“Em luôn giữ quyển sổ tay này khi Online”, Jamie Turner nói với Wyatt Gillette.
Những hacker thực thụ thường là những kẻ lộn xộn và luộm thuộm, mỗi người một kiểu, nhưng tất cả đều mang theo bút cùng những quyển sổ tốc ký quăn queo hay xấp giấy Big Chief – bất kỳ thể loại giấy tờ nào khi họ Online. Họ ghi lại từng chi tiết các URL – Universal Resource Locators – bộ định vị nguồn đa năng, những địa chỉ của các Website họ đã tìm thấy, tên phần mềm, các kênh điều khiển của các hacker khác mà họ muốn truy theo và những nguồn khác hỗ trợ việc hack. Việc này rất cần thiết vì hầu hết các thông tin trôi nổi trong Miền xanh thẳm vô định đều rất phức tạp, không ai có thể nhớ các chi tiết một cách chính xác. Trong khi chúng lại đòi hỏi phải thật chính xác, chỉ cần có lỗi in sai sẽ dẫn đến một cú hack thất bại hoặc bỏ lỡ cơ hội kết nối với website hoặc một bảng tin hay ho nhất.
Đã đầu giờ chiều, mọi người trong đội đều cảm thấy vô cùng tắc, vì Phate có thể tiếp cận nạn nhân tiếp theo của hắn ở Bắc California bất cứ lúc nào. Tuy vậy, Gillette vẫn để cậu bé tiếp tục câu chuyện theo nhịp độ của mình.
Jamie nói tiếp, “Em đang xem lại toàn bộ những gì em ghi được trước khi thầy Boethe… trước khi xảy ra chuyện, anh biết đấy!
“Thế em tìm thấy gì?”, Gillette khích lệ. Frank Bishop đứng ngay cạnh cậu bé và gật đầu mỉm cười. “Cứ nói đi.”
“Vâng, chuyện là chiếc máy tính mà em dùng ở thư viện – cái mà các anh đã mang đi ấy, nó hoạt động rất ổn định cho đến cách đây khoảng hai hay ba tuần thì bắt đầu xuất hiện thứ gì đó thực sự không ổn. Em nhận được những fatal conflict error – lỗi xung đột nghiêm trọng. Và chiếc máy thì kiểu như, bị đơ.”
“Lỗi xung đột?”, Gillette ngạc nhiên hỏi. Hắn nhìn sang Nolan, cô lắc đầu. Cô vuốt mớ tóc khỏi mắt rồi lơ đãng xoắn chúng quanh những ngón tay.
Bishop hết nhìn người này, lại quay sang người nọ. “Thế nghĩa là sao?”
Nolan giải thích, “Thường thì anh gặp lỗi như thế khi máy cố gắng thực hiện cùng lúc nhiều nhiệm vụ và không thể xử lý nổi việc đó. Giống như là chạy bảng tính và đọc email cùng lúc”.
Gillette gật đầu xác nhận. “Nhưng một trong những lý do mà các công ty như Microsoft và Apple phát triển hệ điều hành của họ là để cho phép người dùng chạy nhiều chương trình cùng lúc. Thế nên bây giờ hiếm khi thấy lỗi xung đột xảy ra.”
“Em biết”, cậu bé nói. “Thế nên em mới thấy bất thường. Rồi em thử chạy lại cùng những chương trình đó trên các máy khác ở trường. Và em không thấy, anh biết đấy, lặp lại lỗi đó.”
Tony Mott nói, “Ái chà chà… Trapdoor cũng có lỗ hổng đây”.
Gillette gật đầu với cậu bé. “Giỏi lắm, Jamie. Anh nghĩ đó chính là mảnh ghép mà bọn anh đang tìm kiếm.”
“Tại sao?”, Bishop hỏi. “Tôi không hiểu”.
“Chúng ta cần số seri và số điện thoại mạng Mobile America của Phate – để lần ra hắn.”
“Nếu may mắn, việc này sẽ giúp chúng ta có được chúng.” Gillette nói với cậu bé, “Em có nhớ thời gian và ngày tháng những lỗi xung đột này làm máy bị đơ không?”.
Cậu bé lật giở quyển sổ tay rồi chỉ cho Gillette xem một trang. Những lần xảy ra lỗi được ghi lại cẩn thận. “”Giỏi lắm.” Gillette gật đầu và nói với Tony Mott, “Gọi cho Garvy Hobbes. Bật loa ngoài lên”.
Mott làm ngay và chỉ lát sau đã kết nối với Trưởng ban An ninh mạng Mobile America.
“Xin chào”, Garvy Hobbes nói. “Các anh có manh mối của gã xấu xa đó rồi à?”
Gillette nhìn Bishop, ông khoát tay ra dấu chiều theo ý muốn của tay hacker và nói, “Đây là nghiệp vụ cảnh sát kiểu mới. Xin mời anh”.
Tay hacker nói, “Thế này nhé, Garvy. Nếu tôi cung cấp cho anh bốn mốc thời gian và ngày tháng cụ thể mà một thuê bao di động tắt máy trong khoảng sáu mươi giây rồi lại mở máy, gọi cùng một số, các anh có xác định được chiếc máy đó không?”
“Hừmm. Đúng là kiểu mới đấy, để tôi thử xem sao. Cho tôi thời gian và ngày tháng nào.”
Gillette cung cấp ngay, Hobbes nói, “Cứ giữ máy nhé, tôi sẽ quay lại ngay”.
Tay hacker giải thích với cả đội: “Khi máy tính của Jamie bị đơ, cậu bé phải khởi động lại máy để Online trở lại. Việc đó mất khoảng một phút. Nghĩa là cuộc gọi di động của Phate cũng bị gián đoạn trong cùng khoảng thời gian đó, khi tên giết người này cũng phải khởi động lại máy của hắn và kết nối lại. Bằng cách kiểm tra chéo những thời điểm máy của Jamie bị đơ, rồi Online trở lại với thời điểm một thuê bao di động của Mobile America ngắt kết nối và khi kết nối trở lại, họ sẽ biết thuê bao đó là của Phate.
Năm phút sau, tay chuyên gia an ninh quay trở lại. “Chuyện này vui đây”, Hobbes hớn hở nói. “Tôi tóm được nó rồi.” Rồi anh ta chuyển giọng nghiêm túc, “Nhưng kỳ lạ là các số của điện thoại của hắn chưa được đăng ký”.
Gillette giải thích, “Điều Garvy nói nghĩa là Phate đã hack vào một bộ chuyển mạch an ninh, không phải đường dây công cộng và đánh cắp các số đó”.
“Chưa ai từng đột nhập được vào bảng mạch chính của chúng tôi. Gã này khác thường đây, tôi phải nói vậy.”
“Chúng tôi thì biết đấy”, Frank Bishop lẩm bẩm.
“Hắn vẫn đang sử dụng chiếc điện thoại đấy chứ?”, Shelton hỏi.
“Đã thôi từ hôm qua. Đặc điểm điển hình của những kẻ câu trộm cuộc gọi là nếu chúng không sử dụng số đánh cắp đó trong hai mươi tư giờ nghĩa là chúng đã đổi số.”
“Vậy là chúng ta không thể lần ra hắn nữa?”, Bishop ngán ngẩm hỏi.
“Đúng vậy”, Hobbes xác nhận.
Nhưng Gillette nhún vai và nói, “Ồ, tôi đã đoán hắn sẽ đổi số từ khi khám phá ra chúng ta đang theo hắn. Nhưng chúng ta vẫn có thể thu hẹp nơi hắn gọi đi trong vòng mấy tuần gần đây. Đúng không, Garvy?”.
“Cá là vậy”, Hobbes đáp. “Chúng tôi có hồ sơ ghi lại tất cả các cuộc gọi xuất phát từ khối nào. Hầu hết các cuộc gọi từ chiếc điện thoại đó đến từ khối 879. Đó là Los Altos. Tôi còn thu hẹp hơn nhờ vào dữ liệu MITSO.”
“Dữ liệu gì?”
Gillette nói, “Văn phòng chuyển mạch điện thoại. Họ có khả năng khoanh vùng, tức là họ có thể định vị hắn ở phần nào của khối. Khoanh vùng trong khoảng một ki-lô-mét vuông”.
Hobbes bật cười và hỏi một cách dè dặt, “Gillette này, làm sao mà anh lại biết nhiều về hệ thống của chúng tôi như chính chúng tôi vậy?”
“Tôi đọc nhiều”, Gillette hài hước nói. Rồi hắn hỏi, “Cho tôi tọa độ của vị trí đó. Anh có thể cho thông tin theo tên phố không?”. Hắn bước về phía tấm bản đồ.
“Chắc chắn rồi.” Hobbes đọc một mạch bốn ngã tư, còn Gillette thì kết nối các địa điểm. Đó là một tứ giác bao bọc phần lớn khu vực Los Altos. “Hắn ở đâu đó trong đây”. Tay hacker vỗ lên tấm bản đồ.
Trong phạm vi này có sáu khu nhà mới mà phía Sở quy hoạch Santa Clara đã cung cấp địa chỉ cho họ.
Như thế là khá hơn con số hai mươi hai rồi nhưng vẫn còn khá nản.
“Sáu cơ à?”, Linda Sanchez cất giọng uể oải. “Phải có đến ba nghìn người sống ở đó. Chúng ta có thể thu hẹp thêm nữa không?”
“Chứng ta có thể thử xem”, Bishop nói. “Vì chúng ta đã biết nơi hắn đi mua sắm”. Trên bản đồ, Bishop đập tay lên khu nhà năm ở giữa hiệu trang phục Ollie và cửa hàng Băng đĩa Mountain View. Tên của nó là Stonecrest.
Không khí khẩn trương tràn ngập căn phòng. Bishop đề nghị Garvy gặp họ gần khu nhà ở Los Altos, rồi ông gọi cho đội trưởng Bernstein và kể tóm tắt mọi việc. Họ quyết định sử dụng những nhân viên mặc thường phục để gõ cửa thẩm tra từng căn hộ trong khu nhà, mang theo ảnh của Phate. Bishop nghĩ ra ý tưởng mua những xô nhựa nhỏ rồi phát cho những người lính, đóng giả làm những người quyên tiền cho trẻ em, phòng trường hợp Holloway nhìn thấy họ trên phố. Sau đó ông phát lệnh cho những người lính đặc nhiệm. Toàn đội CCU sẵn sàng lên đường. Bishop và Shelton kiểm tra súng. Gillette, laptop. Tony Mott, tất nhiên là, cả hai.
Patricia Nolan ở lại, phòng trường hợp đội cần truy cập máy ở CCU.
Khi họ chuẩn bị rời đi, điện thoại đổ chuông, Bishop nhấc máy. Ông im lặng rồi nhìn sang Gillette và nhướng mày, đưa ống nghe cho hắn.
Vẻ băn khoăn, tay hacker áp ống nghe vào tai. “A lô?”
Đầu dây bên kia im lặng. Rồi Elena Papandolos cất tiếng, “Là em đây”.
“Ồ, chào em.”
Gillette nhìn Bishop thúc giục mọi người đi ra cửa. “Anh không nghĩ là em sẽ gọi.”
“Em cũng không định”, cô nói.
“Thế tại sao em lại gọi?”
“Vì em nghĩ em nợ anh điều đó.”
“Em nợ anh điều gì?”
“Nói cho anh biết là em sẽ vẫn đi New York vào ngày mai.”
“Với Ed?”
“Vâng”
Những lời nói đó còn làm hắn đau đớn hơn cả những cú đánh mới đây của Phate. Hắn đã hy vọng cô sẽ hoãn chuyến đi.
“Đừng.”
Rồi một sự im lặng nặng nề. “Wyatt”
“Anh yêu em. Anh không muốn em đi.”
“Ừm, chúng em sẽ đi”
Gillette nói, “Hãy làm cho anh một việc thôi. Cho anh gặp em trước khi em đi”.
“Tại sao? Việc đó có ích gì?”
“Xin em. Chỉ mười phút thôi.”
“Anh không thể làm em đổi ý đâu”
Hắn nghĩ, ôi, phải rồi, anh có thể.
Cô nói, “Em phải đi rồi. Tạm biệt, Wyatt. Em mong anh may mắn với bất kỳ việc gì anh làm trong đời”.
“Đừng!”
Ellie im lặng rồi gác máy.
Gillette nhìn chằm chằm chiếc điện thoại câm lặng.
“Wyatt”, Bishop gọi.
Hắn nhắm mắt lại.
“Wyatt”, viên thám tử nhắc lại. “Chúng ta phải đi thôi.”
Tay hacker ngước lên rồi thả ống nghe vào giá điện thoại. Câm lặng, hắn bước theo viên cảnh sát xuống hành lang.
Tay thám tử nói nhỏ gì đó với hắn.
Gillette lơ đãng nhìn ông. Rồi hắn hỏi lại Bishop vừa nói gì.
“Tôi nói việc này giống như những gì cậu và Patricia đã nói trước đây. Chuyện này giống trong game MUD.”
“Cái gì giống cơ?”
“Tôi nghĩ chúng ta vừa đạt mức cao thủ.”
o O o
Đường E1 Monte nối khu E1 Camino Real với trục đường xương sống của Thung lũng Silicon, cao tốc 280, cách đó vài dặm.
Nếu bạn đi xuôi từ hướng nam về phía con đường này, quang cảnh từ E1 Monte thay đổi từ những cửa hiệu bán lẻ đến những ngôi nhà kiểu nông trang truyền thống California từ thập niên năm mươi và sáu mươi, cuối cùng là những khu nhà kiểu mới, thành quả từ nguồn tiền dồi dào từ mạng Internet của những cư dân khu vực.
Tòa nhà Stonecrest cách những khu nhà này không xa, nơi mười sáu chiếc xe cảnh sát và hai xe tải của đội cảnh sát đặc nhiệm bang California đang đậu sẵn. Chúng đang nằm trong khu đỗ xe của nhà thờ First Baptist ở Los Altos, khuất khỏi tầm mắt từ đường E1 Monte, sau một hàng rào cao, đây là lý do khiến Bishop chọn bãi đỗ bên cạnh ngôi nhà của Chúa này làm nơi tập kết.
Wyatt Gillette ngồi canh ghế lái, sát bên Bishop trên chiếc xe Crown Victoria. Shelton ngồi im lặng ở ghế sau, đăm đăm nhìn những cây cọ phấp phới trong cơn gió lạnh ẩm ướt. Trong chiếc xe đỗ cạnh họ là Linda Sanchez và Tony Mott. Bishop dường như đã từ bỏ ý muốn kềm chế chàng người hùng Eliot Ness (Tên một thanh tra huyền thoại trong phim Những kẻ bất khả xâm phạm), nên Mott ngay lập tức chạy vội từ xe đến nhập hội với một toán lính đặc nhiệm đang mặc thường phục ngoài lớp áo chống đạn. Chỉ huy Đội đặc nhiệm – Alonso Johnson, cũng có mặt. Anh đứng một mình, đầu cúi xuống, vừa lắng nghe chiếc bộ đàm vừa gật gù.
Đi theo xe của Bishop đến đây, đặc vụ Bộ Quốc phòng Arthur Backle đang đứng bên chiếc xe, tay cầm ô, dựa vào thành xe, tay kia kéo dải băng trên đầu.
Không xa đó, nhiều lính đặc nhiệm đang lùng sục khắp khu Stonecrest. Họ cải trang thành những nhà gây quỹ, đưa ra những chiếc xô màu vàng rồi giơ nhanh những tấm ảnh của Jon Holloway.
Thời gian dần trôi nhưng vẫn chưa có thông báo nào khả quan. Những nghi ngờ bắt đầu dấy lên: Có thể phân tích của Mobile America bị sai. Có thể số đó đúng là của hắn nhưng sau cuộc chạm trán với Gillette hắn đã cao chạy xa bay đến một bang khác.
Rồi chiếc di động của Bishop đổ chuông, ông nghe máy. Ông gật đầu và mỉm cười, rồi nói với Shelton và Gillette, “Đã có tín hiệu tích cực. Một người hàng xóm nhận ra hắn ta. Hắn ở số 34004 phố Alta Vista”.
“Có thế chứ!”, Shelton nói, tay giơ nắm đấm vui mừng. Ông ra khỏi xe. “Tôi đi báo cho Alonso.” Viên cảnh sát tầm thước biến mất trong đám đông.
Bishop gọi cho Garvy Hobbes để thông báo địa chỉ. Trong chiếc Jeep của mình, anh ta đã có sẵn một máy Cellscope – một thiết bị kết hợp giữa máy tính và máy rà hướng sóng vô tuyến. Anh ta sẽ lái nó qua ngôi nhà của Phate, quét tần sóng của Mobile America để kiểm tra xem có tín hiệu truyền phát hay không.
Một lát sau, anh ta gọi lại cho Bishop và báo cáo, “Hắn đang sử dụng di động trong nhà. Là truyền dữ liệu, không phải cuộc gọi”.
“Hắn đang Online”, Gillette nói.
Bishop và Gillette bước ra khỏi xe, đi tìm Shelton và Alonso Johnson để thông báo tin mới.
Johnson liền cử một xe theo dõi, ngụy trang thành một chiếc xe đưa thư đến con phố trước ngôi nhà của Phate. Nhân viên cảnh sát báo cáo các rèm cửa đều hạ, cửa gara mở. Một chiếc Ford cũ kĩ đậu trên lối đi. Không thấy ánh đèn nào hắt ra. Đội theo dõi thứ hai, đang giấu mình trên một cây lan dạ hương cổ thụ cũng báo cáo tương tự.
Cả hai đội cáo báo thêm rằng mọi lối ra vào và các cửa sổ đều được bao vây, kể cả nếu Phate có tình cờ nhìn thấy cảnh sát hắn cũng không tài nào trốn thoát.
Sau đó, Johnson mở một tấm bản đồ chi tiết của khu Stonecrest được ép nhựa. Anh khoanh tròn nhà của Phate bằng bút chì sáp rồi kiểm tra một catalogue căn nhà mẫu của khu dân cư này. Anh nhìn lên và nói, “Căn nhà hắn ở là kiểu Troubadour”. Anh đập tay lên mẫu nhà này và chỉ cho đội phó của mình, một người lính trẻ cắt đầu đinh có vẻ nghiêm nghị theo tác phong kiểu nhà binh.
Wyatt Gillette liếc nhìn cuốn catalouge và thấy một câu khẩu hiệu quảng cáo in bên dưới. “Troubadour – căn nhà mơ ước cho bạn và gia đình tận hưởng tương lai..”
Người trợ lý của Johnson tổng kết, “Ok, sếp, chúng ta có cửa trước và cửa sau ở tầng trệt. Thêm một cửa mở ra lan can phía sau. Không có thang nhưng nó chỉ cao mười feet. Hắn có thể nhảy qua đó. Không có lối ra hai bên. Gara có hai cửa, một cửa dẫn vào trong nhà, thông vào bếp, cái còn lại thông ra sân sau. Theo tôi chúng ta sẽ đi theo đội hình tiếp cận từ ba hướng”.
Linda Sanchez lên tiếng, “Hãy cách ly hắn khỏi máy tính ngay lập tức. Đừng để hắn nhấn bất kỳ phím nào. Hắn có thể phá hủy nội dung trong ổ máy chỉ trong tích tắc. Chúng tôi cần phải kiểm tra nó và xem xét xem hắn có nhắm vào nạn nhân nào khác không”.
“Rõ”, người trợ lý nói.
Johnson nói, “Đội Able vào bằng cửa trước, Baker phía sau, Charlie tiến qua gara. Giữ lại hai cảnh sát từ đội Charlie để chốt gần ban công phòng trường hợp hắn nhảy cầu”. Anh ngẩng đầu lên rồi nhét chiếc tai nghe màu vàng vào tai trái. “Được rồi. Đi bắt con quái thú nào”
Gillette, Shelton, Bishop và Sanchez quay lại một trong những chiếc Crown Victoria. Họ lái vào khu nhà, đậu xe ở chỗ khuất tầm nhìn từ ngôi nhà của Phate, bên cạnh những chiếc xe tải của đội đặc nhiệm. Cái bóng của họ, đặc vụ Backle theo sau. Tất cả cùng dõi theo những người lính đang khẩn trương dàn trận, cúi thấp người và di chuyển phía sau những bụi cây.
Bishop quay sang Gillette và nghiêm cẩn cúi mình về phía trước để bắt tay hắn, khiến tay hacker vô cùng ngạc nhiên. “Dù kết quả thế nào, Wyatt, chúng tôi sẽ không thể tiến xa được thế này nếu không có cậu. Không mấy ai dám chấp nhận những nguy hiểm này và làm việc hết sức như cậu”
“Đúng đó”, Linda Sanchez nói. “Cậu ấy là của hiếm đấy, sếp ạ!”. Cô hướng cặp mắt to màu sẫm sang Gillette, “Này, nếu cậu muốn có một công việc khi được tại ngoại, có lẽ cậu nên xin vào CCU”. Gillette cố nghĩ ra câu nào đó để tỏ lòng biết ơn. Nhưng hắn quá bối rối và chẳng thể nghĩ được điều gì nên chỉ biết gật đầu. Lần này Bob Shelton có vẻ xao động trước không khí xúc động xung quanh, nhưng cuối cùng ông ta ra khỏi xe và biến mất vào đám cảnh sát mặc thường phục mà ông có vẻ quen biết. Alonso Johnson bước lại phía họ. Bishop hạ kính xe xuống.
“Đội theo dõi vẫn không thể nhìn được bên trong và mục tiêu bật điều hòa mức tối đa nên máy quét hồng ngoại không phát hiện được gì. Hắn vẫn đang dùng máy tính chứ?”
Bishop gọi Garvy Hobbes và hỏi cùng câu hỏi. “Có”, anh chàng cao bồi đáp, “Máy Cellscope vẫn đang thu được tín hiệu của hắn.”
“Tốt lắm”, Johnson nói. “Chúng tôi muốn hắn thật sự không chú ý khi chúng tôi phát lệnh.” Rồi anh nói vào microphone. “Dọn sạch con phố?”
Cảnh sát yêu cầu những xe đang đi dọc Alta Vista quay lại.
Họ vẫy cờ ra hiệu cho một trong những hàng xóm của Phate, một người phụ nữ tóc bạc đang lái xe ra khỏi gara, và hướng dẫn chiếc Ford Explorer của bà ta đi xuống đường, tránh khỏi ngôi nhà của hắn. Ba cậu bé vui vẻ nhào lộn ầm ĩ dưới cơn mưa trên những tấm ván. Hai cảnh sát trong trang phục quần soóc và áo sơ mi Izod giả vờ vô tình bước đến chỗ bọn trẻ và lùa chúng ra khỏi tầm mắt.
Con đường của khu ngoại ô thanh bình không một bóng người.
“Trông ổn rồi đấy”, Johnson nói, rồi cúi người chạy về phía ngôi nhà.
“Tất cả đều kết thúc bằng việc này..”, Bishop lẩm bẩm.
Linda Sanchez nghe được liền nói, “có thật vậy không sếp”. Rồi cô giơ ngón cái lên với Tony Mott, anh ta đang quỳ gối, bò theo những lính đặc nhiệm, phía sau một bờ giậu bao quanh tư gia của Phate. Cô dịu dàng nói, “Tốt nhất là cậu chàng không tự làm đau mình”.
Bob Shelton quay trở lại và nặng nề thả mình xuống ghế xe trên chiếc Crown Victoria.
Gillette không nghe thấy bất kỳ hiệu lệnh nào, nhưng những người lính SWAT bỗng đồng loạt xuất hiện từ chỗ nấp và chạy thật nhanh về phía ngôi nhà.
Thình lình ba tiếng nổ to vang lên. Gillette giật mình. Bishop giải thích, “Những phát súng đặc biệt. Họ đang bắn tung khóa cửa đấy”.
Lòng bàn tay đẫm mồ hôi, Gillette thấy mình đang gắng giữ hơi thở, chờ đợi tiếng súng bắn, tiếng nổ, tiếng gào thét, tiếng còi hú…
Bishop vẫn bất động, dõi theo ngôi nhà. Nếu có căng thẳng ông cũng không thể hiện ra.
“Nào, nào”, Linda Sanchez lẩm bẩm. “Đang xảy ra chuyện gì vậy?”
Sự im lặng kéo dài, thật dài, không một âm thanh nào ngoại trừ tiếng mưa rơi trên nóc xe.
Khi radio phát tiếng trở lại, âm thanh của nó quá đột ngột khiến tất cả đều giật mình.
“Đội trưởng đội Alpha gọi Bishop. Ông có đó không?”
Bishop vồ lấy microphone. “Nói đi, Alonso.”
“Frank, hắn không có ở đây.” Giọng nói từ radio vang lên,
“Cái gì?”, viên thám tử hỏi, hoàn toàn thất vọng.
“Chúng tôi đang lục soát toàn bộ chỗ này nhưng hiện giờ thì có vẻ như hắn đã chuồn mất. Giống hệt lúc ở khách sạn.”
“Mẹ kiếp”, Shelton chửi thề.
Johnson nói tiếp. “Tôi đang ở trong phòng ăn – cũng là văn phòng của hắn. Có một lon Moutain Dew vẫn còn lạnh. Và máy dò thân nhiệt cho thấy hắn vừa ngồi ở ghế trước máy tính khoảng năm đến mười phút trước.”
Bishop nói đầy tuyệt vọng, “Hắn ta ở đó, AL. Hắn phải ở đó. Hắn ẩn nấp ở đâu đó thôi. Hãy kiểm tra nhà vệ sinh. Kiểm tra dưới gầm giường”.
“Frank, tia hồng ngoại không bắt được gì ngoại trừ bóng ma của hắn chỗ chiếc ghế.”
“Nhưng không thể có chuyện hắn đã ra ngoài được”, Sanchez nói.
“Chúng tôi sẽ tiếp tục kiểm tra.”
Bishop thả mình vào cửa xe, nỗi thất vọng xâm chiếm khuôn mặt co rúm như diều hâu của ông.
Mười phút sau, người chỉ huy tác chiến trở lại trên sóng radio.
“Cả ngôi nhà an toàn, Frank”, Jonhson nói. “Hắn không có ở đây. Nếu ông muốn khám nghiệm hiện trường, ông có thể vào.”