Đó hoàn toàn chưa phải là cái chết. Trong cơn hấp hổi, nhận thức vẫn được duy trì, hiện thực của cuộc sống và tưởng tượng về một thế giới mới mà Patrice đang tiến vào, thế giới của cái chết, cứ đan xen, hoà trộn vào nhau.
Trong thế giới ấy, Coralie không còn tồn tại nữa, điều này làm anh buồn ghê gớm. Nhưng dường như anh đang nghe và nhìn thấy ai đó với cái bóng lờ mờ đang lướt qua đôi mắt đã khép của anh.
Con người đó chắc hẳn là lão Siméon đến để chứng kiến cái chết của những nạn nhân của hắn. Con người này bắt đầu mang Coralie đi, rồi quay về phía Patrice, mang anh đi và đặt ở một nơi nào đó. Tất cả những điều ấy chính xác đến nỗi Patrice phải tự hỏi có phải anh đã thức dậy thật không…
Rồi hàng giờ… hay chỉ vài giây… trôi qua. Cuối cùng Patrice cảm thấy anh ngủ thiếp đi, nhưng với một giấc ngủ bất tận, trong giấc ngủ ấy anh phải chịu đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần như kẻ bị hành xác. Anh lại phải quay lại nơi vực thẳm tăm tối, nơi anh đã cố gắng một cách tuyệt vọng để thoát ra, giống như một người rơi xuống biển và tìm mọi cách ngoi lên mặt nước. Anh vượt qua dòng nước một cách khó khăn vì chúng làm anh ngạt thở. Anh phải ngoi lên, tay chân bám vào những cái dây trơn tuột, không có lấy một điểm tựa.
Tuy nhiên bóng tối dần dần giãn ra. Đã có chút ánh sáng ban ngày le lói, Patrice thấy đỡ căng thẳng hơn. Anh mở mắt, hít căng lồng ngực và ngạc nhiên trước cảnh tượng quanh mình: anh đang nằm trên một chiếc đivăng ở ngoài trời; gần đó có một cánh cửa mở toang. Trên một chiếc đivăng khác gần đó, anh thấy Coralie đang nằm, nàng cố động đậy và có vẻ đang phải đau đớn. Patrice nghĩ “Nàng đang cố ngoi lên khỏi vực thẳm… Nàng đang gắng sức giống mình. Ôi, Coralie đáng thương… ”
Giữa họ có một chiếc bàn nhỏ. Trên bàn có hai cốc nước. Anh cầm lấy một cốc nhưng không dám uống. Lúc này, có một người đang đi ra cái cửa mà Patrice tin rằng đó là cửa ở góc lầu. Anh nhận thấy đó không phải là lão Siméon như anh đã nghĩ mà là một người lạ mà anh chưa từng thấy bao giờ.
Anh tự nhủ:
“Mình không ngủ mê, mình tin chắc rằng mình không ngủ mê và người lạ kia ắt hẳn là một người bạn”
Anh cố nói to lên điều đó để kiểm nghiệm suy nghĩ của mình. Nhưng anh không đủ sức.
Tuy nhiên người lạ kia đã lại gần bên anh và nói nhẹ nhàng: “Đừng phí sức, đại uý. Mọi việc sẽ đâu vào đó. Đây, anh hãy uống đi.”
Người lạ mặt đưa cho anh một cốc nước, anh uống một hơi không chút nghi ngờ, và anh hạnh phúc vì thấy Coralie cũng uống. “Vâng, mọi chuyện sẽ tốt cả, Patrice nói. Chúa ơi! Hạnh phúc biết bao khi được sống! Coralie nàng vẫn sống, phải không ông?
Anh không nghe thấy câu trả lời và thiếp đi trong một giấc ngủ say.
Khi anh tỉnh dậy, cơn khủng hoảng đã chấm dứt mặc dù anh vẫn cảm thấy ong ong trong óc và khó thở. Tuy nhiên anh đứng dậy và hiểu rằng những cảm giác của mình là có thực. Anh đang ở chỗ lối vào góc lầu, Coralie đã uống cốc nước thứ hai và nàng đang ngủ yên. Anh cất cao giọng nhắc lại:
“Tuyệt vời biết bao khi được sống!”
Anh muốn làm một điều gì đó, nhưng anh không dám bước vào trong căn gác dù cửa đang mở. Anh tránh xa nó, lại gần hành lang khu dành cho các ngôi mộ. Anh cũng chẳng biết vì sao, chẳng biết điều gì đang xảy ra, anh cứ đi mà không có mục đích rõ ràng rồi anh quay lại ngôi nhà, phía mặt sau nơi có khu vườn, bỗng nhiên anh dừng lại.
Cách đó vài mét dưới một gốc cây che nghiêng trên con đường mòn, có một người đàn ông ngồi dựa trên chiếc ghế dài làm từ thân cây gỗ miên liễu, đầu chui trong bóng râm còn chân duỗi dài dưới ánh nắng. Một quyển sách mở ra đặt trên đầu gối.
Chỉ đến khi ấy, Patrice mới tin chắc rằng Coralie và anh đã thoát chết, rằng cả hai sẽ sống và người cứu họ hẳn là con người đang ngủ say sưa với vẻ an toàn tuyệt đối và mãn nguyện kia. Anh quan sát, đó là một người đàn ông gầy, vai rộng, da nhợt nhạt có ria mép và vài sợi tóc hoa râm hai bên thái dương, chắc ông ta khoảng ngũ tuần. Quần áo được cắt may khéo léo cho thấy đây là một người rất bận tâm đến ăn mặc. Patrice nghiêng người đọc tên của cuốn sách: “Hồi ký của Benjamin Franklin”, anh còn đọc cả chữ viết tắt trang trí trên chiếc mũ đặt trên thảm cỏ “L.P”
“Chính ông ấy đã cứu mình, Patrice tự nhủ, mình biết điều đó. Ông ta đã đưa cả Coralie và mình ra khỏi xưởng và chăm sóc hai chúng ta. Nhưng làm sao lại có phép lạ đó? Ai đã cử ông ấy đến đây nhỉ?”
Patrice chạm vào vai người đàn ông. Ngay lập tức ông ta đứng dậy và nở nụ cười:
“Tha lỗi cho tôi, đại uý, nhưng cuộc sống của tôi bận đến mức tôi phải tận dụng thời gian, dù chỉ là vài phút thôi, để ngủ… ở bất cứ đâu… như Napoléon vậy, phải không? Ôi, chúa ơi, điểm giống nhau này chẳng hề gì với tôi cả… Nhưng nói về tôi thế đủ rồi. Thế còn anh, đại uý, anh thấy thế nào? Còn mẹ Coralie chắc đỡ ốm rồi chứ? Sau khi mở cửa và đưa hai người ra ngoài, tôi nghĩ là không cần thiết phải đánh thức các vị. Tôi đã rất bình tĩnh và làm những gì cần thiết. Hai người đã thở được và chỉ cần không khí là sẽ ổn thôi, đúng không?
Ông ngừng lời, thấy vẻ ngạc nhiên của Patrice, ông cười vui vẻ:
– À! Tôi quên mất, đại uý chắc không biết tôi? Đúng thật, vì bức thư tôi viết cho ông đã bị đánh cắp. Tôi phải tự giới thiệu vậy, tôi là don Luis Perenna, xuất thân từ một dòng họ Tây Ban Nha lâu đời chính gốc, có hẳn giấy tờ hợp lệ,…
Rồi ông cười vang, có lẽ bởi chính câu nói đùa của mình:
– Nhưng tôi thấy rằng điều này cũng không làm ông nhớ ra tôi. Bởi chắc Ya-Bon đã viết khác về tên tôi trên tường của con phố vào buổi tối cách đây khoảng mười lăm ngày? À! À! Ông bắt đầu hiểu ra rồi… Đúng, chính là người mà ông nhờ giúp đỡ… Tôi có phải nhắc lại chính xác tên đó không? Nào đại uý, vậy thì để tôi giúp anh… đó là Arsène Lupin.
Patrice rất ngạc nhiên. Anh đã hoàn toàn quên lời đề nghị của Ya-Bon và cậu ấy đã nhờ cậy đến nhà phiêu lưu nổi tiếng này. Thế là Arsène Lupin đã ở trước mặt anh… đó thật sự là Arsène Lupin, chỉ với một một sự cố gắng nhỏ có thể làm nên cả phép lạ không thể tin được, đã cứu cả anh và Coralie từ đáy sâu của cỗ quan tài đóng kín. Anh chìa tay ra và nói:
– Cám ơn ông.
– Đừng! Don Luis nói một cách vui vẻ, không cần phải cám ơn nhiều đâu. Chỉ một cái bắt tay thôi là đủ. Mọi người có thể bắt tay tôi, đại uý ạ, dù tôi có vài lỗi lầm nhỏ nhưng tôi đã làm được những việc tốt đẹp… chiếm được lòng tin của những con người chân thật… vậy thì…
Ông ta bỗng ngừng lời, kéo vạt áo choàng của Patrice và nói:
– Đừng động đậy, có người đang theo dõi chúng ta…
– Nhưng là ai?
– Ai đó đang ở trên hè phố, chỗ khu vườn… Tường không cao và phía trên là lưới. Người đó đang nhòm qua mắt lưới tìm cách theo dõi chúng ta…
– Làm thế nào mà ông biết được? Ông đang quay lưng về phía đó cơ mà, vả lại còn có nhiều bóng cây che khuất nữa chứ?
– Anh hãy lắng nghe…
– Tôi chẳng nghe thấy gì cả.
– Có đấy, tiếng động cơ… của một chiếc ô tô đã dừng lại. Nhưng một chiếc ô tô dừng lại làm gì trên hè phố cạnh một bức tường mà chẳng có ai ở.
– Thế theo ông đó là ai?
– Còn ai nữa ngoài lão Siméon.
– Siméon?
– Chắc chắn, hắn biết là tôi đã cứu hai vị.
– Vậy hắn không điên ư?
– Điên? Hắn ư? Không điên hơn tôi và anh đâu.
– Nhưng mà…
– Nhưng mà anh muốn nói rằng chính Siméon đã muốn bảo vệ anh và Coralie, rằng mục đích của lão là làm cho hai người đoàn tụ, rằng lão đã đưa cho anh chiếc chìa khoá khu vườn… chứ gì?
– Ông biết hết những chuyện đó ư?
– Phải biết chứ. Nếu không làm sao tôi cứu được hai người?
– Nhưng, Patrice lo lắng hỏi, nếu tên kẻ cướp ấy lại tiếp tục, chúng tôi có phải phòng ngừa gì không? Chúng ta hãy về căn gác đi, Coralie chỉ có một mình ở đó.
– Không có nguy hiểm nào đâu
– Vì sao vậy?
Patrice càng ngày càng ngạc nhiên hơn, anh hỏi:
– Vậy Siméon có biết ông không? Hắn biết rằng ông ở đây sao?
– Vâng, nhờ vào bức thư tôi viết cho anh do Ya-Bon cất giữ đã bị đánh cắp. Tôi thông báo là tôi sẽ đến và hắn đã vội hành động. Chỉ có điều theo thói quen trong những trường hợp như vậy, tôi đã đến trước vài giờ, do đó đã bắt được quả tang hắn…
– Cho đến lúc đó ông vẫn chưa biết hắn là kẻ thù?… Ông không biết gì cả…?
– Không một chút gì.
– Đó là vào buổi sáng?
– Không, buổi chiều, lúc một giờ bốn lăm phút.
Patrice rút đồng hồ ra.
– Và bây giờ là bốn giờ. Vậy là chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ.
– Chưa đến đâu, tôi mới ở đây được một tiếng.
– Ông đã hỏi Ya-Bon?
– Anh tin là tôi để mất thời gian như thế sao? Ya-Bon chỉ nói cho tôi là hai người không ở đó, điều này làm tôi ngạc nhiên. Tôi bắt đầu tìm xem hai người ở đâu.
– Bằng cách nào?
– Trước tiên tôi lục phòng anh. Trong khi lục soát tôi đã phát hiện ra một vết nứt ở góc phòng làm việc và vết nứt này nối với một vết nứt khác trên bức tường nhà bên cạnh. Rồi tôi còn thấy cuốn nhật ký của anh và biết được những gì đã xảy ra. Mặt khác, chính nhờ cuốn sổ này mà Siméon đã biết được mọi ý định dù là nhỏ nhất của anh. Hắn biết anh dự định đến thăm mộ vào ngày mười bốn tháng tư. Đêm cuối cùng khi anh viết nhật ký, hắn đã rình ngoài cửa sổ vì muốn xem anh viết gì, trước khi tấn công hai người. Rồi chính anh lại tiết lộ rằng anh đang chuẩn bị tự vệ, hắn trở nên thận trọng hơn. Anh thấy đó, mọi chuyện đều dễ dàng. Ông Desmalions, lo lắng vì sự vắng mặt lâu ngày của hai người đã quyết định hành động… nhưng vào ngày mai cơ…
– Thế nghĩa là đã quá muộn. Patrice nói.
– Đúng vậy, quá muộn. Đó không phải việc của ông ấy cũng không phải việc của cảnh sát. Dù sao tôi cũng thích cảnh sát không chen vào. Tôi đã yêu cầu những người thương binh, bạn của anh không nói gì về những điều họ còn nghi ngờ. Như vậy nếu ông Desmalions đến đây vào ngày mai, ông ấy sẽ tin là mọi chuyện đều bình thường. Đã yên tâm về chuyện đó, tôi và Ya-Bon đã vượt qua cái ngách nhỏ và đột nhập vào khu vườn.
– Cửa vườn vẫn mở chứ?
– Không nhưng đúng lúc đó, Siméon ra khỏi khu vườn. Thật không may cho hắn, phải vậy không? Và tôi đã liều lợi dụng cơ hội đó. Tôi chặn tay lên then cài cửa và chúng tôi bước vào mà hắn không dám phản đối. Chắc chắn hắn đã biết tôi là ai.
– Nhưng ông không biết đó là kẻ thù của chúng tôi cơ mà?
– Sao tôi lại không biết, tôi đã đọc cuốn nhật ký của anh mà.
– Tôi không nghĩ rằng…
– Nhưng đại uý, mỗi trang là một lời tố cáo chống lại hắn. Không có một bất trắc nào hắn không dính vào, không có một tội ác nào hắn không chuẩn bị…
– Nếu như vậy, phải túm được hắn.
– Rồi sao? Điều đó đem lại cho tôi cái gì? Tôi có buộc phải nói ra không? Không, để hắn tự do, tôi dễ kiểm soát hắn hơn. Vì không bị tóm, hắn đã lẩn trốn mất. Giờ anh thấy đấy, hắn lại quay về, lượn lờ quanh nhà. Lúc đó, tôi cần phải cứu hai người trước, còn nếu có đủ thời gian tôi mới nghĩ đến chuyện sẽ túm hắn sau. Ya-Bon và tôi đã phi như bay đến cửa toà gác, cửa mở nhưng cửa vào cầu thang bị khoá. Tôi rút hai ổ khoá ra và dễ dàng mở được cửa. Rồi chỉ cần nhìn thấy có hơi ga là tôi đã hiểu. Siméon hẳn đã nối một công tơ với đường dây dẫn ra ngoài, có thể là đường dẫn ga cho đèn đường, và dùng hơi ga đó làm cho hai người nghẹt thở. Chúng tôi chỉ việc đưa hai người ra và làm một số động tác sơ cứu thông thường như xoa bóp, kéo chân tay… Các vị đã được cứu sống.
– Chắc lão ta đã đem đi những dụng cụ giết người?
– Không. Dĩ nhiên là hắn sẽ quay lại và sắp xếp mọi thứ sao cho việc làm của hắn không bị phát hiện và người ta sẽ tin rằng các vị đã tự tử, một vụ tự tử đầy bí hiểm, không có lý do rõ ràng. Tóm lại, một thảm kịch giống như bố mẹ hai người đã phải chịu đựng xưa kia.
– Ông biết cả điều đó nữa ư?
– Chẳng lẽ tôi không có mắt để đọc? Những hàng chữ trên tường, những tiết lộ của bố anh? Tôi cũng biết rõ như anh vậy và thậm chí còn hơn nữa.
– Hơn nữa sao?
– Lạy Chúa tôi, nhờ thói quen nghề nghiệp ấy mà… và nhờ cả kinh nghiệm nữa. Có nhiều vấn đề khó khăn tưởng như không thể giải quyết được với những người khác song đối với tôi lại là đơn giản nhất. Do vậy…
– Do vậy sao…?
Don Luis do dự một chút, rồi cuối cùng trả lời.
– Không, không… tốt hơn là tôi không nên nói… Bóng tối sẽ dần tan đi. Chúng ta hãy chờ đợi, vào lúc này thì…
Patrice dỏng tai lên nghe.
– Hắn đã nhìn thấy anh, bây giờ khi hắn đã biết được, hắn đi rồi.
Patrice thảng thốt:
– Hắn đi rồi ư? Ông trông thấy à? Lẽ ra ta nên túm lấy hắn. Liệu chúng ta có còn gặp lại hắn không? Chúng tôi có thể trả thù không?
Don Luis cười:
– Anh đối xử với người đàn ông tội nghiệp đã trông coi anh từ hai mươi năm nay và đưa anh đến với Coralie như vậy đấy! Ân nhân của anh đấy!
– Ôi! Giá mà trước đó tôi biết được! Mọi chuyện thật rắc rối và mập mờ! Tôi chỉ có thể căm thù hắn… Tôi tiếc là đã để hắn chạy trốn… tôi muốn hành hạ hắn nhưng mà…
Anh có vẻ thất vọng và đưa tay lên ôm đầu. Don Luis an ủi:
– Đừng sợ gì cả. Chưa bao giờ hắn ở gần sự thất bại như thế này đâu. Giờ tôi nắm được lão như nắm một chiếc lá trong tay.
– Nhưng bằng cách nào?
– Người lái xe cho hắn lúc này là người của tôi.
– Ông nói gì vậy?
– Tôi nói rằng tôi đã đưa người của tôi vào một chiếc taxi, chiếc taxi đó theo lệnh của tôi đã lượn vòng quanh con phố. Siméon chắc chắn đã lên chiếc taxi đó.
– Nghĩa là ông chỉ mới giả định?
– Tôi đã nhận ra tiếng xe ở cuối vườn khi tôi báo cho anh.
– Và ông tin chắc rằng đó là người của ông?
– Chắc chắn.
– Quan trọng đấy! Siméon có thể đòi đi ra xa và hại người của ông… vậy liệu khi đó chúng ta có được thông báo trước?
– Anh tưởng rằng người ta có thể đi xa khỏi Paris mà không cần xin giấy phép đặc biệt ư? Không! Nếu rời Paris, Siméon trước hết phải đến một ga nào đó, và hai mươi phút sau chúng ta sẽ biết. Chúng ta sẽ phi đến đó ngay lập tức..
– Bằng phương tiện gì?
– Bằng ô tô.
– Ông có giấy phép đặc biệt chứ?
– Có, với giá trị trên toàn nước Pháp.
– Đúng thế ư?
– Đúng! Và một giấy phép lái xe gấp nữa, đề tên don Luis Perenna, được đăng ký bởi ngài Bộ trưởng Bộ Nội vụ và đồng ký tên….
– Và đồng ký tên…?
– Bởi Tổng thống nước Cộng hoà Pháp.
Patrice càng ngày càng ngạc nhiên và xúc động. Trong cuộc phiêu lưu kinh khủng này, anh đã phải chịu đựng một kẻ thù quỷ quyệt, anh chỉ gặp toàn thất bại và luôn bị cái chết đe dọa. Thì đến lúc này, anh đột nhiên được biết rằng một sức mạnh lớn đang đứng về phía anh và bỗng nhiên mọi thứ đều biến đổi. Số phận như theo một hướng khác, giống như một con tàu được một cơn gió lành từ nơi đâu đến đẩy về bến.
– Đại uý, Don Luis nói, thực sự người ta sẽ tưởng rằng anh sắp khóc đấy, giống như một người phụ nữ như Coralie vậy. Thần kinh của anh quá căng thẳng… Có thể do đói nữa… Anh phải ăn chút gì thôi. Chúng ta đi nào!
Ông đỡ Patrice đi về phía toà gác, từng bước chậm rãi, giọng nói ông lúc này có vẻ hơi nghiêm trọng:
– Đại uý, về những chuyện chúng ta vừa nói, tôi yêu cầu anh im lặng. Trừ một vài người bạn cũ và Ya-Bon, người mà tôi đã gặp ở Châu Phi, người đã cứu sống tôi ở Pháp, không một ai biết tên thật của tôi. Tôi có tên là Don Luis Perenna. Ở Maroc, nơi tôi từng chiến đấu, tôi có cơ hội giúp đỡ vị vua đáng mến của một quốc gia láng giềng của Pháp, một quốc gia trung lập. Mặc dù phải che giấu tình cảm thật của mình, ông ấy vẫn mong chờ mãnh liệt vào chiến thắng của chúng ta. Và tôi đã yêu cầu ông ấy cấp cho tôi một giấy thông hành. Ở đây, tôi chính thức có một nhiệm vụ đặc biệt. Trong hai ngày nữa, tôi sẽ quay trở lại nơi mà từ đó tôi đã đến đây, nơi mà trong chiến tranh tôi phụng sự nước Pháp theo cách của tôi… Đó không phải là một việc xấu, hãy tin như thế rồi chúng ta sẽ thấy điều đó trong nay mai…
Cả hai người đã đến gần nơi Coralie đang ngủ. Don Luis ngăn Patrice lại.
– Có một điều nữa, đại uý. Tôi đã thề và đã hứa danh dự với người đã đặt lòng tin ở tôi rằng trong suốt nhiệm vụ, tôi sẽ giành thời gian cho việc bảo vệ lợi ích của dân tộc mình trong chừng mực mà tôi có thể. Vậy tôi phải báo trước với anh rằng mặc dù tôi rất có cảm tình với anh, tôi cũng sẽ không hoãn chuyến đi của mình một phút nào kể từ khi tôi tìm ra những túi vàng. Tôi chỉ đáp lại lời kêu gọi của anh bạn Ya-Bon vì lý do duy nhất đó. Khi những túi vàng đã ở trong tay tôi, muộn nhất là tới ngày kia tôi sẽ ra đi. Mặt khác hai việc này có liên quan đến nhau. Lời giải thích cho việc này sẽ là kết luận của việc kia. Bây giờ, giải thích thế là đủ rồi, anh hãy giới thiệu tôi với Coralie, chúng ta cùng làm việc thôi.
Ông cười và nói tiếp:
– Không cần phải bí mật với Coralie đâu, đại uý ạ. Hãy cứ giới thiệu tên thật của tôi. Tôi chẳng có gì phải sợ cả: Arsène Lupin luôn được sự ủng hộ của phụ nữ mà.
Bốn mươi phút sau, Coralie đã ở trong phòng mình, được chăm sóc và bảo vệ cẩn thận. Patrice đã ăn xong còn Don Luis thì đi dạo và hút xì gà.
– Thế nào, đại uý? Chúng ta bắt đầu chứ?
Rồi ông nhìn đồng hồ,và nói:
– Năm giờ ba mươi phút, chúng ta còn hơn một giờ nữa, thế là đủ.
– Đủ ư?… ông không có ý nói là chúng ta sẽ đạt mục đích chỉ trong một giờ đấy chứ?
– Đến đích cuối cùng thì không, nhưng đạt đến đích mà tôi dự tính thì có… và có thể còn sớm hơn. Một giờ ư? Để làm gì? Chỉ trong vài phút nữa thôi chúng ta sẽ biết được chính xác nơi giấu vàng.
Don Luis nhờ Patrice dẫn ra căn hầm được đào dưới thư viện, nơi Essarès đã cất giấu những túi vàng đến lúc gửi chúng đi.
– Chính là qua cái cửa hầm này mà những túi vàng được ném ra ngoài phải không, đại uý?
– Vâng.
– Không có lối nào khác chứ?
– Không có lối nào khác ngoài lối cầu thang dẫn lên thư viện.
– Nó mở ra ban công à?
-Vâng.
– Vậy thế là đã rõ. Những túi vàng đi vào lối này và đi ra lối kia.
– Nhưng…
– Không có từ “nhưng”, đại uý. Hãy nghĩ xem, làm sao có thể khác được? Anh thấy đó, sự sai lầm là ở chỗ luôn đi tìm mười hai giờ vào lúc mười bốn giờ.
Họ quay lại ban công. Don Luis lại gần cửa hầm và xem xét những đường uốn quanh. Cách cửa sổ thư viện khoảng bốn mét có một bồn nước tròn, ở giữa là tượng một chú bé phun nước. Don Luis tiến lại gần, quan sát, và khi cúi xuống ông chạm vào bức tượng làm nó quay một vòng từ trái qua phải.
Cùng lúc đó, đế tròn chân tượng quay một phần tư vòng tròn.
– Chúng ta đến đích rồi, ông nói và đứng dậy.
– Sao cơ?
– Bồn nước này sẽ cạn ngay.
Quả thực nước rút rất nhanh và đáy bồn lộ ra. Don Luis trèo vào và ngồi xuống. Vòm bên trong được phủ đá hoa với những hình vẽ trắng và đỏ mà người ta gọi là “hoa văn Hy Lạp”. Giữa một trong số những hình vẽ ở đó, có một vòng nhỏ, don Luis nắm lấy và kéo ra. Ông khẳng định:
– Những túi vàng đi ra từ đây. Đến bước thứ hai bọn chúng gửi vàng đi cũng bằng cách này, nhờ vào một cái móc trượt trên một dây cáp bằng sắt. Đây này, ở trên có một dây cáp.
– Quỷ quái thật, đại uý Belval kêu lên. Nhưng ta làm sao có thể đi theo cái dây cáp này được?
– Ồ không, một điều chỉ cần biết nó dẫn đến đâu là đủ. Đại uý, hãy đi theo con đường dọc ngôi nhà về phía khu vườn. Đó, hãy cắt cành cây cao kia… à, tôi quên mất, tôi phải đi ra qua con đường nhỏ. Anh có chìa khoá đấy không? Có à? Đưa nó cho tôi!
Patrice đưa chiếc chìa khoá, rồi xích lại gần bức tường bao quanh nhà nằm sát lề đường.
– Sang phải một chút… thêm một chút nữa. Tốt rồi! Bây giờ hãy chờ ở đó.
Rồi ông ta đi ra vườn qua một cái ngách, ra đến hè đường phía bên kia bức tường, và gọi với vào:
– Anh vẫn ở đó chứ, đại uý?
– Vâng.
– Giờ hãy cắm cành cây vừa hái sao cho tôi có thể nhìn thấy… Tuyệt rồi!
Patrice thấy don Louis đang đi qua hè phố.
Suốt dọc bờ sông Seine, nơi diễn ra việc buôn bán bằng đường thuỷ, có những con tàu nhỏ thả neo san sát bên nhau, trả hàng rồi lại bốc hàng đi tấp nập. Ở chỗ hè đường mà Patrice và don Luis bước xuống có một loạt các công xưởng, họ bước vào một trong những công xưởng đó. Chỗ này hẳn đã bị bỏ hoang từ sau chiến tranh, giữa đống gạch đá và đống phế thải ngổn ngang có một cái lều bằng kính đã vỡ và một mảnh của một cái máy hơi nước. Bên trên có treo một tấm biển: “Công trường xây dựng Berthou”.
Don Luis đi dọc bức tường trụ, phía trên là một bãi đất cao.
Bãi đất này một nửa là cát, có cả những mảnh lưới bằng sắt bị vùi trong cát. Don Luis nhặt mảnh lưới lên và nói vẻ hài hước:
– Anh đã từng nói rằng trong cuộc phiêu lưu này không có điều gì là không có cơ may khám phá ra đúng không?… Vậy chúng ta hãy hi vọng lần này cũng vậy.
Giả định khá chắc chắn đó dù sao cũng không làm don Luis ngạc nhiên, họ đi sâu vào trong một xưởng chế tạo công cụ.
– Cho đến lúc này, don Luis nói, chẳng có gì bất bình thường cả.
Ông thắp sáng một bóng đèn điện lên rồi nói tiếp:
– Những cái xô… những cái xẻng… những cái xe cút kít… một cái thang… A! Ha! Đây đúng là cái mà ta đang nghĩ đến… những đường ray… ồ, cả một hệ thống đường ray… Giúp tôi với nào, đại uý, dọn sạch chỗ này đi… Tuyệt rồi… Chúng ta đến đích rồi…
Nằm ngang với sàn và đối diện với tấm lưới, có một lỗ hình chữ nhật giống y hệt như cái lỗ ở chỗ bồn nước. Bên trên có một cáp sắt cùng một số móc treo trên dây. Don Luis giải thích:
– Vậy đây là nơi những túi vàng sẽ đến, sau đó chúng sẽ được đưa vào những xe cút kít ở đây, theo hệ thống đường ray sắt đến một con tàu rồi chuồn mất.
– Lẹ đến nỗi mà…
– Đến nỗi mà một lượng vàng lớn của nước Pháp đã chạy từ đây ra nước ngoài, mà tôi cũng không biết là đi đâu…
– Và ông tin rằng mười tám túi vàng cũng đã bị chuyển đi theo cách đó?
– Tôi sợ rằng có thể như thế.
– Có nghĩa là chúng ta đã đến trễ à?
Cả hai người đàn ông đều im lặng. Don Luis suy nghĩ, còn Patrice dù hơi thất vọng vì kết quả đó vẫn phải cảm phục người đồng hành tài tình chỉ trong một thời gian ngắn ngủi mà đã khám phá ra một phần quan trọng của vấn đề. Anh thì thầm:
– Thật là một phép lạ! Làm sao ông có thể tìm ra điều đó?
Không nói không rằng, don Luis lấy từ trong túi ra cuốn “Hồi ký của Benjamin Franklin”, cuốn sách mà Patrice đã nhìn thấy lúc mới gặp don Luis, và chỉ một vài dòng ra hiệu cho Patrice đọc. Những dòng chữ đó được viết vào những năm cuối thời trị vì của vua Louis XVI:
“Mỗi ngày chúng ta đến làng De Passy liền kề chỗ tôi ở, người ta lấy nước trong một khu vườn tuyệt đẹp. Vì biết tôi quan tâm đến máy móc, người ta đã chỉ cho tôi bồn nước trong vườn, nơi mà nước từ mọi ngả tập trung về. Chỉ cần quay tượng cậu bé nhỏ một phần tư vòng về bên trái là nước sẽ đổ thẳng ra sông Seine qua một đường dẫn.”
Patrice gập cuốn sách lại, don Luis giải thích:
– Mọi thứ giờ đã thay đổi nhiều sau việc làm của Essarès. Nước đã bị đổi dòng và đường dẫn nước giờ trở thành đường dẫn vàng. Hơn nữa, diện tích nước đã bị thu hẹp lại. Anh thấy đấy theo cuốn sách này thì mọi thứ thật dễ dàng phải không?
– Đúng, nhưng vấn đề là phải tìm đúng cuốn này.
– Tôi vô tình thấy nó trong phòng của Siméon và đút vào túi, rồi tự dưng lại tò mò muốn biết hắn đọc gì trong đó nên tôi đã đọc thử.
Patrice kêu lên:
– À! Vậy ra hắn cũng tìm ra bí mật của Essarès nhờ cuốn sách này? Hắn cũng vô tình tìm thấy nó lẫn trong đống tài liệu của ông chủ và cũng vô tình giở ra đọc. Ông nghĩ thế nào? Không đúng ư? Cứ cho là ông có ý khác đi. Ý gì thế?
Don Luis không trả lời, ông chăm chú nhìn dòng sông. Bờ sông trải dài và cách khá xa công xưởng, có một con tàu nhổ neo, dường như chẳng có ai cả. Nhưng có một làn khói mỏng bay lên từ một ống khói chỗ cây cầu.
– Hãy ra đó thử xem, ông nói.
Con tàu mang tên đăng ký: La Non-chalantew (Người không hiếu khách). Họ phải nhanh chóng vượt qua đống dây thừng của tàu thuyền và những cái thùng rỗng ngổn ngang trên cầu. Có một cái thang dẫn đến một cabin được dùng làm phòng ngủ và phòng bếp. Có một người đàn ông trẻ ở đó, anh ta có ngực rộng, tóc đen và quăn, khuôn mặt nhẵn nhụi. Anh ta mặc một cái áo blouse dài và quần của một bộ quân phục, cáu bẩn và vá chằng vá đụp. Don Luis chìa ra một tờ hai mươi Frăng và anh chàng hào hứng cầm lấy.
– Anh bạn, xin cho một lời khuyên. Những ngày gần đây, anh có thấy một con tàu nào đậu ở trước công xưởng Berthou không?
– Có, có một con tàu chạy bằng động cơ vừa nhổ neo ngày hôm qua.
– Nó tên là gì?
– La Belle-Hélène (Người đẹp Hélène). Trên tàu có hai người đàn ông và một người phụ nữ, họ là người nước ngoài, họ nói… tôi cũng chẳng biết là tiếng gì… tiếng Anh hay tiếng Tây Ban Nha… hoặc là… mà tôi chẳng biết đâu…
– Thế công xưởng Berthou không hoạt động nữa à?
– Không, người chủ đã chuyển đi, tôi thấy người ta nói thế. Và thế là tranh chấp nổ ra… mọi người đều đổ xô vào, tôi cũng vậy. Tôi đang chờ một giấy gọi…
– Thế nếu nó không hoạt động nữa thì con tàu kia làm gì ở đó?
– Tôi không biết. Nhưng người ta làm việc suốt một đêm rồi. Người ta đã mở đường ray, tôi nghe thấy tiếng xe cút kít, chắc họ chở hàng… mà hàng gì thì tôi không biết. Rồi đến sáng sớm họ khởi hành.
– Họ đi đâu?
– Tới mạn Mantes
– Cảm ơn anh, đó là những gì tôi muốn biết.
Mười phút sau, trên đường về khách sạn Essarès, don Luis và Patrice gặp người lái xe cho Siméon lúc nãy. Đúng theo dự đoán của don Luis, Siméon đã yêu cầu chở đến nhà ga, ga Saint- Lazare, và mua một vé tàu.
“Đi đâu?” Ông tức tốc hỏi người lái xe.
Anh ta trả lời: “Đi Mantes”