Ở góc trên cùng bên trái màn hình máy tính của Phate xuất hiện một hộp thoại nhỏ:
Trapdoor – Hunt Mode
Online: Có Hệ điều hành: MS – DOS/ Windows
Phần mềm chống virut: Đã vô hiệu hóa
Những gì Phate nhìn trên màn hình chính là những gì Jamie Turner thấy trên máy tính của mình, ở cách đó vài dặm, trong Học viện Thánh Francis.
Điểm đặc biệt trong trò chơi của hắn đã kích thích Phate ngay từ lần đầu tiên gã xâm nhập vào hệ thống của cậu bé cách đây một tháng.
Phate đã mất rất nhiều thời gian xem xét các file của Jamie và tìm hiểu được đầy đủ thông tin về thằng bé như những gì hắn đã biết về Lara Gibson mới đây.
Ví dụ:
Jamie Turner ghét thể thao và lịch sử nhưng lại yêu thích toán học và khoa học. Thằng nhóc đọc sách một cách say mê. Đứa trẻ này là một kẻ ghiền game MUD. Nó dành hàng tiếng đồng hồ trong các phòng chat MUD trên Internet, rất giỏi các game nhập vai cũng như việc sáng tạo và duy trì những mạng xã hội ảo đã quá phổ biến trong MUD. Jamie còn là một tay viết code cừ khôi, một lập trình viên tự học. Nó đã thiết kế trang web của riêng mình và giành được giải khuyến khích từ Web Site Revue Online. Nó đã nảy ra ý tưởng cho một trò chơi điện tử mới kích thích trí tò mò của chính Phate và rõ ràng là thằng bé có tiềm năng thương mại rất lớn.
Nỗi sợ hãi lớn nhất của cậu nhóc gợi cho hắn nhớ đến nỗi sợ hoang tưởng của Lara Gibson, là mất đi thị lực, nó đã đặt hẳn một cặp kính không vỡ đặc biệt từ một cửa hàng online.
Thành viên duy nhất trong gia đình mà nó dành nhiều thời gian liên lạc và trò chuyện qua email là anh trai, Mark. Cha mẹ của chúng khá giàu có nhưng lại bận rộn nên thường chỉ trả lời sau khi con trai họ đã gửi năm hay sáu cái email.
Jamie Turner, theo như Phate nhận định, là rất thông minh, có trí tưởng tượng phong phú và dễ bị tổn thương.
Và thằng bé cũng là kiểu hacker sẽ vượt mặt hắn vào một ngày nào đó.
Giống nhiều bậc thầy máy tính vĩ đại khác, Phate có một khía cạnh bí ẩn bên trong. Như những nhà duy vật toàn tâm toàn ý chấp nhận Chúa hay một nhà chính trị bảo thủ tận tâm với Hội Tam điểm thần bí. Phate tin rằng, hắn có một phần tâm linh khó diễn tả đối với máy móc và chỉ có những kẻ có tầm nhìn hạn chế mới không thừa nhận điều đó.
Thế nên chẳng có gì mâu thuẫn với con người Phate khi hắn mê tín. Và một trong những điều hắn bắt đầu tin khi dùng Trapdoor (Phần mềm của Phate tạo ra) để khám phá máy tính của Jamie Turner trong suốt mấy tuần vừa qua, là việc cậu nhóc có kỹ năng để hoàn toàn thay thế Phate, trở thành lập trình viên vĩ đại nhất mọi thời đại.
Đó là lý do tại sao hắn phải ngăn không cho Jamie T. Turner nhỏ bé tiếp tục chuyến phiêu lưu của nó trong Thế giới máy tính. Và Phate lên kế hoạch để ngăn chặn thằng nhóc bằng một cách đặc biệt hiệu quả.
Giờ hắn đang tiếp tục rê chuột qua nhiều file. Những file được Shawn gửi qua email, cho hắn thông tin chi tiết về ngôi trường nam sinh – Học viện Thánh Francis.
Đây là một ngôi trường nội trú có tiếng tăm, nhưng quan trọng hơn, nó là một thử thách thực sự về mặt chiến lược đối với Phate. Nếu như không có khó khăn và rủi ro với hắn trong việc tiêu diệt các nhân vật trong trò chơi này, thì việc chơi cũng chẳng còn nghĩa lý gì. Và trường Thánh Francis thì lại bày ra những chướng ngại vật khó nhằn. Hệ thống an ninh dày đặc vì ngôi trường đã từng là hiện trường của một vụ đột nhập vài năm trước khiến một học viên bị giết hại và một giáo viên bị trọng thương. Hiệu trưởng của trường, Willem Boethe, đã thề sẽ không bao giờ để điều đó xảy ra một lần nữa. Để bảo đảm với các phụ huynh, ông ta đã cho nâng cấp lại toàn bộ ngôi trường và biến nó thành một pháo đài. Các sảnh và hành lang đều được khóa chặt vào ban đêm, khu sân trường được khóa hai lần cổng, các cửa sổ và cánh cửa được gắn hệ thống báo động. Và cần phải có mật khẩu để ra vào bức tường cao vút với hàng rào kẽm gai sắc lẹm bao quanh khuôn viên trường.
Tóm lại, xâm nhập được vào trong ngôi trường đúng là một thử thách dành cho Phate. Đây là một bước tiến từ vụ Lara Gibson được chuyển lên một cấp độ cao hơn, khó hơn trong trò chơi của hắn. Hắn có thể…
Phate nheo mắt nhìn màn hình. Ồ, không, không phải lại nữa đấy chứ. Máy tính của Jamie – tức là máy của hắn cũng vậy – lại bị đơ. Nó vừa bị thế mười phút trước. Đây là lỗi duy nhất trong Trapdoor. Đôi lúc máy tính của hắn và chiếc máy bị xâm nhập bỗng nhiên ngừng hoạt động. Nên cả hai sẽ phải khởi động lại máy của mình và kết nối Internet một lần nữa.
Nó dẫn đến sự chậm trễ không quá một phút, nhưng đối với Phate đó là một kẽ hở kinh khủng. Phần mềm phải hoàn hảo, nó cần phải thật tinh tế. Hắn và Shawn đã cố gắng sửa lỗi này hàng tháng trời nhưng vẫn chưa gặp chút vận may nào.
Một lát sau, hắn và người bạn trẻ đã online trở lại và Phate tiếp tục lướt qua các file trong máy thằng bé.
Một cửa sổ nhỏ hiện lên trên màn hình máy tính của Phate và chương trình Trapdoor hỏi:
Mục tiêu vừa nhận được một tin nhắn từ MarkTheMan. Bạn có muốn kiểm tra không?
Đó hẳn phải là anh trai của Jamie Turner, Mark. Phate nhấn phím Y và trên màn hình hiện lên nội dung đoạn hội thoại giữa hai anh em:
MarkTheMan: nhắn tin được không nhóc?
JamieTT: phải ra ngoài chơi trò khỉ gió đây, ý em là bóng đá.
MarkTheMan: LOL. Kế hoạch tối nay vẫn thế chứ?
JamieTT: LOL. Santana bá cháy!!!
MarkTheMan: Không thể chờ thêm nữa!! Anh sẽ gặp chú bên kia phố chỗ cổng phía bắc lúc 6h30 nhé. Sẵn sàng cháy hết mình chưa?
Phate nghĩ, chắc chắn phải thế rồi.
o O o
Wyatt Gillette dừng lại ở ngưỡng cửa và cảm thấy như vừa được du hành ngược thời gian.
Hắn nhìn quanh Đơn vị điều tra tội phạm máy tính nằm trong toà nhà một tầng cũ kỹ cách trụ Sở cảnh sát bang San Jose vài dặm. “Đây là phòng máy chủ.”
“Của riêng chúng tôi”, Andy Anderson nói. Rồi ông giải thích cho Bishop và Shelton, có vẻ cả hai chẳng ai muốn biết thông tin này, rằng trong buổi sơ khai của thời đại máy tính, những máy tính khổng lồ giống những chiếc máy chủ do IBM và công ty Control Data Corporation sản xuất (Một trong những công ty siêu máy tính đầu tiên) được đặt trong những căn phòng đặc biệt như thế này, được gọi tên là Dinosaur pens. (Phòng máy tính lớn).
Đặc trưng của các căn phòng này là sàn nhà được nâng cao, bên dưới là một mạng lưới dây cáp quy mô được gọi là “boa”, tên một loại trăn Nam Mỹ, vì hình dáng tương đồng (và đôi khi chúng cũng bất thần xổ tung ra làm các kỹ thuật viên bị thương). Ngoài ra, có hàng tá ống dẫn máy điều hòa trải ngang dọc khắp căn phòng cùng hệ thống làm mát thiết yếu để giữ cho những chiếc máy tính đồ sộ không bị quá nóng và bốc cháy.
Đơn vị điều tra tội phạm máy tính đặt tại Tây San Carlos, trong một quận thương mại có giá thuê rẻ của San Jose, gần thị trấn Santa Clara. Để đến đó, ta phải lái xe qua rất nhiều cửa hiệu bán ô tô – EZ TERMS FOR YOU! SE HABLA ESPANÕL (Có nghĩa là Thủ tục đơn giản, gọn nhẹ. Chúng tôi nói tiếng Tây Ban Nha.) và hàng loạt đường tàu. Tòa nhà một tầng lôm côm đã đến lúc phải sơn sửa lại, rõ ràng là tương phản với, chẳng hạn như, trụ sở công ty Apple cách đó một dặm – một tòa nhà tính tươm, theo lối kiến trúc hiện đại, được trang hoàng bằng bức chân dung cao mười hai mét của nhà đồng sáng lập Steve Wozniak. Tác phẩm nghệ thuật duy nhất của tòa nhà CCU là một chiếc máy bán Pepsi hỏng hóc và gỉ sét nằm chồm hổm cạnh cửa trước.
Bên trong tòa nhà to lớn là hàng tá những hành lang tối tăm và các văn phòng trống không. Cảnh sát chỉ sử dụng một phần nhỏ không gian – khu vực làm việc trung tâm, cả tá cabin làm việc cho nhân viên được dựng lên ở đó. Có tám máy tính của Sun Microsystems, vài cái của IBM và Apple, và hàng đống máy tính xách tay. Dây cáp chạy khắp nơi, một vài sợi được gắn xuống nền nhà bằng băng dính, có những sợi lại treo lơ lửng trên đầu như dây leo trong rừng.
“Anh có thể thuê những công cụ xử lý dữ liệu cũ rích này với giá rẻ mạt”, Anderson giải thích với Gillette. Ông bật cười, “CCU cuối cùng cũng được thừa nhận như một bộ phận chính thống của lực lượng cảnh sát bang và họ cho chúng tôi những tòa nhà cũ kỹ đã quá hạn đến hai chục năm này”.
“Nhìn kìa, một cái nút scram switch”, Gillette hất đầu về phía một công tắc màu đỏ trên tường. Một tấm biển bụi bặm ghi: CHỈ DÙNG KHI KHẨN CẤP. “Tôi chưa từng thấy thứ này.”
“Cái gì vậy?”, Bob Shelton hỏi.
Anderson giải thích: Những cỗ máy chủ đã cũ nóng đến mức nếu như hệ thống làm mát bị hỏng thì chúng có thể bị nóng quá mức và bốc cháy chỉ trong vài giây. Với mủ, nhựa và cao su thì luồng khí tỏa ra từ chiếc máy tính bị cháy có thể giết ta trước khi ngọn lửa làm điều đó. Bởi vậy, tất cả các phòng máy chủ đều được trang bị công tắc khẩn cấp gọi là scram switch – cái tên được mượn từ nút tắt khẩn cấp ở lò phản ứng hạt nhân. Nếu như có cháy, ta chỉ cần nhấn nút đó, nó sẽ tắt máy tính, phát lệnh cứu hỏa và thổi khí halon vào chiếc máy để dập tắt ngọn lửa.
Andy Anderson giới thiệu Gillette, Bishop và Shelton với đội CCU. Đầu tiên là Linda Sanchez – một phụ nữ Latinh trung niên, thấp và đậm người trong bộ vest phồng màu be. Cô là sỹ quan thuộc đội SSL (SSL là viết tắt của Seizure – Thu thập, Search – Tìm kiếm, và Logging – Đăng nhập )– chuyên thu thập, tìm kiếm và đăng nhập, cô giải thích. Vậy cô chính là người bảo vệ máy tính của hung thủ, kiểm tra xem liệu nó có các bẫy phần mềm không, rồi sao chép các file, nhập các phần cứng và phần mềm vào dữ liệu bằng chứng. Đồng thời cô cũng là một chuyên gia phục hồi bằng chứng số, một người lão luyện trong việc “khai quật” các ổ cứng – truy tìm các dữ liệu ẩn hoặc đã bị xóa (Vì thế, những sỹ quan như vậy thường được biết đến như những nhà khảo cổ máy tính học). “Tôi là mật thám của đội”, cô nói với Gillette.
“Có tin gì chưa, Linda?”
“Tạm thời chưa, thưa sếp. Cô con gái đó của tôi ấy à, nó là đứa lười nhất quả đất.”
Anderson nói với Gillette, “Linda sắp thành bà ngoại”.
“Đã quá ngày dự sinh một tuần rồi. Khiến gia đình tôi phát điên.”
“Còn đây là cấp phó của tôi, Trung úy Stephen Miller.”
Miller già hơn Anderson, xấp xỉ năm mươi. Ông có mái tóc muối tiêu bù xù. Đôi vai xuôi, hay cau có, dáng người quả lê, thon nhỏ ở trên và phình ra ở dưới. Ông ta có vẻ là người thận trọng. Căn cứ vào độ tuổi, Gillette đoán rằng ông ta đến từ thế hệ thứ hai của các nhà lập trình – những người đàn ông và phụ nữ đi tiên phong trong giới tin học đầu thập niên bảy mươi.
Người thứ ba là Tony Mott, một người đàn ông vui vẻ chừng ba mươi tuổi với mái tóc dài thẳng màu vàng và chiếc kính mát Oakley treo lủng lẳng trên sợi dây dạ quang màu xanh quàng trên cổ. Khoang làm việc của anh ta đầy những bức ảnh chụp anh ta cùng một cô gái châu Á xinh đẹp, đang trượt tuyết và đạp xe trên núi. Một chiếc mũ bảo hiểm vỡ nát đặt trên bàn, đôi giày trượt tuyết đặt trong góc. Anh ta đại diện cho thế hệ mới nhất của những tay hacker: Một vận động viên ưa mạo hiểm, thời gian dành cho việc ngồi ở nhà, trên bàn phím để hack phần mềm máy tính ngang ngửa với thời gian dành cho các cuộc thi trượt ván lòng chảo ở mục thể thao mạo hiểm. Gillette để ý thấy rằng trong số những cảnh sát của CCU, khẩu súng ngắn tay cảnh sát này mang bên hông là lớn nhất – một khẩu súng tự động màu bạc sáng bóng.
Đơn vị điều tra tội phạm máy tính CCU cũng có nhân viên lễ tân nhưng cô ta đang nghỉ ốm. CCU không được coi trọng lắm trong hệ thống cảnh sát bang (nó bị các đồng nghiệp gọi là “Geek Squad” (Hội Mọt máy tính lập dị))và các cấp chỉ huy sẽ chẳng mảy may nghĩ tới việc bổ sung tạm thời cho vị trí kia. Thành ra các thành viên của đội lại phải tự mình đảm nhiệm việc nhận các tin nhắn, lọc các mail và đống hồ sơ, nên chẳng có gì khó hiểu khi không ai trong số họ cảm thấy vui vẻ với việc này.
Rồi Gillette đưa mắt về phía một trong những tấm bảng phoóc trắng trên tường, rõ ràng chúng được dùng để liệt kê các manh mối. Một bức ảnh được đính lên tấm bảng. Hắn không thể nhìn rõ bức ảnh ấy nên bước tới gần hơn. Rồi hắn thở dốc và choáng váng khựng lại. Trong bức ảnh là một người phụ nữ trẻ mặc chiếc váy màu đỏ và cam, thân trên lõa thể xanh lét và đầy máu me, nằm trên một thảm cỏ, và đã chết. Gillette đã từng chơi vô số trò chơi trên máy tính – Mortal Kombat, Doom và Tomb Raider, nhưng dù những game ấy có khủng khiếp tới mức nào thì cũng chẳng thể sánh được với tội ác khủng khiếp, máu lạnh trên nạn nhân là người thật như thế này.
Andy Anderson nhìn chằm chằm chiếc đồng hồ treo tường, đó không phải một chiếc đồng hồ điện tử cho phù hợp với một trung tâm máy tính, mà lại là một chiếc đồng hồ kim bụi bặm cổ lỗ sỹ, với những chiếc kim to nhỏ. Bây giờ là 10 giờ sáng. Viên cảnh sát nói, “Ta phải nhanh chóng bắt tay vào việc thôi… Hiện tại ta sử dụng phương án tiếp cận theo hai hướng. Thám tử Bishop và Shelton sẽ tiến hành một cuộc điều tra án mạng như bình thường. CCU sẽ xử lý những bằng chứng máy tính, với sự giúp đỡ của anh Wyatt đây”. Ông nhìn vào chiếc máy fax trên bàn làm việc của mình và nói thêm, “Chúng ta cũng đang chờ đợi một nhà cố vấn đến từ Seattle, một chuyên gia về Internet và hệ thống mạng, Patricia Nolan. Cô ấy cũng sắp đến đây rồi”.
“Cảnh sát à?”, Shelton hỏi.
“Không, dân sự thôi”, Anderson đáp.
Miller nói thêm, “Chúng tôi thường nhờ đến những người làm an ninh mạng của các công ty. Công nghệ thay đổi quá nhanh tới mức chúng tôi không thể theo kịp mọi sự phát triển mới nhất. Bọn tội phạm luôn đi trước chúng tôi một bước. Bởi vậy chúng tôi luôn cố gắng tận dụng các cố vấn bên ngoài bất cứ khi nào có thể”.
Tony Mott nói, “Họ vẫn thường xếp hàng xin được hỗ trợ. Trong hồ sơ mà có dòng tóm được hacker là rất hợp thời đấy”.
Anderson hỏi Linda Sanchez, “Vậy, chiếc máy tính của cô Gibson ở đâu nhỉ?”
“Đang ở phòng phân tích, thưa sếp,” người phụ nữ hất đầu về phía một hành lang tối tăm từ căn phòng trung tâm. “Một nhóm chuyên gia từ đơn vị khám nghiệm hiện trường đang lấy dấu tay trên chiếc máy để đề phòng trường hợp hung thủ đã đột nhập vào nhà cô ấy và để lại những dấu vết còn tươi ngon. Chắc mười phút nữa là xong.”
Mott đưa cho Frank Bishop một chiếc phong bì. “Nó được gửi đến cho anh vài phút trước. Đó là bản báo cáo khám nghiệm hiện trường sơ bộ.”
Bishop luồn ngón tay vào mớ tóc cứng quèo của mình. Gillette có thể nhìn thấy rõ những dấu răng lược trong mảng tóc xịt keo dày đặc ấy. Viên cảnh sát nhìn lướt qua tập giấy nhưng không nói gì cả. Ông đưa tập hồ sơ cho Shelton, nhét áo vào quần một lần nữa rồi đứng dựa vào bức tường.
Viên cảnh sát đậm người mở tập tài liệu, đọc nó một lúc rồi nhìn lên. “Các nhân chứng cho biết thủ phạm là một người đàn ông da trắng, tầm vóc và cân nặng trung bình, vận quần màu trắng và chiếc áo sơ mi màu xanh da trời nhạt, cùng chiếc cà vạt có hình hoa văn kiểu một nhân vật hoạt hình. Tầm cuối hai mươi đầu ba mươi tuổi. “Trông như các nhân viên công nghệ khác ở vùng này”, anh chàng phục vụ ở quầy bar nói vậy. Viên cảnh sát bước tới tấm bảng trắng và bắt đầu viết các thông tin lên. Ông tiếp tục, “Tấm thẻ căn cước hắn đeo là của Trung tâm nghiên cứu Xerox Palo Alto nhưng chúng tôi chắc nó chỉ là giả mạo. Chẳng có manh mối gì liên quan tới bất kỳ ai ở đó. Hắn để ria mép và râu dê. Tóc vàng. Cũng tìm thấy vài sợi vải bò sờn màu xanh trên xác nạn nhân, chúng không khớp với bộ đồ Gibson mặc hay bất cứ thứ gì trong tủ đồ của cô ấy ở nhà. Có thể là của hung thủ. Vũ khí giết người có thể là một con dao quân đội Ka-bar có cạnh răng cưa”.
Tony Mott hỏi, “Làm sao mà ông biết được điều đó?”.
“Vết thương khớp với kiểu vũ khí ấy”, Shelton quay lại với tập hồ sơ. “Nạn nhân bị giết ở một nơi khác và bị vứt ở bên đường cao tốc.”
Mott ngắt lời, “Làm thế nào mà họ nói thế được?”.
Shelton hơi cau mày, rõ ràng không muốn chuyển chủ đề. “Dựa vào lượng máu của cô ấy được tìm thấy tại hiện trường.” Mái tóc dài màu vàng của viên cảnh sát trẻ lúc lắc khi anh ta gật gù và có vẻ đang ghi nhớ thông tin này cho kinh nghiệm về sau.
Shelton tiếp tục, “Không có ai ở quanh khu vực vứt xác nhìn thấy bất cứ điều gì”. Một ánh mắt sắc sảo liếc qua những người khác. “Giống như họ vẫn hay khai thế… Hiện tại, chúng tôi đang lần theo dấu vết chiếc xe của hung thủ, hắn và Lara rời quầy bar cùng nhau. Người ta nhìn thấy họ đi về phía bãi đậu xe phía sau nhưng không ai thấy hắn đi về hướng nào. Đội khám nghiệm hiện trường thì may mắn hơn, nhân viên quầy bar nhớ là hung thủ bọc chai bia của mình trong một chiếc khăn ăn và một người trong đội khám nghiệm hiện trường đã tìm thấy nó trong thùng rác. Nhưng chúng ta đã tìm dấu tay trên cả cái chai lẫn chiếc khăn và chả thu được gì cả. Phòng xét nghiệm lấy được một chất dính từ miệng chai nhưng không xác định rõ được đó là cái gì. Nó không phải chất độc. Đó là tất cả những gì họ biết. Nó không khớp với bất cứ thứ gì có trong dữ liệu của phòng thí nghiệm.”
Frank Bishop cuối cùng cũng mở miệng, “Cửa hàng phục trang”.
“Phục trang?”, Anderson hỏi.
Viên cảnh sát nói, “Có thể hắn ta cần vài thứ để cải trang cho giống cái gã Will Randolph mà hắn đang đóng giả. Có thể là keo để gắn râu giả”.
Gillette đồng tình với điều đó. “Một kẻ social engineer tài ba luôn ăn vận phù hợp với nhân vật. Tôi có những người bạn đã cùng nhau may những bộ đồng phục hoàn chỉnh của nhân viên công ty điện thoại Pac Bell.”
“Hay đấy”, Tony Mott nói với Bishop, và thêm dữ liệu đó vào bộ nhớ cho file học tập không ngừng của mình.
Anderson gật gật thể hiện sự tán thành với ý kiến này. Shelton gọi cho trụ sở Đội điều tra trọng án ở San Jose và sắp xếp một nhóm lính đối chiếu chất dính đó với các mẫu keo dùng cho hóa trang sân khấu.
Frank Bishop cởi chiếc áo khoác nhăn nhúm và cẩn thận treo nó lên lưng chiếc ghế đầu. Ông nhìn chằm chằm vào bức ảnh và chiếc bảng trắng, tay khoanh trước ngực. Chiếc áo sơ mi lại tuột ra ngoài quần lần nữa. Ông đi đôi giầy mũi nhọn. Khi Gillette còn là một sinh viên, hắn và vài người bạn ở Berkeley có thuê một cuốn băng video cho một bữa liên hoan – một bộ phim khiêu dâm từ những năm năm mươi, sáu mươi gì đó. Một trong những nam diễn viên ăn mặc và có bề ngoài y hệt Bishop.
Lấy tập hồ sơ khám nghiệm hiện trường từ tay Shelton, Bishop nghiền ngẫm nó. Rồi ông ngẩng lên, “Nhân viên quầy bar nói nạn nhân đã gọi một ly Martini còn hung thủ thì uống một cốc bia nhẹ. Hung thủ đã trả tiền. Nếu chúng ta lấy được hóa đơn thì có thể có dấu vấn tay”.
“Làm sao ông làm được điều đó?”, Stephen Miller tầm thước cất lời. “Nhân viên quầy bar chắc hẳn đã quẳng nó đi đêm qua, cùng với cả ngàn hóa đơn khác.”
Bishop hất đầu về phía Gillette, “Chúng tôi sẽ cử vài người lính đi làm điều cậu ta vừa nói – Dumpster diving (Phương pháp lục lọi tìm kiếm thông tin từ thùng rác.)”. Rồi ông nói với Shelton, “Yêu cầu họ tìm kiếm trong các thùng rác của quầy bar tờ hóa đơn cho một ly Martini và một cốc bia nhẹ, thời gian in trên đó khoảng bảy giờ ba mươi tối”.
“Sẽ mất ối thời gian vào đó”, Miller nói. Nhưng Bishop lờ ông ta đi và gật đầu với Shelton – người đang thực hiện cuộc gọi theo gợi ý của ông.
Gillette chợt nhận ra là không có ai đứng gần hắn cả. Hắn nhìn những bộ quần áo sạch sẽ, mái tóc cắt gội bóng mượt và những móng tay không chút cáu bẩn của mọi người. Hắn hỏi Anderson, “Nếu chúng ta còn vài phút trước khi chiếc máy tính kia sẵn sàng… Tôi hy vọng các ông có vòi sen ở đâu đó quanh đây chứ?”
Anderson giật giật phần dái tai vẫn còn nguyên dấu vết của lỗ khuyên ngày trước và phá lên cười, “Tôi đang tự hỏi làm thế nào để mang được nó vào đây”, Ông nói với Mott, “Đưa anh ta xuống phòng thay đồ của nhân viên. Nhưng nhớ theo sát”.
Viên cảnh sát trẻ gật đầu rồi đưa Gillette xuống hành lang. Anh ta nói huyên thuyên không ngừng, chủ đề đầu tiên của anh ta là các ưu điểm của hệ điều hành Linux, một biến thể của hệ điều hành Unix truyền thống mà rất nhiều người đang bắt đầu sử dụng để thay thế Windows. Anh ta nói một cách đầy nhiệt huyết sôi nổi và quả thật rất hiểu biết.
Rồi anh nói với Gillette về sự thành lập của Đơn vị điều tra tội phạm máy tính. Họ đã thành lập được gần một năm. Đội Geek Squad, Mott giải thích, có thể dễ dàng sử dụng nửa tá cảnh sát toàn thời gian nhưng điều đó nằm ngoài ngân sách. Trên thực tế, luôn có nhiều vụ án hơn số vụ họ có thể giải quyết được, từ các vụ hack tới chat khiêu dâm với trẻ em hay xâm phạm bản quyền phần mềm. Khối lượng công việc có vẻ như ngày càng nặng nề hơn.
“Vậy sao anh vào đây?”, Gillette hỏi anh ta. “CCU?”
“Hy vọng có chút gì đó hay ho thú vị. Ý tôi là, tôi yêu thích máy móc và dường như dành cả tâm trí cho chúng, nhưng việc nghiền ngẫm các phần mềm để tìm bắt các vụ vi phạm bản quyền có vẻ không phải những gì mình mong muốn. Tôi đã nghĩ rằng nó sẽ hiện đại và khốc liệt hơn.”
“Thế còn Linda Sanchez thì sao?“, Gillette hỏi. “Chị ấy cũng là một người yêu thích máy móc sao?”
“Không hẳn. Chị ấy thông minh nhưng máy tính lại không phải đam mê của chị ấy. Chị ấy từng là một tay anh chị ở Lettuce Land, Salinas. Rồi chị ấy tham gia vào các công tác xã hội và quyết định học hành cẩn thận. Cộng sự của chị ấy đã trúng đạn và bị thương khá nặng ở Monterey vài năm trước. Linda có hai đứa con gái – một đứa đang mang bầu và đứa kia đang trung học, chồng chị ấy thì chẳng bao giờ có mặt ở nhà. Ông ta là nhân viên của INS (Immigration and Naturalization Service: Bộ di trú và nhập tịch Hoa Kỳ). Do đó chị ấy nhận ra rằng đã đến lúc phải chuyển sang một công việc bình lặng hơn.”
“Hoàn toàn ngược lại với anh.”
Mott cười, “Tôi cũng đoán thế”.
Gillette lau người sau khi tắm và cạo râu, Mott đặt một bộ quần áo thể thao của anh lên chiếc ghế dài cho tay hacker. Áo phông, quần đen và một chiếc áo gió. Mott thấp hơn Gillette nhưng về căn bản thì họ có cùng vóc người.
“Cảm ơn”, Gillette nói khi đang mặc quần áo. Hắn cảm thấy thật là sảng khoái, sau khi gột sạch sự bẩn thỉu đặc trưng khỏi thân xác gầy còm của hắn – ghét bẩn của nhà tù.
Trên đường trở lại phòng làm việc chính, họ đi qua một căn bếp nhỏ. Có một bình đun cà phê, một cái tủ lạnh và một cái bàn với một đĩa bánh vòng trên đó. Gillette dừng lại, thèm thuồng nhìn chỗ đồ ăn. Rồi hắn quan sát dãy tủ đồ.
Hắn hỏi Mott, “Tôi đoán là các anh có bánh Pop-Tarts ở đây nhỉ?”.
“Pop-Tarts? Không. Nhưng có bánh vòng đấy.”
Gillette bước tới chiếc bàn và rót một tách cà phê. Rồi hắn cầm một cái bánh vòng màu nâu lên.
“Không phải chỗ bánh đó đâu”, Mott nói. Anh lấy nó khỏi tay Gillette và thả nó xuống sàn. Chiếc bánh nảy tưng tưng như một quả bóng.
Gillette cau mày.
“Linda đã mang mấy thứ này vào đây. Nó chỉ để đánh lừa thôi.” Khi Gillette bối rối nhìn anh, viên cảnh sát nói tiếp, “Cậu không hiểu à?”.
“Hiểu gì?”
“Hôm nay là ngày bao nhiêu?”
“Tôi không biết nữa. Trong tù người ta không tính thời gian bằng ngày tháng.”
“Ngày Cá tháng Tư”, Mott nói. “Những cái bánh ngọt này làm bằng nhựa. Linda và tôi đặt nó ở đó sáng nay và bọn tôi đang đợi Andy cắn một miếng, nói cho anh biết, nhưng chúng tôi vẫn chưa lừa được ông ấy. Tôi nghĩ là ông ấy đang ăn kiêng mất rồi.” Anh mở tủ chạn và lấy ra một chiếc túi với những cái bánh ngon lành. “Đây này.”
Gillette xơi hết veo một cái. Mott nói, “Cứ ăn đi. Vẫn còn một chiếc nữa”.
Chiếc còn lại tiếp tục được xử lý với một ngụm cà phê thật lớn. Đó là những thứ tuyệt nhất hắn được ăn trong bao nhiêu năm nay.
Mott lấy một ly nước cà rốt từ tủ lạnh và họ cùng quay trở lại khu trung tâm điều hành của CCU.
Gillette nhìn quanh phòng máy, hàng trăm “con trăn boa” chưa kết nối ngoằn nghèo quanh các góc nhà và những chiếc quạt thông gió, tâm trí hắn bỗng rung lên. Một ý nghĩ chạy qua đầu hắn. “Ngày Cá tháng Tư… Vậy thì vụ giết người hẳn phải là ngày ba mốt tháng Ba?”
“Đúng vậy”, Anderson xác nhận. “Việc đó quan trọng à?”
Gillette nói một cách không chắc chắn, “Có thể chỉ là một sự trùng hợp mà thôi”.
“Cứ nói đi xem nào.”
“Chà, chỉ là ngày ba mươi mốt tháng ba kiểu như là một ngày lễ, một ngày kỷ niệm trong lịch sử máy tính.”
Bishop hỏi, “Tại sao?”.
Giọng một người phụ nữ vang lên từ phía cửa vào, “Đó chẳng phải là ngày mà chiếc Univac đầu tiên được giao hàng sao?”.