Tam Giác Vàng Ma Qủy

CHƯƠNG IX – PATRICE VÀ CORALIE



Tất cả đều diễn ra như những gì mà Desmalions nói trước. Báo chí không lên tiếng, công chúng không phản ứng gì. Tai nạn và những vụ linh tinh khác được đón đọc với thái độ dửng dưng. Buổi chôn cất nhà tỉ phú nhà băng Essarès Bey diễn ra mà không một ai trông thấy.
Nhưng ngay ngày hôm sau, một loạt những phương án được đại uý Belval đề ra với quyền hạn quân đội của mình và sự yểm trợ của tỉnh trưởng, một trật tự mới được thiết lập trong căn nhà ở phố Raynouard. Phu nhân Essarès được trông nom cẩn trọng, căn nhà trở thành khu nhà độc quyền của đại uý Belval cùng bảy người giúp việc.
Như vậy Coralie phải ở đó một mình. Không người dọn dẹp phòng, cũng không người đầu bếp. Bảy người làm việc cho đại uý Belval có thể đáp ứng làm được tất cả mọi việc. Một người làm bảo vệ, một người làm đầu bếp, người khác thì làm chủ khách sạn. Ya-Bon làm công việc của người dọn phòng, có nhiệm vụ phục vụ Coralie. Buổi đêm, anh ta ngủ ngoài hành lang trước cửa phòng nàng. Còn ban ngày, anh canh giữ trước cửa sổ.
– Không một ai được phép lại gần cánh cửa này, và cả cửa sổ nữa – Patrice nói với Ya-Bon. – Không ai được vào. Nếu như chỉ một con muỗi bay vào được trong phòng cậu sẽ bị phạt.
Mặc dù vậy, Patrice vẫn không yên tâm. Anh đã có quá nhiều bằng chứng về những việc mà bọn tội phạm dám làm để tin rằng những biện pháp đó không đủ khả năng bảo vệ một cách hiệu quả nhất. Nguy hiểm luôn rình rập ở những chỗ mà anh không ngờ tới, và không dễ dàng gì để nhận biết mối đe doạ đến từ đâu. Essarès Bey đã chết, ai sẽ tiếp tục công việc của hắn? Và ai sẽ tiếp tục kế hoạch trả thù Coralie, kế hoạch mà anh đã đọc ở bức thư trước?
Ông Desmalions bắt đầu công việc điều tra của mình ngay lập tức nhưng dường như lại dửng dưng với khía cạnh nguy kịch của vụ việc. Không tìm được xác của người đàn ông mà Patrice đã nghe thấy tiếng thét hấp hối, không nhận được một dấu vết nào của kẻ tấn công bí hiểm vào Patrice và Coralie lúc chiều tà, không xác định được cái thang mà kẻ tấn công dùng có từ đâu, Desmalions không bận tâm đến những câu hỏi này nữa, và chỉ tập trung sức lực vào việc tìm kiếm mười tám túi vàng.
Đó là điều quan trọng duy nhất đối với ông ta lúc này.
“Chúng ta có lý khi tin rằng chúng ở đây, ông nói, giữa bốn cạnh của khoảng vuông được tạo ra bởi khu vườn và cả khu phòng ở. Dĩ nhiên là một túi tiền vàng nặng năm mươi kilô không cồng kềnh như một túi than cùng trọng lượng. Nhưng dù sao mười tám túi có lẽ cũng tương đương từ bảy đến tám mét khối và không thể bị cất giấu dễ dàng được.”
Sau hai ngày, ông dám chắc chắn rằng tiền không thể giấu ở trong ngôi nhà đó, cũng không chôn dưới ngôi nhà. Vào buổi tối nào đó, khi người lái xe của Essarès chở những cái rương, hòm của nhà băng Pháp – phương Đông đến phố Raynouard, Essarès Bey, người lái xe đó và một người tên là Grégoure đã qua cửa hầm nhờ vào một đường dây rất lớn mà bọn tòng phạm đã nói đến. Trên đường dây đó có những cái móc để treo và trượt những túi tiền đến một tầng hầm nằm chính xác ở dưới thư viện.
Thật là vô ích khi nói đến những gì mà ông Desmalions cùng với thuộc hạ của mình làm một cách khéo léo, tỉ mỉ và kiên nhẫn nhằm tìm kiếm ở tất cả các xó xỉnh của tầng hầm đó. Những cố gắng của họ chỉ mang lại kết quả là không tìm ra được một bí mật nào hết, trừ bí mật của một cầu thang đi xuống dưới thư viện và lối ra của nó đã bị bịt lại bằng một cánh cửa sập được một tấm thảm phủ lên. Ngoài cửa hầm ở phố Raynouard, còn có một cửa hầm khác nhìn ra vườn ở tầng một. Hai lối vào này bị chặn bởi một cánh cửa con bằng sắt rất nặng, đến nỗi mà hàng nghìn cuộn tiền vàng bị lèn chặt trong hầm cho đến khi chúng được chuyển đi.
“Nhưng chúng được chuyển đi như thế nào? Desmalions thắc mắc. Bí hiểm! Và tại sao lại dừng lại ở tầng hầm phố Raynouard? Cũng bí hiểm nốt! Cả Fakhi, Bournef và những người khác khẳng định rằng không có vụ chuyển tiền nào cả và tiền vẫn ở đây, chỉ cần tìm cách tìm ra chúng. Ta đã tìm ở trong nhà, còn ở ngoài vườn nữa. Hãy tìm ở chỗ đó đi!
Đó là một khu vườn cổ tuyệt đẹp mà ngày xưa là một phần tài sản khổng lồ nơi mà thế kỉ thứ mười tám, người ta thường lui đến ngắm nhìn con suối Passy. Khu vườn rộng hai trăm mét, từ phố Raynouard đến tận ga với bốn bậc thềm trải dài ra bãi cỏ, nổi bật nhờ những bụi cây xanh và những cây cổ thụ. Nhưng vẻ đẹp của khu vườn lại chính là ở bốn bậc thềm của nó, ở tầm nhìn ra phía con sông, những bình nguyên ở tả ngạn con sông đó và ở những ngọn đồi phía xa. Hai mươi chiếc cầu thang thông với nhau và hai mươi lối mòn len lỏi giữa những bức tường phủ đầy dây thường xuân. Ở đó có một bức tượng, một cột đã bị chặt đứt, những mảnh vụn của cái cột đó. Ban công lát đá hoa được trang trí với những cái lọ cổ bằng đất nung. Người ta cũng nhận thấy trên khoảng sân này sự đổ nát của hai giáo đường mà ngày xưa là nơi mọi người đến uống nước suối. Trước cửa sổ của thư viện là bồn nước hình tròn và ở giữa có một đứa trẻ với cái phễu hình vỏ ốc phun ra tia nước nhỏ. Chính nước tràn ra từ bồn nước đó đã chảy thành rãnh nhỏ qua những phiến đá mà Patrice đã đụng phải hôm đầu tiên.
“Ba hay bốn hecta cần phải đào bới lên để kiểm tra” Desmalions nói. Để làm việc đó ngoài người của Patrice, ông còn huy động thêm khoảng mười hai thuộc hạ. Công việc thực chất khá dễ dàng và phải đem lại kết quả chắc chắn, bởi Desmalions đã không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng mười tám túi vàng không thể vô hình được. Tất cả các hố chôn tiền đều phải để lại dấu vết, phải có lối nào đó để chui ra và chui vào. Ngoài ra, bãi cỏ cũng không có dấu vết nào. Dây thường xuân? Bức tường thành? Những ô đất? Tất cả đều được kiểm tra. Nhưng vô ích!
Họ còn thấy hệ thống đường dẫn ra phía sông Seine ở những đường ống dẫn nước và những đoạn cầu máng mà ngày xưa có vẻ như là chỗ cất giấu. Nhưng cũng chẳng tìm thấy gì.
Patrice và Coralie tiếp tục cuộc tìm kiếm. Thế nhưng, mặc dù họ hiểu rõ lợi ích của cuộc tìm kiếm và dù một mặc khác họ vẫn còn lo lắng sau những gì vừa xảy ra, họ vẫn bận tâm tới mối liên hệ không tài nào giải thích nổi giữa số phận của họ và gần như cả hai đều nói về quá khứ tối tăm.
Mẹ của Coralie, con gái của viên tổng tài Phát ở Salonique kết hôn với một người đứng tuổi, rất giàu có là bá tước một gia đình người Seibe và ông đã chết sau khi Coralie ra đời được một năm. Bà cùng con sống ở Pháp, chính xác là ở khách sạn phố Raynourd, mà bá tước Odolavitz đã mua qua người trung gian là một thanh niên trẻ người Ai cập là thư ký và quản lý gia của mình.
Như vậy Coralie sống ở đó ba năm lúc còn bé.
Sau đó nàng bị mất mẹ một cách đột ngột. Còn lại một mình trên cõi đời, cô được Essarès đưa về Salonique, ở đó ông của cô – viên tổng tài đã để cho người em gái của mình chăm sóc cô. Bất hạnh thay người em gái này lại bị Essarès quản thúc buộc phải ký những giấy tờ cho tất cả tài sản của cô đã được hành chính hoá và dần dần biến mất bởi tên Ai Cập này.
Lúc mười bảy tuổi, Coralie là nạn nhân của một trò chơi để lại cho nàng một kỷ niệm đáng ghê tởm và ảnh hưởng nguy hại đến cuộc đời. Bị một nhóm người Thổ Nhĩ Kỳ bắt cóc vào một buổi sáng ở Salonique, nàng bị nhốt hai tuần ở sâu tận cùng của lâu đài và phải đương đầu với sự ham muốn xác thịt của tên tỉnh trưởng. Essarès đã giải thoát cho nàng. Nhưng việc giải thoát này diễn ra không bình thường đến mức mà Coralie thắc mắc không hiểu có một sự thông đồng nào giữa bọn người Thổ Nhĩ Kỳ và anh thanh niên người Ai Cập không?
Vì bị ốm, suy sụp tinh thần, nghi ngờ bị bắt cóc lần nữa, bị gò bó với mình, Coralie cưới anh chàng Essarès này sau một tháng, người đã tán tỉnh cô và giờ đây, là ân nhân cứu thoát cô. Một cuộc hôn nhân ghê tởm và thảm hại. Coralie là vợ của một người mà cô ghét cay ghét đắng và cuộc hôn nhân ngày càng làm tăng lên sự căm thù và khinh bỉ của cô đối với hắn.
Cùng năm đó, cả hai chuyển đến ở khách sạn phố Raynouard. Essarès người thành lập và điều hành chi nhánh của nhà băng Franco-Orientale, ( Franco – Orientale: Pháp – Phương Đông) theo dõi hầu như toàn bộ hoạt động của nhà băng này, đã mua khu cư dân ở phố Lalayette hiệu là “Bey”, bắt nguồn từ Ai Cập.
Đó là câu chuyện mà Coralie kể trong khu vườn Passy tuyệt đẹp, họ đã kể cho nhau nghe quá khứ buồn thảm đó và so sánh với quá khứ của Patrice. Cả Patrice lẫn Coralie không thể tìm ra điểm chung nào làm cho cả hai nhớ về cùng một kỷ niệm. Không chi tiết nào giải thích cho họ tại sao cả hai lại có cùng một viên thạch anh tím, tại sao hình của họ lại ở cùng một album và trên cùng một huân chương.
“Thì đành phải giải thích rằng chiếc huân chương đó nằm trong tay của Essarès, vì hắn đã cướp nó từ một người mà chúng ta không biết người đó đi theo chúng ta và đã bị sát hại. Patricè nói. Nhưng còn tại sao hắn lại cất quyển album này ở túi áo trong?
Họ im lặng, Patrice hỏi:
– Còn Siméon?
– Siméon luôn sống ở đây.
– Cùng thời gian với cụ thân sinh của mẹ chứ?
– Không, một hay hai năm sau khi mẹ tôi mất, lúc tôi đến Salonique ông ấy làm nhiệm vụ bảo vệ ông chủ của mình. Essarès và kiểm tra các khoản chi phí ăn ở của ông chủ.
– Ông ta là thư ký của Essarès à?
– Tôi không bao giờ biết chính xác chức vụ của ông ấy. Thư ký ư? Không phải Người tâm huyết ư? Cũng không phải. Họ không bao giờ nói chuyện với nhau. Ông ấy đến thăm chúng tôi ba hay bốn lần gì đó ở Salonique. Tôi còn nhớ một trong số những lần đến thăm đó. Hồi đó tôi còn bé và tôi đã nghe thấy ông ấy to tiếng với Essarès và có vẻ như là dọa nạt Essarès.
– Về cái gì cơ?
– Tôi không biết, tôi không biết tí gì về Siméon. Ông ta sống ở đây nhưng tách biệt, gần như luôn ở ngoài vườn, hút tẩu, mơ mộng, chăm sóc cây cối hoặc những bông hoa với hai hay ba người làm vườn để giết, thời gian.
– Theo mẹ, ông ta xử sự như thế nào?
– Đấy, tôi vẫn không thể nói được gì chính xác về điều đó cả. Tôi và ông ấy không bao giờ chạm mặt nhau, công việc của ông ấy không cho phép ông tiếp xúc với tôi. Thế nhưng đôi khi tôi có cảm giác rằng, qua đôi kính vàng, ánh mắt ông ta nhìn tôi với vẻ van xin. Ngoài ra, trong thời gian vừa qua, Siméon thích chở tôi đến tận bệnh viện và tỏ ra chăm chú và ân cần hơn, đến mức mà tôi tự hỏi, từ một hay hai ngày nay…
Sau một lúc lưỡng lự, Coralie tiếp tục nói:
– À, chỉ là một ý nghĩ vu vơ thôi… nhưng dù sao! Này, có cái gì đó tôi quên chưa kể với anh… Tại sao tôi lại vào trạm cứu thương của Essarès ư? Thế còn anh, anh vào đây vì bị thương và bị ốm à? Tại sao vậy? Còn tôi, Siméon đã đưa tôi đến đó. Ông ta biết tôi muốn làm y tá và đã chỉ cho tôi bệnh viện đó… nơi mà ông ta không ngờ rằng chúng ta sẽ gặp nhau do hoàn cảnh xô đẩy.
Và hãy suy nghĩ một chút, về hai tấm ảnh ở huân chương, tấm ảnh có hình của hai chúng ta – anh mặc đồng phục bệnh nhân, tôi mặc bộ đồ y tá – chỉ có thể được chụp ở bệnh viện. Ngoài những người ở đây, ở căn nhà này, Siméon là người duy nhất đi đến bệnh viện. Tôi cũng cho anh biết luôn rằng ông ta đã từng đến Salonique, chứng kiến tôi từ một cô bé lớn lên thành thiếu nữ và rằng ông ta cũng có thể chụp những bức ảnh chớp nhoáng ở đó. Nếu như chúng ta giả định rằng có vài kẻ trợ giúp ông ta và theo dõi anh trong cuộc sống, có thể là người bạn mà anh cho rằng đã can thiệp vào giữa chúng ta, người gửi cho anh chìa khoá của khu vườn.
– Người bạn đó là Siméon ư? – Patrice cắt ngang. Giả thuyết này không được chấp nhận.
– Tại sao?
– Bởi vì người bạn đó đã chết, người đã tìm cách can thiệp vào chúng ta, người đã gửi cho tôi chiếc chìa khoá của khu vườn, và người cho tôi biết sự thật qua điện thoại, rồi bị ám sát… không còn nghi ngờ gì về điều đó. Tôi đã nghe thấy tiếng kêu của người đàn ông bị cắt cổ những tiếng kêu hấp hối… những tiếng kêu khi người ta sắp chết.
– Chúng ta chắc chắn được à?
– Đúng, tôi hoàn toàn chắc chắn như vậy. Sự chắc chắn này sẽ không bị suy giảm bởi bất cứ một sự do dự nào hết. Người mà tôi gọi là người bạn không quen biết của chúng ta đã chết trước khi hoàn toàn thành công việc của mình. Anh ta chết vì bị ám sát. Nhưng Siméon vẫn còn sống sót.
Patri nói thêm:
“Mặt khác, người này có giọng nói khác với Siméon, giọng nói mà tôi chưa bao giờ nghe và sẽ không bao giờ được nghe nữa.”
Coralie không hề do dự, đến lượt nàng cũng bị thuyết phục.
Họ ngồi trên chiếc ghế băng của khu vườn, tận hưởng ánh nắng tuyệt vời của tháng tư. Những cái nụ dẻ chúm chím lấp lánh ở ngọn cây. Mùi hương nồng của cây quế trúc lan toả từ các bồn hoa, những bông quế màu vàng hoặc màu nâu ánh vàng, như những chiếc váy của những chú ong nối đuôi nhau, đung đưa nhè nhẹ khi làn gió thoảng qua. Đột nhiên, Patrice kêu khẽ, Coralie đang nhè nhẹ đặt tay lên tay anh, cử chỉ âu yếm, và quan sát nàng, anh thấy nàng như sắp khóc vì xúc động.
“Có gì thế, mẹ Coralie?”
Mái đầu người thiếu phụ cúi xuống, má nàng chạm vai Patrice. Patrice không dám động đậy, anh sợ làm nàng bị thương tổn. Anh nhắc lại:
“Có gì thế? Làm sao thế, bạn tôi?”
– Ôi, nàng kêu lên, thật kỳ lạ quá! Patrice, nhìn kìa, hãy nhìn những bông hoa. Ở khoảng đất, khoảng đất thấp hơn một chút, giữa các bồn hoa quế có bồn hoa với đủ loại hoa xuân. Ở chính giữa, có một bồn trồng hoa Pensée. Đấy, đấy! – Nàng chỉ vào bồn hoa tròn, – anh nhìn kỹ vào… Anh thấy chưa?.. có chữ trên đó.
Đúng thật, dần dần Patrice nhìn thấy rằng những cụm Pensée được xếp theo hình chữ. Nếu chỉ nhìn qua thì khó có thể thấy được, cần phải để ý kỹ một lúc sẽ thấy các chữ: “Patrice và Coralie”
– A! Anh hiểu ý em rồi!…
Thật kỳ lạ và thật sự xúc động khi đọc được tên hai người mà một người bạn nào đó đã tạo nên. Cũng thật kỳ lạ và xúc động khi thấy sự gắn bó giữa hai người, giờ lại được thể hiện qua những bông hoa tình yêu, được ghép lại. Những bông hoa nở rồi lại tàn, tan biến vào vô tận! Coralie đứng dậy và nói:
– Siméon là người hay chăm sóc vườn!
– Dĩ nhiên, song điều đó cũng chẳng làm anh thay đổi ý kiến. Hẳn là ông ta phải biết người bạn lạ mặt của bố mẹ chúng ta. Ông ta có thể còn liên quan đến người đó trong một số việc và chắc họ biết nhau nhiều. Đúng rồi! Ông ta có thể cho chúng ta biết một vài điều và chỉ cho chúng ta đi đúng đường.
Một giờ sau, khi mặt trời lui dần phía chân trời, họ quay trở lại nhà. Vừa trèo lên bậc cửa, họ gặp ông Desmalioiis, ông ra hiệu cho họ đến gần: “Tôi thông báo cho hai người một điều khá lạ, có lợi cho cả hai người”. Ông dẫn họ đến cuối khoảng đất ở trước khu nhà họ đang sống và tiếp đó là phòng thư viện, ở đó đã có hai người cảnh sát, mỗi người cầm một cái xẻng. Trong quá trình tìm kiếm, họ đã gạt những cây leo um tùm bao quanh bức tường được trang trí bởi những lọ đất hung. Nhưng có một chi tiết đáng chú ý là bức tường được trát thêm một lớp vữa mới.
– Tại sao ư, ông Desmalions nói. Đó không phải là điểm ta cần tính đến sao? Tôi đã cho cạy lớp vữa ra và ở bên dưới, tôi thấy một lớp thứ hai mỏng hơn, lẫn với những chỗ gồ ghề của mặt đá. Này, hai người hãy lại đây… à mà không… lùi lại một chút… thế sẽ rõ hơn.”. Lớp bên trong đúng thật chỉ có chức năng giữ một loạt những hòn sỏi nhỏ màu trắng xếp lại như một bức trạm khảm bao quanh bởi hàng sỏi đen, những hòn sỏi trắng xếp thành một hàng chữ có ba từ. Và lại là: “Patrice và Coralie”. Hai người sẽ nói gì về chuyện này? Ông Desmalions hỏi. Dễ thấy rằng dòng chữ này đã được làm từ nhiều năm nay… ít nhất là mười năm, từ khi bức tường được dựng lên ở đây.
– Ít nhất là mười năm… Patrice nhắc lại, khi anh chỉ còn lại một mình bên người thiếu phụ. Mười năm, có nghĩa là lúc em vẫn chưa lấy chồng, em vẫn còn sống ở Solonique và chẳng có ai đến khu vườn này… không ai cả, trừ Siméon với người mà ông ta cho phép vào. Rồi Patrice kết luận:
– Và trong số đó, Coralie ạ, có người bạn mà chúng ta chưa biết mặt, có lẽ ông ấy giờ đã chết rồi.
Và Siméon biết sự thật.
Vào cuối buổi chiều, họ lại gặp lão Siméon, vẫn luôn như trước, lang thang trong vườn hoa ở hành lang ngôi nhà vẫn với thái độ lo lắng sợ sệt đó, vẫn với khẩu trang buộc thắt sau đầu và cặp kính vàng ép chặt hai bên thái dương, ông ta lắp bắp những lời khó hiểu. Ban đêm, một trong những người thương binh ở gần phòng ông nhiều lần còn nghe thấy tiếng hát. Hai lần liền, Patrice cố gắng buộc ông ta nói nhưng Siméon chỉ nghiêng cái đầu không trả lời hoặc cười ngô nghê. Thế là vấn đề càng rắc rối hơn và chẳng có gì báo trước rằng nó có thể được giải quyết. Ai là người đã hứa đính ước cho hai người từ khi họ còn thơ? Ai là người đã chuẩn bị cho mọi việc xảy ra bây giờ từ mùa thu trước, khi bản thân Patrice và Coralie còn chưa hề biết nhau. Hơn thế nữa người đó viết tên họ bằng những viên sỏi trắng lấp trong một bức tường dầy từ tận mười năm trước? Hàng loạt câu hỏi chồng chất trong đầu hai người, hai người mà tình yêu đã đến bất ngờ, và bỗng nhiên họ lại khám phá ra được rằng đằng sau họ có một quá khứ chung rất dài. Họ cùng nhau bước đi trong vườn và mỗi bước chân của họ dường như là một sự hành hương xa dần vào những kỷ niệm đã bị lãng quên và mỗi khi quay lại, họ lại mong chờ khám phá thêm một điều gì đó nữa minh chứng cho mối ràng buộc đã đưa họ về nơi này, cội nguồn của họ. Và đúng thế thật, chỉ trong có vài ngày gần đây, họ đã thấy tên họ cùng trên hai thân cây và sau một lớp vữa ẩn sau một bức riđô. Kèm theo hai con số: “Patrice và Coralie, 1904… Patrice và Coralie, 1907… Cách đây mười một năm và cách đây tám năm luôn là hai tên chúng ta,… Patrice và Coralie. Họ nắm chặt tay nhau. Một điều bí ẩn của quá khứ đã kéo họ xích lại gần nhau và làm họ không nói lên lời. Tuy vậy, hai người vẫn hành động đơn độc, vì thế nên một ngày nọ, hai tuần sau khi Essarès chết, khi đi qua cái cửa nằm trong ngách nhỏ, họ đã quyết định ra ngoài và xuống tận bờ sông Seine. Không ai thấy họ, cả cái cửa lẫn con đường dẫn ra đó đều khuất dưới tán cây Hoàng dương và ông Desmalions, cùng lúc phát hiện ra cái ống khói cũ dùng để phát tín hiệu thì cũng đã phát hiện ra một cái nhà trồng thảo mộc nằm phía bên kia của khu vườn. Nhưng khi ra đến ngoài Patrice dừng lại. Gần như đối diện ở bên kia bức tường có một cái cửa giống y như thế. Thấy anh ngạc nhiên, Coralie liền nói: “Chẳng có gì lạ đâu. Bức tường này ngăn cách một cái vườn nhỏ trước kia thuộc khu vườn chúng ta vừa đi ra.”
– Ai sống ở đó?
– Chẳng có ai cả. Ngôi nhà nhỏ sở hữu khu vườn đó nằm trước nhà của em ở phố Raynouard và luôn luôn đóng cửa chặt.
Patrice lẩm nhẩm:
– Cùng một cửa… cùng một chìa khoá, có lẽ thế!
Anh liền tra vào ổ chiếc chìa khoá mà ai đó đã gửi cho anh. Cánh cửa bật mở.
– Chúng ta vào đi, anh nói, sẽ tiếp tục có thêm những điều bí ẩn đấy. Chẳng hiểu điều này có lợi cho chúng ta không?
Đó là một dải đất khá hẹp, các loại cây cỏ mọc um tùm. Tuy nhiên giữa đám cỏ nhằng nhịt ấy có một con đường mòn nền đất nện như vậy là người ta hẳn đã qua lại nhiều lần. Có một ngôi nhà nhỏ trông rất điêu tàn cửa mở toang hoang không có nhiều tầng chỉ có duy nhất một vọng thấp dạng vòm kính nhỏ trên nóc các lâu đài. Có một cửa riêng để vào phố Raynouard được chặn thật chắc bằng những thân cây và những thanh xà gồ được đóng dính liền vào nhau. Họ đi vòng ngôi nhà và thật bất ngờ vì cảnh tượng mà họ thấy ở phía bên phải. Đó là nhà kính hình chữ nhật được làm rất cẩn thận với những đường vòm đều đặn và được khắc trong hàng rào cây Hoàng dương và cây thông đỏ. Một khu vườn nhỏ nằm khuất trong khoảng không gian này ở đây tụ họp sự tĩnh lặng và yên tĩnh. Ở đây có những bông hoa chuối nở rộ, những bông Pensée và những bông mères-de-famille. Từ bốn góc của nhà kính có bốn đường mòn dẫn tới một điểm tròn trung tâm; nơi có một thánh đường nhỏ mở rộng, được xây dựng rất thô bằng đá cuội và bằng đá đẽo. Dưới mái vòm của thánh đường nhỏ đó có một bia mộ bằng đá. Trước tấm bia có một tượng chúa bằng gỗ bên trái treo hình chúa Jésus bằng ngà và bên phải treo một tràng hạt gồm những hạt thạch anh tím và một dây vàng. “Coralie, Coralie, giọng Patrice run run… Ai đã được chôn ở đây thế?”. Họ lại gần, có những ngọc trai được đặt trên bia có mười chín hạt tượng trưng cho mười chín năm, họ gạt những hạt ngọc đó ra và đọc trên bia hàng chữ vàng đã phai mờ và vẩn đục vì mưa gió:
Nơi đây yên nghỉ
PATRICE & CORALIE
Cả hai bị sát hại vào ngày
Họ sẽ được trả thù.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.