Tiền sảnh lớn nhìn ra phố Raynouard nằm ở phần cao nhất của ngôi nhà, với một cầu thang rộng ở giữa, chia ngôi nhà thành hai phần thông nhau duy nhất ở đó.
Phía bên trái có phòng khách và thư viện tiếp nữa là khu nhỏ biệt lập. Phía bên phải có phòng bi-a và phòng ăn, những phòng này có trần thấp và phía trên là phòng ngủ của vợ chồng Essarès, phòng của Essarès nhìn ra phố còn phòng của Coralie nhìn ra vườn. Trên tầng là khu vực dành cho người làm, ông Siméon cũng ngủ ở đó.
Patrice và anh chàng người Sênêgan được đưa vào đợi ở phòng bi-a; khoảng mười lăm phút sau, Siméon và cả người hầu phòng cũng được đưa vào.
Người thư ký già có vẻ ủ rũ sau cái chết của ông chủ, ông ta nói lảm nhảm một mình, vẻ mặt rất lạ kỳ. Khi Patrice hỏi chuyện, ông ta thì thầm:
– Chưa hết đâu… cần phải đề phòng mọi thứ… Mọi thứ!… Thậm chí có thể là ngày hôm nay, sẽ sớm thôi…
– Sớm ư? Patrice hỏi.
– Đúng… đúng… ông già run rẩy nói.
Rồi sau đó ông ta không nói thêm gì nữa.
Còn về người hầu phòng khi được Patrice hỏi thì kể:
– Thưa ông, hồi sáng điều kỳ lạ là: trong nhà chẳng có ông chủ, chẳng có người đầy tớ cũng chắng có người gác cổng, cả ba đều ra ngoài. Rồi đến lúc sáu giờ rưỡi, ông Siméon đến dặn chúng tôi rằng ông chủ muốn ở trong thư viện một mình, không còn phải dọn dẹp gì cả, thậm chí cũng không cần mang cho ông ấy bữa trưa. Bà chủ thì hơi mệt. Chúng tôi đã mang cho bà chôcôla vào lúc chín giờ… Lúc mười giờ, bà ra ngoài cùng ông Siméon. Thế là dọn dẹp xong các phòng, chúng tôi cũng chẳng phải nấu bếp… Và rồi khi chuông đồng hồ điểm một giờ, chúng tôi nghe có tiếng xe dưới cổng. Qua cửa sổ, tôi thấy có một chiếc ô tô cùng bốn quý ông. Tôi lập tức xuống mở cửa. Một người tự giới thiệu là cảnh sát và muốn gặp ông chủ. Tôi dẫn họ đến thư viện. Chúng tôi đã gõ cửa nhưng không có ai trả lời. Cuối cùng, một người trong số họ đã phá khoá… Và thế là… trước mắt là cảnh tượng như ông đã thấy… thật kinh khủng, bởi ông chủ lúc đó gần như chui đầu hoàn toàn dưới thanh chắn lò. Ôi! Liệu có cần phải có người khốn khổ như thế trên đời này chăng?… Người ta đã giết ông chủ phải không? Có một ông đã nói ngay rằng ông chủ chết vì bị nhồi máu, và ngã ngửa ra đằng sau. Nhưng theo riêng tôi…
Ông già Siméon đã nghe thấy mà không nói gì, chòm râu che kín, mắt ẩn sau cặp kính vàng. Câu chuyện kết thúc, ông ta liền lại gần Patrice cười lớn và nói thầm:
– Cần phải đề phòng mọi thứ!… mọi thứ!… Bà Coralie… bà cần phải đi ngay… ngay lập tức… Nếu không, bất hạnh sẽ ập đến…
Đại uý rùng mình và muốn hỏi kỹ lại, nhưng chưa kịp thì một viên cảnh sát đến tìm ông già Siméon và dẫn đến phòng thư viện.
Người ta chất vấn ông ta khá lâu, rồi đến người đầu bếp và người hầu phòng.
Lúc bốn giờ, một chiếc ô tô nữa đến. Patrice nhìn thấy hai ông bước vào tiền sảnh, mọi người cúi thấp người chào họ. Đó là ngài Bộ trưởng Bộ Công pháp và ngài Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Tất cả họ cùng họp bàn trong thư viện suốt nửa giờ và lại ra đi.
Cuối cùng vào lúc năm giờ, một viên cảnh sát đến tìm Patrice và dẫn anh lên tầng hai. Viên cảnh sát gõ cửa rồi họ bước vào một căn phòng nhỏ hẹp được chiếu sáng bởi ngọn lửa một lò sưởi, ở đó có hai người: Coralie và người đã nói chuyện với anh lúc anh đến, có vẻ như ông này là người chỉ huy mọi việc điều tra ở đây.
Đó là một quý ông khoảng ngũ tuần, dáng người bệ vệ, hơi nặng nề nhưng đôi mắt ánh lên vẻ thông minh, nhanh nhẹn.
– Ngài thẩm phán điều tra phải không? – Patrice hỏi.
– Không, tôi là Desmalions, cựu thẩm phán, đại diện đặc biệt đến làm sáng tỏ vụ việc này, nhưng không phải để điều tra như anh vừa nói đâu, bởi tôi chẳng thấy có gì phải điều tra cả.
– Sao cơ – Patrice ngạc nhiên kêu lên – không có gì để điều tra ư?
Anh đưa mắt nhìn Coralie. Nàng cũng nhìn anh chăm chú. Rồi nàng quay đầu về phía ông thẩm phán, ông này nhắc lại:
– Tôi và bà đây… chúng tôi đã phân tích cặn kẽ và thống nhất mọi điểm.
– Tôi không nghi ngờ điều đó chỉ có điều tôi e rằng vẫn còn nhiều điều mập mờ.
– Dĩ nhiên, nhưng chúng ta sẽ tìm ra sự thật. Anh muốn nói cho tôi những gì anh biết chăng?
Patrice suy nghĩ rồi nói:
– Tôi thú thật rằng tôi rất ngạc nhiên. Chuyện tôi sắp kể đây không phải là không quan trọng, tuy nhiên chẳng có ai ở đây để làm chứng cả. Như thế nó sẽ không có giá trị như là một lời khai báo phải không?
– Đại uý, chính anh mới là người đánh giá được giá trị của những lời anh sắp nói và cả hậu quả kéo theo nữa. Trong lúc này, quan trọng là một cuộc trao đổi thẳng thắn và một cái nhìn lôgic về những sự việc… mà bà Essarès đã cung cấp cho tôi đầy đủ,và tôi chắc rằng bao gồm cả những gì anh sắp nói cho tôi.
Patrice chưa trả lời. Anh có cảm giác rằng giữa hai người kia có một sự thoả thuận nào đó, còn anh, với sự hăng hái thái quá, chỉ có vai trò như là một tên vô tích sự mà người ta muốn tống khứ đi. Anh quyết định im lặng dò xét cho đến khi hiểu rõ ý đồ của ông thẩm phán, người đang đối thoại với anh.
– Quả thật, anh nói, bà đây hẳn đã có thể cung cấp cho ông mọi điều. Vậy thì ông có biết về cuộc nói chuyện mà tình cờ tôi nghe được ở quán ăn không?
– Có.
– Và cả ý định bắt cóc bà Essarès nữa chứ?
– Phải.
– Và cả vụ ám sát nữa?
– Phải.
– Bà Essarès hẳn cũng đã kể ông nghe vụ tra tấn tại đây vào đúng đêm bà bị bắt cóc, những lời van nài, cái chết của tên đại tá, việc trao đổi bốn triệu, rồi cuộc nói chuyện giữa ông Essarès với một người tên là Grégoire, và cuối cùng là cả những lời ông ấy đe dọa vợ mình nữa chứ?
– Rồi, đại uý, tôi đã biết tất cả những điều đó, tất cả những gì anh biết, và tôi còn biết thêm những gì do tôi tự điều tra được.
– Đúng vậy, đúng vậy… Patrice nhắc lại, tôi thấy rằng câu chuyện của tôi thật là vô ích, và rằng ông đã có đủ chi tiết để đi đến kết luận. Và rồi anh hỏi thêm, một câu vô nghĩa, hỏi cho có mà thôi:
– Tôi có thể hỏi ông rằng vậy thì ông đã đi đến kết luận gì?
– Ồ, đại uý, tôi vẫn chưa có kết luận dứt khoát. Chỉ có điều tôi có một vật làm chứng đó là bức thư của ông Essarès viết cho vợ vào buổi trưa hôm nay, chúng tôi đã tìm thấy nó trong thư phòng, vẫn còn dở dang. Bà Essarès đã yêu cầu tôi đọc và nếu cần để ông đọc cũng được. Bức thư viết thế này:
“Hôm nay, 4 tháng 4, buổi trưa
“Coralie,
“Hôm qua em đã nhầm khi đã gán cho chuyến đi của tôi những lý do xấu xa, và tôi cũng đã sai khi không giải thích cho em hiểu. Động cơ duy nhất khiến tôi phải ra đi là do những mối hiềm khích xung quanh tôi, mà em cũng đã biết mức độ tàn bạo của chúng. Trước những kẻ thù sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn, tôi không còn con đường nào khác là phải trốn đi. Tôi ra đi nhưng em cần biết rõ mong muốn của tôi, Coralie. Em cần phải đi theo tôi ngay khi nhận được thông báo đầu tiên. Nếu em không đi khỏi Paris, không gì có thể đảm bảo sự an toàn của em ngay cả khi tôi đã chết. Tôi đã tìm mọi cách để nếu có trường hợp xấu nhất đó thì… ”
– Bức thư đang được viết dở ở đó – ông Desmalion trả lại thư cho Coralie và nói – và chúng ta có một bằng chứng không thể chối cãi rằng bức thư bị gián đoạn bởi cái chết của Essarès. Ông ấy đã bị ngã và đập vào chiếc đồng hồ nhỏ treo trên tường làm nó ngừng chạy và lúc đó là mười hai giờ hai ba phút. Tôi giả định rằng ông ấy cảm thấy khó chịu và muốn đứng dậy, nhưng lại bị ngã xuống đất. Thật không may lò sưởi ở ngay gần đấy, ngọn lửa hừng hực chạm vào ông ấy và đầu ông ấy bị đập vào thanh chắn, vết thương nặng đến độ ông ngất xỉu luôn. Và thế là ngọn lửa tiếp tục phần việc còn lại của mình một cách dễ dàng… như anh nhìn thấy đấy…
Patrice ngây người ra khi nghe những lời giải thích bất ngờ đó. Anh thì thầm:
– Vậy theo ông, Essarès đã chết vì một tai nạn ư? Ông ấy không bị sát hại?
– Sát hại! Ôi lạy chúa tôi, chẳng có bất kỳ dấu hiệu nào cho phép đặt ra một giả thiết như thế.
– Nhưng…
– Đại uý, anh đang bị ám ảnh đấy. Hôm qua anh đã phải chứng kiến hàng loạt những điều kinh khủng và dĩ nhiên anh sẽ tưởng tượng ngay đến điều kinh khủng nhất là ông Essarès đã bị sát hại. Chỉ có điều… hãy nghĩ mà xem… Tại sao lại sát hại? Ai có thể làm điều này cơ chứ? Bournef và đồng bọn ư? Vì sao chứ? Bọn họ đã để cho một tên Grégoire nào đó cuỗm mất số vàng thì liệu giết chết Essarès có thể lấy lại được vàng chắc? Hơn nữa nếu có thì chúng vào nhà bằng cách nào? Và sau đó ra bằng cách nào? Ồ không! Đại uý, cho tôi xin lỗi, sự thật là ông Essarès đã chết vì một tai nạn. Mọi việc đã chặt chẽ không thể chối cãi, đó cũng là ý kiến của bác sĩ pháp y.
– Và đó cũng là ý kiến của bà Essarès ư?
Nàng hơi đỏ mặt và đáp:
– Vâng.
– Và cũng là ý kiến của ông Siméon nữa chứ?
– Ôi! Ông già ấy nói lảm nhảm đấy! Ông ta lúc nào cũng chỉ nói rằng bà Essarès luôn bị nguy hiểm rình rập và rằng bà ấy sẽ phải trốn đi ngay lập tức. Đó là tất cả những gì tôi nhận được từ ông ta. Tuy nhiên, ông ta cũng dẫn tôi đến một cái cửa nhỏ chỗ khu vườn qua một ngách nhỏ ngoằn nghèo dẫn ra phố Raynouard, và chỉ cho tôi xác một con chó cùng những dấu chân dẫn vào phòng thư viện. Nhưng những dấu chân đó anh biết rất rõ bởi đó chính là dấu chân của anh và của anh bạn Sênêgan. Còn về con chó bị bóp cổ chết, liệu tôi có thể quy tội cho anh bạn đó được không?
Patrice bắt đầu hiểu. Sự ngập ngừng của ông thẩm phán, những lời giải thích của ông ta, sự thỏa thuận với người phụ nữ kia, tất cả dần cho thấy bộ mặt thật của ông ta.
Anh nói chậm chạp:
– Vậy thế là không có tội ác à?
– Không.
– Tức là cũng chẳng có điều tra nào cả?
– Đúng.
– Có nghĩa là sự việc sẽ đi vào quên lãng?
– Đúng thế!
Đại uý đi đi lại lại trong phòng theo thói quen. Anh nhớ lại lời Essarès đã nói: “Người ta sẽ không bắt ta đâu… Mà nếu có thì người ta sẽ thả ta ra ngay thôi… Vụ việc sẽ được giữ kín… ”
Essarès đã đúng. Công lý câm lặng. Và tại sao công lý lại không thể thấy rằng sự im lặng của Coralie là một sự tòng phạm?
Cái trò này làm Patrice phát cáu. Anh nghi ngờ rằng bằng thoả thuận giữa Coralie và ông Desmalion, ông này đã phỉnh lờ ý kiến của nàng buộc nàng phải hy sinh lợi ích vì những lý do nào đó. Và muốn thế trước hết phải gạt được anh ra khỏi cuộc chơi.
– Ô kìa, Patrice tự nhủ, cái kiểu tỉnh bơ và vẻ giễu cợt của ông ta làm mình phát cáu lên rồi đấy. Có vẻ như mặc kệ những gì mình nói vậy!
Tuy vậy anh vẫn đến ngồi cạnh ông thẩm phán vẻ hoà dịu:
– Xin ông thứ lỗi, thưa ông, tôi có một điều khẩn khoản nho nhỏ có thể đối với ông là hơi thọc mạch. Nhưng cách cư xử của tôi không phải chỉ vì mối thiện cảm cũng như tình cảm đặc biệt tôi dành cho bà Essarès, vào lúc bà phải chịu cô độc hơn bao giờ hết, mà còn bởi những mối ràng buộc kỳ lạ giữa hai chúng tôi. Liệu bà Essarès đã cung cấp cho ông những chi tiết này, mà theo tôi là vô cùng quan trọng, và không thể không kể đến trong chuỗi những việc đang làm chúng ta phải bận tâm?
Ông Desmalion quay nhìn Coralie, nàng gật đầu ra hiệu. Rồi ông trả lời:
– Có, bà Essarès đã cho tôi biết, và ngay cả…
Ông ta vẫn do dự, và một lần nữa lại đưa mắt hỏi ý kiến của người thiếu phụ, nàng đỏ mặt và bối rối.
Tuy vậy, ông Desmalion vẫn chờ câu trả lời của nàng để có thể đi xa hơn. Cuối cùng nàng trả lời, giọng trầm hẳn xuống:
– Đại uý Belval cần phải được biết những gì chúng ta đã tìm được. Sự thật thuộc về cả ông ấy và tôi, và tôi không có quyền giấu giếm cho riêng mình. Ông hãy nói cho ông ấy biết.
Đến lượt ông Desmalion nói:
– Có cần phải nói không? Tôi nghĩ chỉ cần đưa đại uý xem cuốn album là đủ rồi. Đại uý, hãy cầm lấy!
Và ông ta chìa cho Patrice một quyển album rất mỏng, các trang nối với nhau bằng một sợi dây mỏng, bên ngoài bọc bằng một miếng nhựa.
Patrice cầm lấy với vẻ mặt lo âu. Nhưng ngay khi lật giở cuốn album, Patrice bị bất ngờ đến nỗi anh phải buộc miệng thốt lên:
– Thật không thể tin nổi!
Ở trang đầu tiên có ảnh hai đứa trẻ, bên trái là ảnh một cậu bé mặc đồng phục học sinh của Anh, còn bên trái là một cô bé gái bé xíu. Dưới hai bức ảnh có hai hàng chữ: ‘Patrice lúc mười tuổi’ và ‘Coralie lúc ba tháng tuổi’
Quá bất ngờ, Patrice vội vã lật trang kế tiếp. Cũng lại là ảnh của hai người, anh lúc mười lăm tuổi, còn Coralie lúc tám tuổi.
Rồi tiếp nữa là ảnh anh lúc mười chín, hai ba, và hai tám tuổi cùng ảnh Coralie, từ lúc còn là một cô bé đến một thiếu nữ và đến một thiếu phụ.
“Không thể tin nổi! Liệu có thể như thế thật sao? Đây là những bức ảnh của tôi mà tôi không hề biết, rõ ràng có một thợ chụp ảnh nghiệp dư nào đó đã theo suốt cuộc đời chúng tôi. Đây là tôi trong bộ trang phục quân đội… Đây là tôi đang cưỡi ngựa… Vậy ai đã ra lệnh chụp những tấm ảnh này? Và ai đã ghép chúng với ảnh của bà, thưa bà Essarès?”
Anh nhìn chăm chăm vào mắt người thiếu phụ, nàng tránh cái nhìn của anh và cúi xuống, dường như mối ràng buộc lạ kỳ giữa họ cũng làm nàng ngạc nhiên không kém.
Anh nhắc lại:
– Ai có thể ghép chúng với nhau? Bà biết điều đó không? Và cuốn album này từ đâu ra?
Ông Desmalion trả lời:
– Chính ông bác sĩ pháp y đã tìm thấy nó ở túi áo may ô trong của ông Essarès.
Lần này Patrice lại quay sang nhìn Corane thảng thốt. Chính Essarès đã thu thập ảnh của họ từ hai nhăm năm nay, gìn giữ bên mình, chính ông ta đã sống cùng những bức ảnh và đến chết cũng mang theo, ý nghĩ đó làm anh choáng váng, đến độ anh không đủ minh mẫn để thắc mắc và kiểm chứng lại điều kỳ lạ ấy.
– Ông có chắc những gì ông vừa nói không, ông thẩm phán? – Patrice hỏi.
– Tôi chắc chắn đấy, ông Desmalion trả lời, tôi đã tận mắt theo dõi cuộc khám nghiệm. Ngoài ra tôi còn có một vật khác khẳng định cho điều này. Đó là một chiếc huy chương, khắc trong một viên thạch anh tím và bao quanh bởi một sợi dây bằng vàng.
– Ông nói sao? Ông nói sao? – Patrice kêu lên. – Một chiếc huy chương à? Một chiếc huy chương khắc trong viên thạch anh tím ư?
– Anh hãy nhìn đây này. Ông Desmalion đưa cho Patrice sau khi đã đưa mắt hỏi ý kiến của mẹ Coralie. Viên thạch anh màu tím, to hơn viên ghép bằng hai nửa của Patrice và Coralie bao quanh bởi một sợi dây bằng vàng cho thấy chắc chắn có cùng một người thợ và được làm theo cùng một kỹ thuật chế tác.
Cái gọng đồng thời là cái khoá bấm.
Patrice hỏi: “Tôi có nên mở ra không?” Coralie nhìn anh với ánh mắt khẩn khoản. Anh mở ra. Bên trong có dán hai tấm ảnh nhỏ ở hai mặt, một bên là ảnh Coralie trong trang phục y tá, một bên là ảnh Patrice trong quân phục của sĩ quan, lúc anh đã bị cụt chân.
Patrice suy nghĩ rất lâu, mặt anh tái nhợt. Rồi anh hỏi:
– Thế còn tấm huy chương này, nó ở đâu ra? Chính ông đã tìm thấy nó ư, ông thẩm phán?
– Đúng, đại uý.
– Thế ở đâu?
Ông thẩm phán dường như hơi đắn đo. Qua thái độ ngỡ ngàng của Coralie lúc này, Patrice có cảm tưởng rằng nàng không hề biết đến chi tiết này. Ông Desmalion trả lời:
– Tôi đã tìm thấy nó trong tay của người chết.
– Trong tay của người đã chết ư? Trong tay của ông Essarès ư?
Patrice gần như nhảy dựng lên, anh ngả người về phía ông thẩm phán như muốn nghe lại câu trả lời thì mới có thể chắc chắn rằng đã không nghe lầm những gì ông ta vừa nói.
– Đúng vậy, trong tay của người đã chết. Tôi đã phải căng các ngón tay khô quắp để gỡ được nó ra.
Đại uý đứng lên, đập mạnh tay xuống bàn và kêu lên:
– Thế thì tôi sẽ nói cho ông biết một điều cuối cùng mà tôi định giữ kín, để chứng minh cho ông thấy rằng sự cộng tác của tôi không phải là vô ích, và tliậin chí còn rất quan trọng sau những gì chúng ta vừa nói. Buổi sáng nay có một người nào đó đã gọi điện cho tôi, chúng tôi vừa mới kịp nói vài lời thì hình như người đó bị đuổi bắt và giết chết, tôi có nghe thấy tiếng ầm ĩ qua điện thoại. Và trong đám âm thanh hỗn độn ấy, tôi có thoáng nghe được mấy từ của con người bất hạnh đó: “Patrice… Coralie… Viên thạch anh tím… vâng, tôi đang có nó trong tay… tấm huy chương… A! muộn mất rồi… tôi đã rất muốn… Patrice… Coralie…”
– Đó là những gì tôi đã nghe được, và đó là hai việc liên quan chặt chẽ đến nhau, đến hai chúng tôi. Sáng nay, có một người đã bị sát hại, mang trên mình viên thạch anh tím. Đó là sự việc đầu tiên không thể chối cãi.Vài giờ sau, vào mười hai giờ hai ba phút buổi trưa, người ta lại tìm thấy trong tay một người khác viên thạch anh này. Sự việc thứ hai cũng không thể chối cãi. Hãy xét hai sự việc này cùng nhau. Và ông sẽ buộc phải kết luận rằng vụ án thứ nhất đã xảy ra ở chính trong toà nhà này, trong chính phòng thư viện này, nơi mà tất cả thảm kịch đều diễn ra suốt từ tối hôm qua.
Điều Patrice mới tiết lộ, một bằng chứng chống lại Essarès, dường như có tác động lớn đến ông thẩm phán. Còn Coralie thì ngồi khuất phía sau, Patrice không nhìn thấy nàng nhưng anh chắc rằng nàng cũng đang bối rối.
Ông Desmalion nhận xét:
– Hai việc đúng là không thể chối cãi được, phải không đại uý? Về sự việc thứ nhất, tôi xin nhắc anh rõ là chúng ta đã không tìm thấy người mà anh theo như nói, đã chết vào bảy giờ mười chín phút sáng nay.
– Chúng ta sẽ tìm thấy.
– Cứ cho là như thế. Điểm thứ hai là: về việc liên quan đến tấm huy chương khắc trong viên thạch anh tím tìm được trong tay Essarès, ai dám chắc rằng Esparès đã có viên thạch anh từ tay người bị sát hại sáng nay mà không phải từ một nơi nào khác? Bởi vì chúng ta thậm chí còn không biết liệu ông ta có ở nhà vào lúc đó không chứ chưa nói đến chuyện ông ta có ở trong thư viện.
– Tôi biết.
– Bằng cách nào?
– Tôi đã gọi điện cho ông ấy vài phút sau khi người thứ nhất bị giết chết, và ông ấy đã trả lời tôi. Hơn nữa ông ta còn nói rằng ông ta đã gọi điện đến nhà tôi nhưng đã bị cúp máy.
Ông Desmalion suy nghĩ một lát rồi hỏi:
– Thế sáng nay ông ấy có ra khỏi nhà không?
– Điều đó bà Essarès sẽ nói cho chúng ta rõ.
Coralie nói mà không quay đầu lại vì sợ phải vào nhìn mắt Patrice:
– Tôi không nghĩ rằng ông ấy có đi ra ngoài sáng nay. Bộ quần áo ông ấy mặc lúc chết là bộ đồ ở trong nhà mà.
– Từ tối qua bà có nhìn thấy ông ấy không?
– Sáng nay ông ấy đã gõ cửa phòng tôi ba lần, từ bảy giờ đến chín giờ. Song tôi đã không mở cửa cho ông ấy. Lúc mười một giờ, tôi đi ra ngoài một mình, tôi nghe thấy tiếng ông ấy ra lệnh cho Siméon đưa tôi đi. Ngay lập tức Siméon đã theo kịp tôi ở phố. Đó là tất cả những gì tôi biết.
Tất cả mọi người đều im lặng, mỗi người suy tư theo cách riêng của mình.
Cuối cùng, ông Desmalion đã hiểu rằng một người gan dạ như đại uý Patrice không phải là một người dễ gạt ra khỏi cuộc chơi, tuy vậy ông vẫn hỏi lại để biết rõ thêm về đối thủ:
– Cứ đi thẳng là đến đích, đại uý. Anh đặt ra một giả thiết có vẻ quá mập mờ. Liệu nó có được xem xét trước tòa không? Và nếu tôi không chấp nhận hợp tác, thì anh sẽ cư xử thế nào? Hai câu hỏi đã rõ ràng. Anh có muốn trả lời không?
– Tôi sẽ trả lời rõ ràng như câu hỏi của ông vậy.
Anh lại gần ông thẩm phán và nói:
– Theo tôi đây là nơi xảy ra trận chiến và cả vụ tấn công. Một người đàn ông đã biết tôi, và cũng biết cả bà Essarès từ hồi nhỏ, người đã giúp đỡ chúng tôi, đã lưu giữ ảnh của chúng tôi từ năm này đến năm khác; người mà vì những lý do nào đó rất yêu thương chúng tôi, đã gửi cho tôi chiếc chìa khoá, đã gắn kết hai chúng tôi lại với nhau. Giờ đây đúng lúc mới bắt đầu kế hoạch của mình người đó lại bị ám sát. Ấy thế mà tất cả những bằng chứng lại cho thấy rằng ông Essarès là người đã giết người ân nhân đó của chúng tôi. Vì thế mà tôi buộc phải thắc mắc, và buộc phải làm sáng tỏ việc này. Và thưa ông, tôi tin rằng người ta không thể chặn lời tôi, bởi luôn có cách để người khác phải nghe mình nói.
Ông Desmalion phá lên cười.
– Khỉ thật, đại uý, anh đã đạt được điều đó rồi đấy!
– Tôi làm việc này hoàn toàn do ý thức của mình và tôi chắc rằng bà Essarès đây cũng sẽ thứ lỗi cho tôi. Tôi luôn hành động vì muốn điều tốt cho bà ấy, bà ấy biết rõ điều đó. Bà ấy biết rằng mình sẽ thua nếu dư luận câm lặng trước vụ việc này và sẽ chẳng thể dựa vào công lý. Bà biết rằng kẻ thù đang đe dọa chúng sẽ không từ bất kỳ thủ đoạn nào để đạt được mục đích và bà cũng biết rằng bọn chúng đang muốn trừ khử bà vì bà cản trở kế hoạch của bọn chúng. Và điều đáng sợ hơn cả là mục đích đó của bọn chúng dường như càng ngày càng lộ rõ. Chúng ta chống lại bọn chúng nhưng lại không rõ mình phải làm gì và đóng vai gì trong trò chơi này.
Ông Desmalion đứng một lát rồi đặt tay lên vai Patrice và nói, giọng trầm ấm:
– Thế nếu công lý biết đến việc này?
Patrice nhìn ông ngạc nhiên thốt lên:
– Sao, ông biết ư?
– Có thể.
– Vậy ông có thể nói cho tôi biết?
– Quỷ quyệt thật! Anh đang ép tôi đấy…
– Có nghĩa là sao?
– Ồ, cũng chẳng có gì to tát cả! Chỉ là một cuộc đổi chác thôi…
– Kết quả ra sao?
– Một tỷ…
– Một tỷ ư?
– Thật đơn giản thôi. Một tỷ mà hai phần ba, mà không thì ba phần tư đã được chuyển ra khỏi nước Pháp từ trước chiến tranh. Nhưng hai trăm năm mươi hay ba trăm triệu này còn có giá trị hơn hơn cả một tỷ, bởi một lý do…
– Lý do gì?
– Chúng bằng vàng.