảnh cưới của cặp đôi là một Frank Bishop trẻ trung, trông giống hiện tại, vẫn hai hàng mai và tóc xịt keo (tuy nhiên chiếc sơ mi trắng bên dưới áo vét tuxedo được giữ thẳng thớm nhờ một chiếc thắt lưng vải to bản).
Bishop thấy Gillette đang chăm chú xem ảnh. “Jennie gọi nhà chúng tôi là Thế giới khung ảnh. Chúng tôi có nhiều ảnh hơn cả hai gia đình bất kỳ trong dãy phố gộp lại.” Ông hất đầu về phía sau. “Còn vô số trong phòng ngủ và phòng tắm nữa. Bức ảnh mà anh đang xem – là bố và mẹ tôi.”
“Ông ấy có phải là cớm không? Khoan, ông có thấy phiền khi bị gọi là cớm không?”
“Thế anh có thấy phiền khi bị gọi là hacker?”
Gillette nhún vai. “Không. Chuẩn mà.”
“Cớm cũng thế. Nhưng không, bố tôi sở hữu một công ty in ở Oakland. Bishop và các con trai. Phần “các con trai” không chính xác hoàn toàn vì giờ hai trong số các chị gái tôi đang điều hành nó, cùng với hầu hết các anh em trai.”
“Hai trong số?”, Gillette nhướng mày. “Hầu hết?”
Bishop bật cười. “Tôi là con thứ tám trong số chín anh chị em. Năm con trai và bốn con gái.”
“Thế mới là gia đình.”
“Tôi có cả thảy hai mươi chín đứa cháu cả trai và gái”, ông tự hào nói.
Gillette nhìn bức ảnh chụp một người đàn ông gầy guộc mặc chiếc áo lùng thùng như của Bishop đang đứng trước một tòa nhà một tầng, ngoài mặt tiền là một bảng hiệu, Công ty In ấn và sắp chữ Bishop và các con trai.
“Ông không muốn theo nghiệp à?”
“Tôi thích ý tưởng công ty gia đình.” Ông cầm bức ảnh lên và nhìn nó chăm chú. “Tôi nghĩ gia đình là điều quan trọng nhất trên đời. Nhưng nói thật với cậu, tôi không giỏi nghiệp in ấn. Nhàm chán, cậu biết đấy. Việc trở thành một cảnh sát… Nói thế nào nhỉ? Nó dường như vô tận, không có điểm dừng. Luôn có thứ gì đó mới mẻ, mỗi ngày. Ngay khi anh nghĩ mình đã hiểu được tâm địa bọn tội phạm, thì bùm, anh lại thấy một viễn cảnh hoàn toàn khác.”
Ai đó lại gần. Họ quay lại.
“Nhìn xem chúng ta có gì đây nào”, Bishop nói.
Một cậu nhóc tầm tám tuổi đang đứng ở lan can nhòm vào phòng khách.
“Lại đây nào, chàng trai trẻ.
Bận một bộ pajama trang trí bằng những con khủng long nhỏ xíu, cậu bé bước vào phòng khách, ngước nhìn Gillette.
“Chào chú Gillette đi con. Đây là Brandon.”
“Chào chú.”
“Chào Brandon”, Gillette nói. “Cháu thức khuya thế.”
“Cháu muốn chúc bố ngủ ngon. Nếu bố không về nhà quá muộn thì mẹ cho cháu thức.”
“Chú Gillette viết phần mềm cho máy tính đấy.”
“Chú viết các tập lệnh?”, cậu bé hào hứng hỏi.
“Đúng thế”, Gillette nói, bật cười vì cách gọi ngắn gọi của các nhà lập trình dành cho phần mềm lại bật ra một cách dễ dàng khỏi miệng cậu bé.
Cậu bé nói, “Ở trường, chúng cháu viết các chương trình trong phòng máy tính. Chương trình chúng cháu viết tuần trước làm quả bóng nảy khắp màn hình”.
“Nghe vui đấy”, Gillette ướm lời, để ý đôi mắt tròn xoe háo hức của cậu bé. Các nét của bé hầu hết là giống mẹ.
“Không”, Brandon nói, “Nó chán òm. Chúng cháu phải dùng Basic. Cháu sẽ học O-O-P”.
Ngôn ngữ lập trình hướng đến đối tượng (Object-oriented programming) – xu hướng mới nhất, được minh họa bằng ngôn ngữ C++ phức tạp.
Cậu bé nhún vai. “Còn có Java và HTML cho Net nữa. Nhưng ai mà chẳng biết nó.”
“Vậy khi lớn lên cháu muốn theo ngành máy tính?”
“Không, cháu sẽ chơi bóng chày chuyên nghiệp. Cháu chỉ muốn học O-O-P vì mọi thứ bây giờ đều xoay quanh nó.”
Đây là một học sinh tiểu học đã phát mệt vì Basic với đôi mắt bị che lấp bởi khía cạnh lợi thế của lập trình.
“Sao con không chỉ cho chú Gillette máy tính của con”
“Chú có chơi Tomb Raider không?”, cậu bé hỏi. “Hoặc Earthworm Jim?”
“Chú cũng không hay chơi game lắm.”
“Cháu sẽ chỉ cho chú. Đi nào.”
Gillette đi theo cậu bé vào một căn phòng ngổn ngang sách, đồ chơi, dụng cụ thể thao và quần áo. Những tập truyện Harry Porter đặt gần bàn, bên cạnh một đĩa Game Boy, hai đĩa “N Sync và một tá đĩa mềm. Ồ, quả là bức tranh điển hình về thời đại của chúng ta, Gillette thầm nghĩ.
Ở giữa phòng là một chiếc máy tính dòng IBM và hàng tá sách hướng dẫn sử dụng phần mềm. Brandom ngồi xuống, và với tốc độ gõ phím thần tốc, thằng bé khởi động máy và tải một trò game. Gillette nhớ lại khi hắn tầm tuổi cậu bé, phiên bản đỉnh cao trong Thế giới máy tính cá nhân là chiếc Trash-80 mà hắn đã chọn khi cha hắn nói rằng Gillette có thể tự chọn quà cho mình ở Radio Shack. Chiếc máy tính nhỏ bé đó đã khiến hắn vô cùng sung sướng, nhưng tất nhiên nó chỉ là một món đồ chơi thô sơ nếu so với chiếc máy được đặt hàng qua email đang ở trước mắt hắn. Vào thời điểm đó – mới vài năm trước, chỉ vài người trên thế giới sở hữu những chiếc máy có sức mạnh như chiếc mà Brandon đang dùng để điều khiển một cô gái xinh đẹp mặc chiếc váy bó sát màu xanh vượt qua các hang động với khẩu súng trong tay.
“Chú có muốn chơi không?”
Nhưng điều này khiến hắn liên tưởng đến trò chơi “Access” kinh khủng và bức ảnh cô gái nạn nhân của Phate (tên của cô cũng là Lara, giống như nhân vật nữ anh hùng trong trò chơi của Brandom), hiện giờ thì hắn không muốn bất kỳ điều gì liên quan đến bạo lực, kể cả chỉ trong không gian hai chiều.
“Có lẽ để sau vậy.”
Trong vài phút, hắn quan sát đôi mắt hào hứng của cậu bé long lanh trước màn hình máy tính. Rồi viên thám tử ngó vào cửa. “Tắt đèn thôi, con trai.”
“Bố nhìn xem con đến level nào rồi này! Năm phút nữa thôi.”
“Không. Đến giờ đi ngủ rồi.”
“Ôi, bố…”
Bishop kiểm tra xem cậu bé đã đánh răng và nhét bài tập vào cặp chưa. Ông hôn chúc con ngủ ngon, tắt máy tính và đèn, chỉ để lại một nguồn sáng duy nhất là chiếc đèn ngủ hình phi thuyền Star wars.
Ông nói với Gillette, “Đi nào. Tôi sẽ cho cậu xem pháo đài của tôi”.
“Cái gì cơ?”
Bishop dẫn Gillette đi qua nhà bếp, nơi Jennie đang làm bánh kẹp, và ra cửa sau.
Tay hacker khựng lại chỗ cổng vòm, ngạc nhiên trước những gì nhìn thấy trước mặt. Hắn bật cười.
“Phải, tôi là một nông dân”, Bishop tuyên bố.
Những hàng cây ăn quả – có lẽ phải đến năm mươi hàng, chiếm toàn bộ sân sau.
“Chúng tôi chuyển đến đây mười tám năm trước – ngay khi vùng Valley bắt đầu khởi sắc. Tôi vay mượn đủ để mua hai lô. Nơi này vốn là nông trang. Đây là cây mơ và cây anh đào.”
“Anh làm gì với chúng, bán à?”
“Hầu hết là đem cho. Đến Giáng sinh, nếu anh quen với nhà Bishop, anh sẽ nhận được mứt hoặc trái cây sấy. Những người mà chúng tôi thực sự yêu quý thì được tặng rượu anh đào.”
Gillette ngắm nghía những bình tưới và bình phun sương. “Ông khá nghiêm túc với việc này đây nhỉ”, tay hacker nhận xét.
“Nó giúp tôi thăng bằng”. Khi về nhà, tôi với Jennie cùng ra đây và chăm sóc cây cối. Như thể bỏ lại sau lưng tất cả những thứ xấu xa tôi phải giải quyết trong ngày.”
Họ đi dọc những luống cây. Sân sau đầy những ống và vòi nhựa, hệ thống tưới tiêu của viên cảnh sát. Gillette chỉ vào chúng, “Ông biết không, ông có thể vận hành một chiếc máy tính bằng nước đấy”.
“Có thể à? Ồ, ý anh là một thác nước để chạy một tua bin tạo ra điện.”
“Không, ý tôi là thay vì dòng điện chạy qua dây, ông có thể sử dụng nước chảy qua các ống dẫn có van để mở hoặc tắt dòng nước. Tất cả máy tính đều như thế, ông biết đấy. Tắt hoặc mở một dòng chảy.”
“Có thật thế không?”, Bishop hỏi. Ông có vẻ thật sự quan tâm.
“Bộ xử lý máy tính cũng chỉ là những công tắc nhỏ cho phép hoặc không cho phép những hạt điện tích chạy qua. Tất cả những bức ảnh ông nhìn thấy trên máy tính, những bản nhạc, bộ phim, file word, bảng tính, trình duyệt, các cỗ máy tìm kiếm, mạng Intemet, các phép toán học, virus… mọi thứ mà một chiếc máy tính làm đều bắt nguồn từ nguyên lý cơ bản này. Không có phép màu nào cả. Chỉ là bật hoặc tắt những công tắc nhỏ thôi.”
Viên cảnh sát gật gù rồi nhìn Gillette vẻ thấu hiểu. “Trừ một điều là anh không tin điều đó, đúng không?”
“Ý ông là gì?”
“Anh nghĩ những chiếc máy tính thật sự là phép màu.”
Sau một hồi im lặng, Gillette bật cười. “Vâng, đúng thế đấy.”
Họ cứ đứng nơi hàng hiên thêm vài phút, nhìn ngắm những cành cây sáng lấp lánh. Sau đó Jennie Bishop gọi họ vào ăn tối. Hai người bước vào nhà bếp.
Jennie nói, “Tôi phải đi ngủ rồi. Ngày mai tôi rất bận. Rất vui được gặp cậu, wyatt”. Cô bắt tay anh thật chặt.
“Cảm ơn vì đã cho tôi nghỉ lại. Tôi rất cảm kích.”
Cô quay sang nói với chồng, “Em hẹn khám lúc mười một giờ ngày mai”.
“Em có muốn anh đi cùng không? Anh sẽ đi. Bob có thể tiếp quản công việc trong vài giờ.”
“Không. Anh bận tối mắt rồi. Em sẽ ổn thôi. Nêu bác sỹ Williston thấy có gì lạ, em sẽ gọi cho anh từ bệnh viện. Nhưng sẽ không có chuyện gì đâu.”
“Anh sẽ mang di động theo.”
Cô đã dợm bước rồi lại quay ra với một cái nhìn nghiêm nghị. “Ồ, nhưng có một thứ anh phải làm ngày mai đây.”
“Gì thế, em yêu?”, ông lo lắng hỏi.
“Chiếc Hoover.” Cô hất đầu về phía chiếc máy hút bụi nằm ở góc nhà, tấm nhựa phía trước đã bị trật ra và đường ống phủ bụi treo bên cạnh. Một số phụ tùng khác nằm trên một tờ báo gần đó. “Hãy tiếp quản nó.”
“Anh sẽ sửa”, Bishop nói. “Chắc chỉ là bụi hoặc thứ gì đó mắc trong mô tơ.”
Cô càu nhàu, “Anh đã có một tháng rồi. Giờ đến lúc mời chuyên gia thôi”.
Bishop quay sang Gillette. “Cậu có biết gì về máy hút bụi không?”
“Không. Rất tiếc”
Viên thám tử nhìn sang vợ. “Ngày mai anh sẽ mang nó đi sửa. Hoặc ngày kia.”
Một nụ cười thấu hiểu. “Địa chỉ chỗ sửa ở trên tờ giấy nhắn màu vàng kia. Anh thấy không?”
Ông hôn vợ, “Ngủ ngon, em yêu”. Và Jennie đi khuất sau lan can.
Bishop đứng dậy bước đến tủ lạnh. “Tôi cho là mời một tù nhân một cốc bia cũng chẳng khiến tôi gặp rắc rối hơn cái mớ bòng bong mà tôi đang mắc phải.”
Gillette lắc đầu. “Cảm ơn nhưng tôi không uống.”
“Không?”
“Có một điều về hacker: Chúng tôi không bao giờ uống thứ gì gây buồn ngủ. Vào một nhóm thảo luận về hacking – chẳng hạn như alt.hack, ông sẽ thấy một nửa bài đăng nói về việc tháo tung các công tắc của Pac Bell hay đột nhập vào Nhà Trắng, nửa còn lại là về lượng caffeme trong các loại đồ uống mới nhất.”
Bishop rót cho mình một cốc Budweiser. Ông liếc nhìn cánh tay của Gillette, hình xăm con mòng biển và cây cọ. “Hình đó xấu tệ, tôi phải nói vậy. Đặc biệt là con chim đó. Sao cậu lại xăm nó?”
“Lúc đó tôi đang học đại học ở Berkeley. Tôi đã hack liên tục trong ba mươi sáu tiếng trước khi đến bữa tiệc đó.”
“Rồi sao? Cậu làm thế vì bị thách đố à?”
“Không, tôi ngủ quên và thức dậy thì đã thấy nó rồi. Đến giờ vẫn chưa tìm ra thủ phạm.”
“Nó khiến cậu trông kiểu như cựu lính thủy.”
Tay hacker nhìn quanh để chắc chắn Jennie đã đi ngủ rồi bước đến quầy bếp, nơi cô đã vứt túi Pop-Tarts. Anh mở túi rồi lấy ra bốn chiếc bánh, mời Bishop một chiếc.
“Không phải cho tôi, cảm ơn.”
“Tôi cũng sẽ ăn thịt bò nướng”, Gillette nói, chỉ về phía những chiếc bánh kẹp của Jennie. “Chỉ là, trong tù lúc nào tôi cũng mơ về những thứ này. Chúng là loại đồ ăn tuyệt nhất đối với các hacker – nhiều đường và ông có thể mua qua mạng, chúng cũng không bị thiu.” Hắn ngốn một lúc hai cái. “Thậm chí có khi còn chứa các loại vitamin. Tôi không biết nữa. Đây là nguồn năng lượng chính của tôi khi hack. Pop-Tarts, pizza, Moutain Dew và Jolt cola.” Lát sau, Gillette hạ thấp giọng, hỏi, “Vợ ông có ổn không? Cuộc hẹn mà bà nhắc đến ấy?”.
Hắn thấy bàn tay viên thám tử thoáng lưỡng lự khi ông nhấc cốc bia lên và nhấp một ngụm. “Cũng không có gì nghiêm trọng… Vài xét nghiệm thôi.” Rồi, như để chuyển hướng câu chuyện, ông nói, “Tôi đi xem Brandon thế nào đây”.
Vài phút sau ông quay lại thì túi Pop-Tarts mà Gillette cầm đã rỗng không. “Tôi không để dành cho ông đâu.”
“Không sao”, Bishop cười và ngồi xuống.
“Thằng bé thế nào?”
“Nó ngủ rồi. Cậu và vợ đã có con chưa?”
“Chưa. Lúc đầu thì chúng tôi không muốn… À, nên nói là tôi không muốn. Nhưng đến lúc tôi muốn, tôi lại bị bắt. Rồi sau đó chúng tôi ly hôn.”
“Vậy cậu thích trẻ con chứ?”
“Ôi, có chứ.” Anh nhún vai, chùi vụn bánh vào tay rồi thả lên một cái khăn giấy. “Anh tôi có hai con, một trai một gái. Tôi rất hay vui đùa với chúng.”
“Anh trai cậu à?”, Bishop hỏi.
“Ricky”, Gillette nói. “Anh ấy sống ở Montana. Anh ấy làm quản lý công viên, ông tin hay không cũng được. Anh ấy và Carole – vợ anh ấy, có một tổ ấm tuyệt vời. Kiểu nhà bằng gỗ ghép, dù vậy cũng khá là to.” Hắn hất đầu về phía sân sau nhà Bishop. “Ông sẽ ngưỡng mộ vườn rau của họ. Chị ấy là một thợ làm vườn tuyệt vời.”
Đôi mắt Bishop nhìn xuống mặt bàn. “Tôi đã đọc hồ sơ của cậu.”
“Hồ sơ của tôi?”, Gillette hỏi.
“Hồ sơ thời vị thành niên của cậu. Thứ mà cậu đã quên không hủy.”
Tay hacker chậm rãi cuộn tròn tờ giấy ăn trong tay, rồi lại trải ra. “Tôi tưởng chúng phải được bảo mật.”
“Đối với mọi người. Chứ không phải với cảnh sát.”
“Tại sao ông lại làm thế?”, Gillette lãnh đạm hỏi.
“Vì cậu đã trốn khỏi CCU. Tôi đã yêu cầu một bản sao khi chúng tôi phát hiện cậu trốn mất. Tôi nghĩ có thể có chút thông tin giúp tìm ra cậu.” Giọng nói điềm tĩnh của viên thám tử tiếp tục vang lên, “Báo cáo của nhân viên xã hội cũng được gửi kèm về cuộc sống gia đình cậu. Hay sự thiếu thốn cuộc sống gia đình… Kể cho tôi đi. Tại sao cậu phải nói dối mọi người?”.
Gillette im lặng hồi lâu.
“Tại sao mày lại nói dối?”, Gillette nghĩ.
Bạn nói dối vì bạn có thể làm thế.
Bạn nói dối vì trong Miền xanh thẳm vô định, bạn có thể dựng lên bất cứ chuyện gì bạn muốn và chẳng ai biết những gì bạn nói không phải là sự thật. Bạn có thể vào bất kỳ phòng chat nào, nói với cả thế giới rằng bạn đang sống trong một căn nhà to đẹp ở Simnyvale, Menlo Park hoặc walnut Creek và cha bạn là một luật sư, hay bác sỹ hoặc phi công và mẹ bạn là nhà thiết kế hay chủ hàng hoa rồi bạn trai Rick của bạn là ngôi sao đua xe vô địch bang. Rồi bạn có thể tiếp tục nói với thế giới về việc cha con bạn cùng tạo nên một chiếc máy tính Altair từ bộ đồ nghề, liên tục sáu đêm mỗi khi ông đi làm về, và đó là lý do khiến bạn đam mê máy tính.
Một người tuyệt vời.
Bạn có thể nói với cả thế giới rằng, mặc dù mẹ đã qua đời đột ngột vì đau tim, bạn vẫn rất gần gũi với cha. Là một kỹ sư dầu khí, ông phải đi khắp nơi nhưng vẫn luôn về nhà thăm các con vào kỳ nghỉ. Và khi ông về, bạn qua nhà ông mỗi Chủ nhật để ăn tối với ông cùng người vợ mới rất tốt bụng của ông, rồi thỉnh thoảng hai cha con vào phòng làm việc của ông để cùng sửa lỗi phần mềm hoặc chơi một game MUD.
Và đoán thử xem?
Cả thế giới tin lời bạn. Bởi vì ở Miền xanh thẳm vô định, thứ duy nhất mà người ta phải vượt qua là các byte bạn tạo ra bằng những ngón tay vụng về của mình.
Thế giới chẳng bao giờ biết được tất cả chỉ là dối trá.
Thế giới cũng chẳng bao giờ biết bạn là đứa con duy nhất của một người mẹ đã ly hôn, người luôn làm việc khuya đến ba hay bốn đêm một tuần rồi lại đi chơi với “bạn bè”, luôn là đàn ông, vào những đêm còn lại. Và bà chết không phải vì trái tim bệnh tật mà vì cả lá gan và tinh thần của bà đều bị hủy hoại, khi bạn mới mười tám tuổi.
Thế giới không bao giờ biết được rằng cha bạn – người đàn ông không có nghề nghiệp tử tế, đã kết thúc sứ mệnh dường như là duy nhất trong cuộc đời mình, bằng cách rời bỏ mẹ con bạn vào ngày bạn lên lớp ba.
Và tổ ấm của bạn là một loạt những nhà gỗ cùng xe mooc ở khu tồi tàn nhất Thung lũng Silicon. Thứ tài sản duy nhất bạn có là một chiếc máy tính rẻ tiền. Hóa đơn duy nhất được thanh toán đúng hạn là hóa đơn điện thoại vì bạn tự trả bằng tiền công giao báo, để có thể tiếp tục kết nối với thứ giúp bạn không phát điên vì buồn chán lẫn cô đơn: Miền xanh thẳm vô định.
OK, Bishop, ông đã bắt được tôi. Không cha, không anh em. Một người mẹ ích kỷ và nghiện ngập. Và tôi – Wyatt Edward Gillette, một mình trong phòng với những người bạn: Trash-80, Apple, Kaypro, máy tính để bàn, Toshiba, Sun SPARC station…
Cuối cùng, Gillette ngước lên và làm điều hắn chưa từng làm bao giờ, kể cả với vợ mình, hắn kể toàn bộ câu chuyện cho một người khác. Frank Bishop ngồi bất động, chăm chú nhìn khuôn mặt u ám, trống rỗng của Gillette. Khi câu chuyện kết thúc, Bishop nói,
“Vậy là cậu đã social engineer cả tuổi thơ của mình”.
“Phải.”
“Khi cha tôi bỏ đi, tôi lên tám”, Gillette nói, hai tay nắm lấy chai cola, những ngón tay chai sần gõ lên bề mặt kim loại lạnh ngắt như thể đang gõ các phím. T-Ô-I-T-Á-M T-U-Ổ-I-K-H-I… “Cha tôi, ông ấy từng phục vụ trong không quân. Ông đóng quân ở Travis và ở lại đó sau khi giải ngũ. À, thỉnh thoảng ông ở đó. Hầu hết thời gian, ông ra ngoài với bạn bè trong quân ngũ hoặc… À, ông có thể đoán ra ông ấy ở chỗ nào khi không về nhà ban đêm. Ngày ông ấy bỏ đi là lần duy nhất chúng tôi từng nói chuyện nghiêm túc. Lúc đó mẹ tôi không có nhà, ông vào phòng tôi nói rằng ông định đi mua đồ, sao tôi không đi cùng ông. Điều đó hơi kỳ cục vì chúng tôi chưa từng làm bất cứ việc gì cùng nhau cả.”
Gillette hít sâu, cố gắng giữ bình tĩnh. Những ngón tay của hắn gõ điên cuồng trên lon soda như một cơn dông câm lặng.
B-ì-N-H Y-Ê-N. B-ì-N-H Y-Ê-N
“Khi đó chúng tôi sống ở Burlingame, gần sân bay. Rồi tôi và cha lấy xe và lái đến khu mua sắm nhỏ đó. Ông mua cho tôi thứ gì đó ở một hiệu thuốc rồi dẫn tôi đi ăn tối cạnh ga tàu. Món ăn được dọn ra nhưng tôi quá lo lắng nên không ăn được. Ông ấy còn không để ý thấy điều đó. Rồi bỗng nhiên, ông đặt dĩa xuống, nhìn tôi và nói rằng ông không hạnh phúc với mẹ tôi thế nào và ông cần phải ra đi ra sao. Tôi vẫn nhớ cách ông đặt dĩa. Ông nói rằng sự bình yên trong tâm hồn ông đã bị hủy hoại và ông cần phải đi vì chính bản thân mình.”
B-ì-N-H-Y-Ê-N…
Bishop lắc đầu. “Ông ấy nói chuyện với cậu như thể cậu là một ông bạn trong quán rượu. Không phải với một cậu bé, không phải con trai mình. Thật tệ.”
“Ông nói rằng ra đi là một quyết định khó khăn nhưng đó là điều đúng đắn và hỏi liệu tôi có cảm thấy mừng cho ông không.”
“Ông ấy hỏi cậu như vậy ư?”
Gillette gật đầu. “Tôi không nhớ mình đã nói gì. Sau đó chúng tôi rời nhà hàng và bước ra phố. Có lẽ ông để ý thấy tôi buồn nên khi nhìn thấy cửa hiệu ấy, ông nói, Con nói xem con thích gì, con cứ vào đó và mua bất cứ thứ gì con muốn”.
“Một phần thưởng an ủi.”
Gillette cười và gật đầu. “Tôi đoán chính xác là như vậy đấy. Cửa hiệu đó là Radio Shack. Tôi bước vào và chỉ biết đứng đó, nhìn quanh quất. Tôi không nhìn thấy gì hết, tôi đã quá đau đớn và bối rối, cố kìm nén để không khóc. Tôi lấy ngay thứ đầu tiên mình nhìn thấy. Một chiếc máy Trash-80.”
“Một cái gì cơ?”
“Một chiếc TRS-80. Một trong những chiếc máy tính cá nhân đầu tiên.”
B-Ấ-T c-ứ T-H-ứ G-ì C-O-N M-U-Ố-N…
“Tôi đem nó về nhà và tối hôm đó bắt đầu chơi với nó. Rồi tôi nghe thấy mẹ về nhà, sau đó cha mẹ xô xát rồi cha đi mất. Chuyện là thế đấy”
M-I-Ề-N X-A-N-H T-H-Ẳ-M V-Ô…
Gillette cười mỉm, những ngón tay vẫn gõ nhẹ. “Bài báo mà tôi viết? Miền xanh thẳm vô định?”
“Tôi nhớ”, Bishop nói. “Có nghĩa là không gian ảo.”
“Nhưng nó cũng mang một ý nghĩa khác”, Gillette chậm rãi nói.
V-Ô Đ-Ị-N-H.
“Là gì?”
“Cha tôi từng phục vụ không quân, như tôi đã nói. Và khi tôi còn rất nhỏ, ông thường rủ bạn trong quân ngũ đến và chè chén ồn ào say sưa. Đôi lần họ hát bài hát của không quân, Trời xanh Tự do trên cao – The Wild Blue Yonder. Đó, sau khi họ ra về, tôi vẫn nghe thấy bài hát ấy vang lên trong đầu, chỉ là tôi đổi trên cao (yonder) thành vô định (nowhere), the Wild Blue Nowhere, vì ông đã ra đi. Ông ấy đã ở một nơi vô định, nơi tôi không biết.” Gillette nuốt nghẹn khó nhọc. Anh nhìn lên, “Khá là ngớ ngẩn, đúng không?”.
Nhưng dường như Frank Bishop không cho rằng điều đó có gì là ngớ ngẩn. Giọng nói đầy cảm thông như thể một người thân trong gia đình, ông hỏi, “Cậu có bao giờ nghe được tin tức gì từ ông ấy không? Hoặc điều gì đã xảy ra với ông ấy?”.
“Không. Không chút manh mối nào.” Gillette cười. “Thỉnh thoảng cũng có lúc tôi nghĩ mình nên đi tìm ông ấy.”
“Cậu rất giỏi tìm người trên mạng mà.”
Gillette im lặng. Cuối cùng anh cất tiếng, “Nhưng tôi không nghĩ mình sẽ làm thế”.
Những ngón tay chuyển động dữ dội. Càng về cuối càng chậm dần, vì những vết chai tay khiến Gillette không cảm nhận được cái lạnh của lon soda.
C-H-Ú-N-G T-A Đ-I – V-À-O
“Mọi chuyện rồi cũng tốt lên. Tôi học Basic, ngôn ngữ lập trình, khi tôi chín hay mười tuổi, và tôi thường dành hàng giờ viết chương trình. Những chương trình đầu tiên có thể khiến chiếc máy nói chuyện với tôi. Tôi gõ xin chào, và chiếc máy đáp lại Chào Wyatt. Bạn thế nào? thế là tôi liền gõ Khỏe, và nó sẽ hỏi, Hôm nay bạn làm gì ở trường?, tôi cố nghĩ ra những điều mà một người cha thực sự sẽ hỏi để lập trình cho chiếc máy.
B-Ấ-T C-Ứ- T-H-Ứ- G-Ì – C-O-N- M-U-Ố-N…
“Tất cả những email mà mọi người nghĩ là cha tôi đã gửi cho thẩm phán và những bản fax anh tôi gửi đề nghị tôi đến sống cùng anh ấy ở Motana, cùng những báo cáo của các nhà tâm lý học về cuộc sống gia đình tuyệt vời mà tôi có, về chuyện cha tôi là người cha tuyệt vời nhất?… Tôi đã tự viết tất cả.”
“Tôi rất tiếc”, Bishop nói.
Gillette nhún vai. “Này, tôi vẫn tồn tại. Cũng chẳng có vấn đề gì.”
“Có thể là có đấy”, Bishop nhỏ nhẹ nói.
Họ ngồi yên lặng trong vài phút. Rồi viên thám tử đứng dậy và bắt đầu rửa chén đĩa. Gillette cũng giúp ông, họ nói chuyện vẩn vơ – về giỏ lan của Bishop, về cuộc sống ở San Ho. Khi họ sấy khô bát đĩa xong, Bishop uống hết cốc bia rồi kín đáo liếc sang tay hacker. Ông nói, “Tại sao cậu không gọi cho cô ấy?”.
“Gọi à? Cho ai?”
“Vợ cậu.”
“Cũng muộn rồi”, Gillette phản đối.
“Thế thì đánh thức cô ấy dậy. Cô ấy sẽ không tuyệt giao đâu. Tôi thấy có vẻ cậu cũng còn gì để mất đâu.” Bishop đẩy chiếc điện thoại về phía Gillette.
“Tôi nên nói gì?”, anh ngập ngừng nhấc ống nghe.
“Cậu sẽ nghĩ ra điều gì đó.”
“Tôi không biết.”
Viên cảnh sát hỏi, “Cậu nhớ số chứ?”.
Gillette quay số theo trí nhớ, rất nhanh, trước khi kịp chùn lại và ngẫm nghĩ: Nếu em trai cô ấy nghe máy thì sao? Nếu là mẹ cô ấy? Nếu…
“A lô”
Cổ họng hắn nghẹn lại.
“A lô?”, Elana nhắc lại.
“Là anh đây”
Một quãng im lặng, chắc chắn là cô đang kiểm tra đồng hồ.
Tuy vậy, cô không nhắc đến chuyện giờ giấc muộn.
Tại sao cô ấy không nói gì cả?
Tại sao anh ấy không nói?
“Bỗng nhiên muốn gọi cho em. Em đã thấy cái modem đó chưa? Anh để lại trong hòm thư.”
Elana im lặng hồi lâu. Rồi cô nói, “Em đang ở trên giường”.
Một ý nghĩ héo hắt: Liệu cô ấy có đang nằm một mình? Hay Ed đang nằm bên? Trong nhà bố mẹ cô? Nhưng anh vứt nỗi ghen tuông sang một bên và nhẹ nhàng hỏi, “Anh có đánh thức em không?”.
“Anh có gì muốn nói không, Wyatt?”
Anh nhìn Bishop nhưng ông chỉ nhướng mày nhìn anh một cách không kiên nhẫn.
“Anh..”
Elena nói, “Em phải đi ngủ đây”.
“Ngày mai anh gọi cho em được không?”
“Tốt hơn là anh không nên gọi đến nhà. Hôm trước Christian đã nhìn thấy anh và nó không vui đâu.”
Cậu em trai hai mươi hai tuổi của cô – một sinh viên xuất sắc ngành marketing với tính khí của một ngư dân Hy Lạp, nó đã dọa đánh Gillette ở phiên tòa.
“Vậy hãy gọi cho anh lúc nào em một mình. Vào số máy anh đưa em hôm qua.”
Im lặng.
“Em có nó chưa?”, anh hỏi. “Số điện thoại?”
“Em có rồi. Tạm biệt anh.”
“Đừng quên gọi cho luật sư về…”
Điện thoại lặng lẽ ngắt và Gillette gác máy.
“Tôi xử trí không tốt lắm.”
“Ít nhất cô ây đã không gác máy ngay lập tức. Thế là có gì đó rồi.” Bishop bỏ chai bia vào thùng rác. “Tôi không thích làm việc khuya – tôi không thể ăn khuya mà không uống bia, nhưng sau đó tôi lại phải thức dậy vài lần giữa đêm để đi tiểu. Đó là vì tôi đang già đi. À, mai chúng ta sẽ có một ngày khó khăn đấy. Đi chợp mắt chút thôi.”
Gillette hỏi, “Ông sẽ còng tay tôi vào chỗ nào đó à?”.
“Trốn thoát hai lần trong hai ngày là rất tệ, kể cả đối với một hacker. Tôi nghĩ chúng ta bỏ qua cái còng tay thôi. Phòng cho khách ở kia. Trong phòng tắm có bàn chải mới và khăn.”
“Cảm ơn.”
“Ở đây chúng tôi thức dậy lúc sáu giờ mười lăm.” Viên thám tử biến mất vào gian phòng mờ tối.
Gillette nghe thấy tiếng ván sàn cọt kẹt, tiếng nước chảy trong đường ống. Một cánh cửa đóng lại.
Thế là chỉ còn lại một mình hắn, bị bủa vây bởi màn đêm tịch mịch, trong một ngôi nhà xa lạ, những ngón tay lơ đãng gõ hàng tá thông điệp lên một chiếc máy vô hình.
Nhưng chưa đến sáu giờ mười lăm, hắn đã bị chủ nhà đánh thức. Mới chỉ hơn năm giờ.
“Chắc hẳn là lễ Giáng sinh rồi”, viên thám tử nói, tay nhấn công tắc bật đèn trần lên. Ông vận bộ pijama màu nâu. “Chúng ta có quà đây.”
Cũng giống như hầu hết các hacker khác, Gillette cảm thấy rằng nên tránh giấc ngủ như tránh bệnh cúm, nhưng hắn vẫn chưa sẵn sàng thức dậy. Mắt nhắm mắt mở, hắn lẩm bẩm, “Có quà à?”.
“Triple-X gọi vào di động của tôi năm phút trước. Anh ta có địa chỉ email thật của Phate. Là
[email protected].”
“MOL? Tôi chưa từng nghe đến nhà cung cấp dịch vụ Internet nào có tên như thế.” Gillette lăn khỏi giường, cố gắng chống lại cơn chóng mặt.
Bishop nói tiếp, “Tôi đã gọi cho mọi người trong đội. Họ đang trên đường đến văn phòng”.
“Nghĩa là cả chúng ta nữa à?”, tay hacker ngái ngủ càu nhàu.
“Phải, nghĩa là chúng ta nữa.”
Hai mươi phút sau, họ đã tắm rửa và mặc đồ chỉnh tề. Trong bếp, Jennie đã pha sẵn cà phê nhưng họ ăn sáng luôn, để đến văn phòng CCU sàng sớm càng tốt. Bishop hôn tạm biệt vợ. Ông nắm tay vợ và nói, “Cuộc hẹn gặp bác sỹ của em… Chỉ cần em gọi, anh sẽ đến bệnh viện ngay trong vòng mười lăm phút”.
Jenme hôn lên trán ông. “Anh yêu, em chỉ phải làm vài xét nghiệm. Thế thôi.”
“Không, không, không, em nghe này”, ông nói một cách hết sức nghiêm túc, “Anh sẽ gọi. Anh hứa”.
Khi họ ra đến cửa, một tiếng động bất ngờ vang lên ầm ĩ cả gian bếp. Jennie Bishop rê tới lui chiếc máy hút bụi đã được lắp lại hoàn chỉnh trên thảm sàn. Cô tắt máy và ôm chầm lấy chồng.
“Giỏi lắm”, Jennie nói. “Cảm ơn anh yêu.”
Bishop cau mày bối rối. “Anh…”
Gillette vội ngắt lời. “Một việc như thế phải mất cả nửa đêm ấy chứ.”
“Và anh ấy còn dọn dẹp hậu trường nữa chứ”, Jennie Bishop nói với nụ cười hài hước. “Đây mới là phần kỳ diệu.”
“À…”, Bishop lên tiếng.
“Chúng ta nên đi thôi”, Gillette ngắt lời.
Jennie vẫy chào họ và bắt tay vào làm bữa sáng cho Brandon, mắt âu yếm nhìn chiếc máy hút bụi vừa được sửa lại.
Khi hai người bước ra ngoài, Bishop thì thầm với tay hacker, “Vậy là sao? Cậu có mất đến cả nửa đêm không?”.
“Để sửa máy hút bụi?”, Gillette đáp. “Không, chỉ mười phút. Lẽ ra chỉ cần năm phút thôi nhưng tôi không tìm thấy dụng cụ. Tôi phải sử dụng dao làm bếp và cái kẹp quả hạch.
Viên thám tử nói, “Tôi không nghĩ là cậu biết về máy hút bụi”.
“Thực ra là không. Nhưng tôi rất tò mò tại sao nó không hoạt động. Vì vậy mà bây giờ tôi đã biết tuốt về máy hút bụi rồi. Gillette trèo vào xe rồi quay sang Bishop. “Này, liệu chúng ta co thể dừng một lát ở 7-Eleven được không? Nếu như tiện đường.