Chỉ có hai cách để thoát khỏi hacker và phreaker. Một là tránh xa khỏi máy tính và điện thoại… Cách còn lại là cho chúng tôi tất cả những gì chúng tôi muốn, chính là quyền tự do truy cập TẤT CẢ các thông tin. Nếu không có được một trong hai điều này, chúng tôi sẽ chẳng đi đâu hết.
– Trích lời một hacker được biết đến như một Revelation – Đảng khai phá, trong Hướng dẫn cơ bản dành cho người nhập môn Hacking và Phreaking.
o O o
“Anh không sao chứ?”, Patricia hỏi, mắt nhìn vào vết máu trên mặt, cổ và quần của Gillette.
“Tôi không sao”, hắn đáp.
Nhưng Nolan không chịu tin và khăng khăng thể hiện vai trò người chăm sóc. Cô biến mất sau căng tin và quay trở lại với khăn giấy ướt cùng nước xà bông. Cô rửa lông mày và má, những chỗ xây xước sau cuộc vật lộn của hắn với Phate. Hắn ngửi thấy mùi chất dưỡng móng còn mới trên đôi bàn tay khỏe khoắn của cô, tự hỏi không biết cô ta lấy đâu ra thời gian làm đỏm giữa cuộc tấn công của Phate vào bệnh viện và cuộc ẩu đả ở đây.
Nolan bắt hắn xắn ống quần lên để rửa vết thương trên chân, tay cô giữ chặt bắp chân hắn. Khi đã xong xuôi, cô mỉm cười thân mật với hắn.
Quên chuyện đó đi, Patty, hắn lại nghĩ… Tôi là một tên tù vô công rỗi nghề, tôi yêu người khác. Đừng bận tâm làm gì, thật đấy.
“Không đau đấy chứ?”, cô hỏi, chấm mảnh vải ướt vào vết cắt.
Vết thương xót như hàng chục con ong đang châm chích. “Hơi xót một chút thôi”, hắn nói, hy vọng có thể khiến Nolan nản lòng, cô đang chăm sóc cho hắn bằng tất cả sự nhiệt tình.
Tony Mott chạy trở lại vào CCU, tra vũ khí của mình vào bao súng bên hông. “Không có dấu hiệu của hắn.”
Shelton và Bishop bước theo sau. Cả ba người vừa trở về từ bệnh viện và mất thêm nửa tiếng lùng sục khắp nơi, tìm kiếm dấu hiệu của Phate hoặc nhân chứng nhìn thấy lúc hắn đột nhập hay trốn khỏi CCU. Nhưng vẻ mặt họ cho thấy họ cũng chẳng may mắn hơn Mott.
Bishop mệt mỏi ngồi xuống một chiếc ghế. “Vậy đã xảy ra chuyện gì?”, ông hỏi tay hacker.
Gillette kể vắn tắt cho mọi người về cuộc tấn công của Phate ở CCU.
“Hắn có nói gì giúp ích cho việc điều tra không?”
“Không. Chẳng có gì cả. Tôi gần như đã lấy được ví của hắn nhưng cuối cùng chỉ giằng giật được mỗi thứ đó.” Hắn hất đầu về phía chiếc máy CD. Một kỹ thuật viên ở Phòng Phân tích hiện trường đã kiểm tra dấu tay trên nó nhưng chỉ tìm thấy vân tay của Phate và Gillette.
Rồi tay hacker thông báo cái tin Triple-X đã chết.
“Ôi, không”, Frank Bishop thốt lên, cảm thấy đau lòng khi một dân thường, người đã mạo hiểm giúp họ lại bị giết. Bob Shelton thở dài tức giận.
Mott bước đến tấm bảng bằng chứng và viết tên của Triple-X bên cạnh Andy Anderson, Lara Gibson và Willem Boethe dưới tiêu đề “Nạn nhân”.
Nhưng Gillette vụt đứng dậy, hơi chao đảo vì vết thương ở chân và bước tập tễnh đến tấm bảng. Hắn xóa cái tên đó.
“Cậu làm gì vậy?”, Bishop hỏi.
Gillette cầm bút lên và viết “Peter Grodsky.” Hắn nói, “Đó là tên thật của anh ấy. Anh ấy là một lập trình viên sống ở Sunnyvale”.
Hắn nhìn cả đội. “Tôi chỉ nghĩ là chúng ta nên nhớ rằng anh ấy không chỉ đơn thuần là một cái screenname,” Bishop gọi cho Huerto Ramirez và Tim Morgan yêu cầu họ tìm kiếm địa chỉ của Grodsky và khám nghiệm hiện trường tội phạm.
Gillette để ý thấy mẩu giấy nhắn màu hồng, hắn nói với Bishop, “Tôi có ghi lại một tin nhắn gửi cho ông ngay trước khi ông từ bệnh viện về. Là vợ ông gọi”. Hắn đọc mẩu tin. “Đại loại là xét nghiệm đã có kết quả và nó là tin tốt, ừm, tôi không chắc mình có hiểu đúng không, tôi nghĩ chị ấy nói chị ấy có một mũi tiêm nghiêm trọng. Tôi không rõ tại sao nó lại là tin tốt.”
Nhưng niềm vui ánh lên trên khuôn mặt Bishop – một nụ cười rạng rỡ, hiếm hoi, nó cho hắn biết rằng, phải, thông điệp đúng là thế.
Hắn thấy mừng cho viên thám tử nhưng lại thấy buồn cho bản thân vì Elena không gọi. Hắn băn khoăn không biết giờ này cô đang ở đâu. Liệu Ed có đang ở bên cạnh cô. Mồ hôi ướt đẫm bàn tay hắn vì cơn ghen tức.
Đặc vụ Backle từ bãi đỗ xe bước vào văn phòng. Mái tóc bóng mượt của anh ta giờ rối bù, còn bước chân thì khập khiễng. Anh ta đã tự sơ cứu trước đó nhưng cũng vừa được Dịch vụ cấp cứu chăm sóc ở xe cứu thương đỗ ngoài bãi đỗ. Anh ta bị chấn động nhẹ khi bị tấn công trong phòng cà phê. Giờ thì, một bên đầu anh ta được quấn một dải băng trắng to.
““Anh thấy thế nào?”, Gillette lạnh nhạt hỏi.
Tay đặc vụ không đáp, thấy khẩu súng của mình trên chiếc bàn gần Gillette, anh ta liền chộp lấy. Anh kiểm tra nó một cách cẩn thận thái quá, rồi bỏ khẩu súng vào bao.
“Đã xảy ra chuyện quái quỷ gì thế?”, Backle hỏi.
Bishop nói, “Phate dột nhập, tấn công và cướp vũ khí của anh”.
“Còn cậu thì lấy lại nó từ hắn?”, tay đặc vụ hỏi Gillette bằng giọng ngờ vực.
“Phải.”
“Cậu biết tôi ở trong phòng cà phê”, Backle ngắt lời. “Hắn thì không.”
“Nhưng tôi đoán là hắn biết, phải không nhỉ?”, Gillette đáp. “Nếu không làm sao hắn có thể tấn công và cướp vũ khí của anh?”
“Có vẻ như là”, tay đặc vụ chậm rãi nói, “bằng cách nào đó cậu biết được hắn sắp đến đây. Cậu muốn có vũ khí và tìm cách xoay sở để đoạt vũ khí của tôi”.
“Ồ, chuyện không phải như vậy đâu”, Gillette nói rồi liếc sang Bishop, người đang nhướng một bên lông mày như thể suy nghĩ của tay đặc vụ không hoàn toàn sai. Tuy nhiên viên thám tử không nói gì.
“Nếu tôi truy ra kẻ đó là cậu…”
Bishop vội nói, “Này, này, này… Tôi nghĩ anh nên thể hiện lòng biết ơn một chút đấy, quý ngài ạ. Nói một cách tích cực thì Wyatt đây đã cứu mạng anh”.
Cố gắng nhìn đáp trả viên cảnh sát nhưng cuối cùng tay đặc vụ vẫn phải chịu thua, anh ta bước đến một chiếc ghế rồi hậm hực ngồi xuống. “Tôi vẫn sẽ giám sát cậu, Gillette.”
Bishop có cuộc gọi. Sau khi gác máy, ông thông báo, “Là Huerto. Anh ta cho biết họ có báo cáo từ Havard. Không có thông tin ghi nhận một ai tên là Shawn từng theo học hoặc làm việc tại trường cùng khoảng thời gian với Holloway. Anh ta cũng kiểm tra những nơi Holloway từng làm việc – westem Electric, Apple và tất cả những chỗ khác. Không có ai tên là Shawn.” Ông liếc sang Shelton, “Anh ta cũng nói vụ MARINKILL đang rất gay cấn. Họ xác định được bọn tội phạm đang ẩn nấp ở ngay sân sau của chúng ta. Santa Clara, gần cao tốc 101”.
Bob Shelton cười nhạt. “Anh có muốn một miếng trong vụ này hay không cũng chẳng quan trọng, Frank. Có vẻ chính nó mới đang đeo bám anh.”
Bishop lắc đầu. “Có lẽ vậy, nhưng chắc chắn tôi không muốn nó quanh quẩn ở đây, không phải là lúc này. Nó sẽ lôi kéo hết nguồn lực trong khi tất cả chúng ta cần mọi sự hỗ trợ có thể.” Ông nhìn Patricia Nolan. “Cô tìm được gì ở bệnh viện?”
Cô giải thích cách mình và Miller xem xét bên trong hệ thống mạng của bệnh viện. Và dù có tìm thấy những dấu hiệu chứng tỏ Phate đã đột nhập vào hệ thống, họ vẫn không tài nào tìm thấy bất kì thứ gì về địa điểm Phate thực hiện việc hack.
“Quản trị mạng bên đó đã in ra những thứ này.” Cô đưa cho Gillette một xấp bản in. “Báo cáo hoạt động đăng nhập và đăng xuất trong vòng một tuần. Tôi nghĩ anh có thể tìm thấy thứ gì đó.”
Gillette bắt đầu nghiền ngẫm cả trăm trang giấy.
Trong khi đó, Bishop nhìn quanh phòng máy chủ rồi lo lắng hỏi, “Này, Miller đâu rồi?”.
Nolan nói, “Anh ấy rời trung tâm máy tính của bệnh viện trước tôi. Anh ấy nói sẽ về thẳng đây”.
Vẫn cắm cúi vào các bản in, Gillette nói, “Tôi chưa nhìn thấy anh ấy”.
“Có thể anh ấy đến trung tâm máy ở Standford”, Mott nói. “Anh ấy đặt lịch sử dụng siêu máy tính ở đó rất nhiều. Có thể anh ấy đi kiểm tra đầu mối”. Anh gọi vào di động của Miller nhưng không thấy trả lời nên đành để lại tin nhắn thoại.
Gillette mải miết đọc lướt toàn bộ các bản in, cho đến khi bắt gặp một danh sách đặc biệt khiến tim hắn giật thót. Hắn đọc lại để chắc chắn. “Không…”
Hắn nói rất nhỏ nhưng mọi người trong đội đều ngừng bặt và quay sang nhìn hắn.
Tay hacker nhìn lên. “Sau khi đã cướp được quyền kiểm soát thư mục gốc ở Stanford-Packard, Phate không chỉ đăng nhập vào các mạng khác có liên kết với hệ thống của bệnh viện. Hắn còn nhảy từ máy của bệnh viện sang một máy tính bên ngoài. Nó coi Stanford-Packard là một hệ thống đáng tin cậy nên hắn đã thoải mái đi xuyên qua tường lửa và đoạt quyền truy cập gốc ở đó.”
“Đó là hệ thống nào vậy?”, Bishop hỏi.
“Đại học Bắc California ở Sunnyvale.” Gillette nhìn lên. “Hắn đã có được các tài liệu về quy trình an ninh và thông tin nhân sự của từng nhân viên an ninh của trường.” Tay hacker thở dài. “Nhưng chúng ta sắp gặp rắc rối trong việc tìm ra nạn nhân tiếp theo. Hắn đã tải về tên và dữ liệu cá nhân của hai nghìn tám trăm sinh viên”
o O o
Có kẻ đang theo đuôi hắn…
Là ai?
Qua gương chiếu hậu, Phate nhìn những chiếc xe phía sau trên đường cao tốc 280. Hắn đang trốn chạy khỏi trụ sở của CCU. Hắn hoàn toàn rúng động vì Valleyman một lần nữa lại đi trước hắn một nước cờ và giờ hắn phải chạy trối chết về nhà.
Hắn đã kịp nghĩ về cuộc tấn công tiếp theo – vào Đại học Bắc California. Nó không thách thức bằng một số mục tiêu mà hắn đã chọn nhưng an ninh ở khu học xá rất nghiêm ngặt và ngôi trường này sở hữu một hệ thống máy tính mà trong một cuộc phỏng vấn, chính ngài hiệu trưởng từng tuyên bố là nó miễn dịch khỏi hacker. Thêm một điểm thú vị nữa, nó kiểm soát hệ thống báo động và phun chống cháy tối tân xuyên suốt hai mươi lăm khu học xá – nơi ở của tất cả sinh viên.
Một vụ hack dễ dàng, không khó nhằn bằng vụ Lara Gibosn hay Học viện Thánh Francis. Nhưng lúc này đây, Phate đang cần một chiến thắng. Hắn đang thua lượt chơi này và điều đó làm lung lay sự tự tin của hắn.
Và đổ dầu vào ngọn lửa điên loạn bệnh hoạn của hắn… Hắn lại liếc nhìn vào gương chiếu hậu.
Phải rồi, nhất định là có kẻ nào đó! Hai gã ở ghế trước đang chằm chằm nhìn hắn.
Đảo mắt trở lại con đường, rồi hắn liếc về phía sau lần nữa.
Nhưng chiếc xe mà hắn đã nhìn thấy – hay tưởng là đã nhìn thấy, chỉ là một cái bóng hay một hình ảnh phản chiếu.
Không, chờ đã! Nó đây rồi… Nhưng bây giờ một người phụ nữ đang cầm lái.
Khi hắn nhìn đến lần thứ ba thì lại chẳng có người lái xe nào hết. Chúa ơi, đó là một loại sinh vật nào đó!
Một bóng ma.
Một con quỷ.
Đúng, không đúng…
Mày nói đúng, Valleyman: Khi máy tính là thứ duy nhất cho mày cuộc sống, khi chúng là những tô-tem (linh vật) duy nhất bảo vệ mày khỏi sự nguyền rủa chết chóc của nỗi buồn chán, thì sớm hay muộn cái ranh giới giữa hai thế giới sẽ biến mất và những nhân vật đến từ Miền xanh thẳm vô định sẽ bắt đầu xuất hiện trong Thế giới thực.
Đôi khi những nhân vật đó là bè bạn của mày.
Và đôi khi không phải vậy.
Đôi khi mày thấy chúng lái xe phía sau, đôi khi lại thấy bóng của chúng trên những lối đi mày đang tiến đến, thấy chúng trốn trong gara, trong phòng ngủ, trong nhà kho. Mày thấy chúng trong cái nhìn của một người xa lạ.
Mày thấy chúng trong những hình ảnh phản chiếu của màn hình khi mày ngồi trước chiếc máy của mình khi giờ phù phép đã điểm.
Đôi khi chúng chỉ là tưởng tượng của mày.
Hắn lại liếc mắt vào gương chiếu hậu.
Nhưng đôi khi, tất nhiên, chúng thực sự tồn tại
o O o
Bishop nhấn nút KẾT THÚC trên chiếc di dộng.
“Khu học xá Đại học Bắc California có kiểu an ninh điển hình của các trường đại học có nghĩa là khá dễ dàng đột nhập”
“Tôi tưởng hắn muốn thử thách”, Mott nói
Gillette đáp, “Tôi đoán lần này mục tiêu của hắn là một vụ chết chóc dễ dàng. Có lẽ hắn đã bĩnh ra quần khi mấy lần suýt bị chúng ta tóm và hắn muốn thấy đổ máu”.
Nolan nói thêm, “Cũng có thể là một trò nghi binh nữa”
Gillette đồng ý rằng đó cũng là một khả năng.
Bishop nói “Tôi đã nhắc hiệu trưởng là họ nên hủy các buổi học và cho mọi người về nhà. Nhưng ông ta không đồng ý vì các sinh viên sẽ bắt đầu kì thi tốt nghiệp trong hai tuần nữa. Vậy là chúng ta sẽ phải bao bọc cả trường bằng lính và cảnh sát hạt. Nhưng thế cũng nghĩa là có thêm người lạ trong trường và gia tăng nguy cơ Phate sẽ social engineer để xâm nhập vào một khu học xá”.
“Chúng ta làm gì bây giờ, Mott hỏi.
Bishop nói, “Nghiệp vụ cảnh sát kiểu cũ nào đó thôi”. Ông nhặt chiếc máy CD của Phate lên. Viên thám tử mở nắp, là bản ghi âm một vở kịch, buổi biểu diễn vở Othello. Ông lật thiết bị lại và lưu số seri. “Có lẽ Phate mua nó ở vùng nầy thôi. Tôi sẽ gọi cho công ty đó để xem thiết bị nầy được giao đến đâu.”
Bishop bắt đầu gọi cho vô số trung tâm phân phối và bán hàng của công ty sản phẩm điện tử Akisha frên khắp đất nước. Ông đã được chuyển máy, và chờ máy trong khoảng thời gian dài tưởng như vô tận, rồi khó khăn lắm mới gặp được một ai đó có thể hoặc sẵn lòng giúp đỡ.
Viên thám tử đang tranh cãi với ai đó ở đầu dây bên kia, wyatt Gillette quay vòng trên một chiếc ghế xoay đến một máy tính gần đó và bắt đầu gõ phím. Một lát sau, hắn đứng dậy và lấy một tờ giấy ra khỏi máy in.
Trong khi Bishop đang bực dọc nói vào điện thoại, “Chúng tôi không thể chờ đợi thông tin đó tận hai ngày được”. Gillette đưa tờ giấy cho viên thám tử.
DANH MỤC GIAO HÀNG SẢN PHẨM ĐIỆN TỬ AKISHA – QUÝ ĐẦU
Model: Đầu đĩa xách tay Heavy Bass HB
Số Seri Ngày giao hàng Người nhận
HB400321 1/12 Mountain View Music&Electronics
HB40068 1 9456 Rio Verde, Mountain View/ CA
Viên thám tử thả lỏng chiếc điện thoại trong tay, ông nói vào ống nghe, “Không sao”, rồi gác máy. “Làm thế nào cậu có được thứ này?”, Bishop hỏi Gillette. Rồi giơ một tay lên. “Mà thôi, tôi không nên biết thì hơn.” Ông mỉm cười. “Nghiệp vụ cảnh sát kiểu cũ, như tôi đã nói đấy.”
Bishop nhấc điện thoại và gọi cho Huerto Ramirez. Ông yêu cầu anh ta cầm theo ảnh của Phate đến cửa hàng âm nhạc Moutain View xem liệu họ có thể tìm ra chỗ ở của hắn trong vùng này không. “Còn nữa, nhớ nói người bán hàng là chàng trai của chúng ta có vẻ thích những vở kịch. Hắn có đĩa Othello. Có thể giúp gợi lại trí nhớ của họ.”
Một người lính từ trụ Sở cảnh sát bang ở San Jose chuyển một phong bì cho Bishop.
Ông mở ra và tóm tắt cho toàn đội, “Báo cáo của FBI về những chi tiết trong bức ảnh Lara Gibson mà Phate đã đăng lên. Họ nói rằng đó là một lò sưởi bằng ga hiệu Tru-Heat, model GST3000. Model này được giới thiệu ba năm trước và rất phổ biến trong những khu nhà mới. Vì công suất nhiệt của nó mà model này thường được sử dụng trong những căn nhà riêng, hai hoặc ba tầng, không phải nhà chung cư hay nhà trên phố. Các kỹ thuật viên còn quét bằng máy tính thông tin trên tem dán ở tấm ván Sheetrock trong tầng hầm và phát hiện ngày sản xuất: Tháng Một năm ngoái”.
“Nhà mới trong một khu mới xây”, Mott nói và viết những chi tiết này lên tấm bảng. “Cao từ hai đến ba tầng.”
Bishop khẽ cười và nhướng mày ngưỡng mộ. “Tiền thuế liên bang của chúng ta được chi tiêu đâu ra đấy, các chàng trai và cô gái ạ. Những quý ngài ở Washington biết mình đang làm gì đấy. Nghe đây. Những đặc vụ này đã tìm thấy vài chỗ không đồng đều trong cách trát vữa và xếp gạch sàn, họ nhận định rằng điều đó cho thấy căn nhà này được bán khi tầng hầm vẫn đang xây dở và chủ nhà đã tự lát gạch.”
Mott viết thêm lên bảng: “Bán với tầng hầm đang xây dở.”
“Vẫn chưa hết”, viên thám tử nói tiếp. “Họ cũng phóng to một phần của tờ báo trong thùng rác và phát hiện ra nó là của một nhà bán lẻ, The Silicon Valey Marketeer. Nó được phát tận nhà và chỉ được giao cho những hộ gia đình ở Palo Alto, Cupertino, Mountain View, Los Altos, Los Altos Hills, Sunnyvale và Santa Clara.”
Gillette lên tiếng, “Chúng ta có thể biết thêm gì về các khu nhà mới ở những quận này không?”.
Bishop gật đầu. “Tôi cũng đang tính thế” Ông nhìn sang Bob Shelton. “Anh vẫn quen anh bạn ở Ban Quy hoạch quận Santa Clara chứ?”
“Chắc chắn rồi.” Shelton gọi cho Ban Quy hoạch. Ông hỏi về giấy phép xây dựng khu nhà hai hoặc ba tầng có tầng hầm chưa hoàn thiện, được xây từ sau tháng Một năm ngoái trên những con phố trong danh sách của họ. Sau năm phút chờ máy, Shelton kẹp ống nghe dưới cằm, chộp lấy một chiếc bút và bắt đầu viết. Ông viết một hồi dài, danh sách những khu nhà dài đến nản. Phải có đến bốn mươi cả thảy.
Ông gác máy và lẩm bẩm, “Anh ấy nói họ không xây kịp nhu cầu. Thời đại số, mọi người biết đấy”.
Bishop lấy danh sách đó và bước đến bản đồ Thung lũng Silicon, khoanh tròn những địa điểm mà Shelton đã ghi ra.Vừa lúc đó, điện thoại đổ chuông, ông trả lời. Ông lắng nghe và gật đầu. Rồi gác máy. “Là Huerto và Tim. Một người bán hàng ở cửa hàng băng đĩa nhận ra Phate và nói hắn đã đến đó vài lần trong vòng mấy tháng qua, luôn mua các vở kịch. Không bao giờ mua nhạc. Lần gần đây nhất là vở Cái chết của một người bán hàng. Nhưng anh ta không biết hắn sống ở đâu.”
Ông khoanh tròn địa điểm cửa hàng băng đĩa. Ông đập tay lên chỗ đó, rồi đến vòng tròn xung quanh cửa hàng trang phục Ollie trên đường E1 Camino real, nơi Phate đã mua keo dán sân khấu và những thứ đồ cải trang khác. Những cửa hàng này cách nhau khoảng ba phần tư dặm. Địa điểm này cho thấy, có thể Phate sống ở khu trung tâm hoặc phía tây Thung lũng Silicon, như vậy là vẫn còn hai mươi hai khu nhà trải rộng trên một diện tích khoảng bảy hoặc tám dặm vuông. “Vẫn là quá lớn cho công cuộc tìm kiếm từng nhà một”
Họ chăm chú nhìn bản đồ và tấm bảng phải đến mười phút vô vọng, đưa ra cả tá phương án vô dụng về việc thu hẹp cuộc tìm kiếm. Các đồng nghiệp gọi về từ căn hộ của Peter Grodsky ở Sunnyvale. Người đàn ông trẻ tuổi chết vì một nhát đâm thấu tim – cũng giống như các nạn nhân khác trong phiên bản đời thực của trò chơi Access. Cảnh sát đã khám nghiệm hiện trường nhưng không tìm được manh mối nào có ích.
“Mẹ kiếp”, Bob Shelton nói, chân đá một chiếc ghế thể hiện cơn giận mà tất cả bọn họ đều đang cảm nhận.
Một sự im lặng kéo dài khi cả đội chăm chú nhìn tấm bảng trắng, sự im lặng này bị cắt ngang bởi một giọng nói rụt rè cất lên sau lưng họ. “Xin lỗi.”
Một cậu thiếu niên mập mạp, đeo cặp kính cận dầy cộp đứng ở ngưỡng cửa, đi cùng là một thanh niên tầm hai mươi tuổi.
Là Jamie Turner, Gillette nhớ ra, cậu học viên ở trường Thánh Francis và anh trai tên Mark.
“Chào chàng trai trẻ”, Frank Bishop mỉm cười nói với cậu. “Cháu khỏe không?”
“Ổn ạ, cháu đoán vậy.” Cậu ngước nhìn anh trai, Mark gật đầu khích lệ. Jamie tiến đến chỗ Gillette. “Em đã làm theo lời anh”, cậu nói, nuốt khan một cách khó nhọc.
Gillette không nhớ nổi cậu bé đang nói đến chuyện gì. Nhưng hắn vẫn gật đầu và nói giọng khích lệ, “Em nói đi”.
Jamie nói tiếp, “À, em đã xem xét những chiếc máy tính ở trường, trong phòng máy tính. Như anh đã yêu cầu. Và em đã tìm thấy thứ có lẽ sẽ giúp anh bắt được hắn, ý em là kẻ đã giết ông Boethe”.