Tam Giác Vàng Ma Qủy

CHƯƠNG X – SỢI DÂY THỪNG ĐỎ



Coralie cảm thấy bủn rủn chân tay, nàng ngả người quỳ trước bức tượng Chúa và cầu nguyện. Nàng cầu nguyện cho ai? Cho sự an nghỉ của những linh hồn xa lạ ư? Nàng cũng không biết nữa. Nhưng toàn bộ cơ thể nàng nóng hừng hực và chỉ có những lời cầu nguyện mới giúp được nàng lúc này. Patrice thì thầm với nàng:
– Mẹ em tên là gì hả Coralie?
– Louise ạ! Nàng trả lời
– Còn bố anh tên là Armand. Vậy thì chẳng là ai trong số hai người đó cả, nhưng mà…
Patrice cũng lộ vẻ bị xúc động cực độ. Anh cúi thấp người xem xét mười chín vòng ngọc và cả tấm bia rồi lại nói tiếp:
“Nhưng mà, Coralie ơi, sự trùng hợp này quá bất bình thường. Bố anh cũng chết vào năm này, năm 1895.
– Mẹ em cũng vậy, đúng năm này dù em không thể nhớ chính xác ngày nào.
– Chúng ta đều không thể nhớ chính xác mà em. Mọi thứ rồi sẽ được kiểm nghiệm lại. Nhưng, bắt đầu từ bây giờ, có một sự thật mới xuất hiện: người khắc những cái tên Patrice và Coralie này không chỉ nhằm vào chúng ta, mà cũng không thể là cho tương lai được. Có thể người đó còn nghĩ đến quá khứ, có một Patrice và một Coralie nào đó đã chết rất thảm thương và người đó đã thề sẽ trả thù cho họ. Đi nào, Coralie, chẳng ai ngờ chúng ta đã đến được tận đây đâu em.
Họ quay lại con đường mòn và quay về hai cửa ngách mà họ đã đi qua. Cũng chẳng có ai nhìn thấy khi họ quay về. Patrice lập tức dẫn Coralie về nhà nàng, yêu cầu Ya-Bon và đám bạn của cậu ta phải chú ý bảo vệ nàng rồi ra về.
Anh chỉ quay lại vào buổi tối rồi lại ra đi ngay vào buổi sáng.Và chỉ đến ba giờ chiều hôm sau anh mới gặp Coralie để nói chuyện với nàng.
Lập tức, nàng hỏi anh:
– Anh biết gì sao?
– Anh biết được nhiều điều lắm, Coralie ạ, những điều đó không lẫn vào trong bóng đêm hỗn độn của hiện tại mà ngược lại anh nghĩ là chúng làm sáng tỏ một chút về quá khứ.
Anh ngồi trước mặt nàng và hói:
– Anh sẽ không kể cho em tất cả những gì anh đã làm đâu. Anh sẽ chỉ tóm tắt ngắn gọn kết quả thôi. Trước tiên anh đã đến toà Thị chính ở Passy rồi đến toà đại sứ của Serbie.
– Thế anh có biết liệu đó có phải là tên mẹ em không?
– Phải, em ạ! Anh đã chép lại bản cáo phó của mẹ em. Mẹ chết ngày 14/4/1895.
– Ôi! Đó là ngày ghi trên mộ!
– Đúng!
– Thế nhưng cái tên Coralie?… Mẹ em tên là Louise cơ mà.
– Mẹ em tên là Louise-Coralie, phu nhân bá tước Odolavitch.
Nàng kêu lên:
– Ôi! Mẹ… Mẹ kính yêu của con… chính mẹ đã bị sát hại ư? Vậy chính con đã nguyện cầu cho linh hồn mẹ ư?
– Đúng, em ạ, em đã nguyện cầu cho linh hồn mẹ em và cả của bố anh nữa. Bố anh tên là Armand-Patrice Belval. Anh đã tìm thấy tên chính xác của bố ở toà thị chính phố Drouot. Ông cũng chết vào ngày 14/4/1895.
Patrice đã có lý khi nói rằng quá khứ dần dần được làm sáng tỏ. Rõ ràng bố mẹ họ đã được ghi tên trên mộ. Cả hai người đều đã bị sát hại. Bởi ai? Vì động cơ gì? Và còn có thảm kịch gì trước đó nữa? Đó là những gì Coralie gạn hỏi Patrice.
– Anh chưa thể trả lời những câu hỏi của em lúc này được. Nhưng có một câu hỏi khác anh đã tự đặt ra, cân hỏi này dễ trả lời hơn và sẽ mang lại cho chúng ta sự chắc chắn về một điểm chủ yếu. Câu hỏi đó là ngôi nhà thuộc về ai? Em đã nhìn kỹ bức tường và cánh cửa ở sân, chắc em cũng thấy là chẳng có gì đặc biệt. Nhưng với anh thì chỉ cần số nhà là đủ. Anh đã tìm đến nhà người thu thuế trong vùng và được ông ta cho biết là các khoản thuế được trả bởi một công chứng viên sống ở phố Opera. Anh đã đến nhà ông ta và đã biết được điều này.
Patrice ngừng một lát rồi nói tiếp:
– Ngôi nhà được mua cách đây hai mươi mốt năm bởi cha anh. Hai năm sau đó cha anh qua đời và ngôi nhà này là một phần tài sản của ông được ông công chứng viên phụ trách rao bán. Người đã mua ngôi nhà này là một người gốc Hy Lạp, tên là Siméon Diodokis.
– Chính ông ta rồi! Coralie kêu lên. Diodokis chính là họ của ông Siméon đấy.
– Vậy là – Patrice nói tiếp- Siméon Diodokis là bạn của cha anh, bởi vì cha anh đã để lại chúc thư chỉ định ông ta là người đại diện duy nhất và cũng chính ông Diodokis, thông qua người công chứng và một người trung gian ở Luân Đôn, đã thanh toán các khoản chi phí học tập của anh ở nước Anh, và khi anh đến tuổi trưởng thành ông đã giao cho anh số tiền hai trăm nghìn Frăng, gia tài mà cha anh để lại.
Cả hai cùng im lặng một lúc lâu. Bao sự việc đã hiển hiện song vẫn còn rất mơ hồ, như những quang cảnh mờ ảo trong sương mù buổi sẩm tối.
Và một trong những sự việc đó đã chi phối tất cả các việc khác. Patrice thì thầm:
– Mẹ em và bố anh đã yêu nhau, Coralie ạ.
Ý nghĩ này gắn bó hai người với nhau song cũng làm cho cả hai thật sự bối rối. Tình yêu của họ giờ đây được nhân đôi lên bởi một mối tình khác, còn nhiều bi kịch hơn, mối tình giữa cha mẹ họ đã kết thúc trong máu và chết chóc, điều này khiến họ xúc động sâu sắc.
– Mẹ em và cha anh đã yêu nhau, Patrice nhắc lại. Chắc chắn là họ đã yêu nhau tha thiết bởi họ đã muốn gọi nhau theo cách mà chưa có ai từng gọi họ, đó là tên đệm của họ và cũng là tên hiện nay của chúng ta. Một hôm, mẹ em đã đánh rơi chuỗi hạt thạch anh và viên to nhất đã vỡ làm đôi. Cha anh đã lấy một nửa hạt đó và đính vào dây đeo đồng hồ. Cả mẹ em và cha anh đều goá bụa. Khi đó em mới có hai tuổi, còn anh tám tuổi. Để dành trọn cuộc đời cho người mình yêu, ông đã gửi anh sang Anh và mua căn nhà này để mẹ em sống ở khách sạn bên cạnh có thể sang gặp ông. Họ đã dùng chính chìa khoá này để liên lạc. Chính ngôi nhà hay khu vườn bao quanh là nơi họ đã bị ám hại. Rồi chúng ta sẽ biết điều đó bởi chắc chắn phải còn lại những bằng chứng hiện hữu của vụ sát hại này.
Siméon Diodokis đã tìm ra những bằng chứng đó vì ông đã không ngại ngần khẳng định điều đó qua những dòng chữ ghi trên mộ.
– Vậy ai là kẻ sát nhân?
– Giống như anh, chắc em cũng nghi ngờ người đó phải không Coralie? Cái tên ấy thoáng hiện trong đầu em mà không có bằng chứng cụ thể nào cả.
– Essarès à? Coralie kêu lên lo lắng.
– Rất có thể.
Nàng gục đầu vào lòng bàn tay:
– Không, không… Không thể như thế được… em không thể là vợ của kẻ đã giết hại mẹ em được.
– Em đã mang họ của hắn nhưng em chưa bao giờ là vợ của hắn cả. Em đã nói điều đó với hắn vào đêm trước khi hắn bị giết, khi có mặt cả anh. Chúng ta không khẳng định điều gì ngoài những điều chúng ta có thể khẳng định, nhưng hãy luôn nhớ rằng đó chỉ là số mệnh xấu của em và cũng phải luôn nhớ rằng, Siméon, người bạn và người đại diện của cha anh, người đã mua lại ngôi nhà của cặp tình nhân, người đã thề sẽ trả thù, chỉ vài tháng sau cái chết của mẹ em đã vào làm quản gia trong nhà Essarès, rồi trở thành thư ký của hắn ta và dần dần đi vào cuộc đời của hắn. Tại sao lại như thế? Chẳng phải là để tiến hành các dự định báo thù sao?
– Nhưng đã chẳng có sự báo thù nào.
– Làm sao chúng ta biết được. Chúng ta có rõ Essarès Bey chết như thế nào không? Chắc chắn Siméon không phải là người đã giết hắn bởi lúc đó ông ta đang ở trạm cứu thương. Nhưng có thể ông ta đã thuê người giết thì sao? Vả lại, trả thù thì có trăm nghìn cách. Sau cùng, có lẽ Siméon đã tuân theo những lời dặn của cha anh. Và có lẽ, trước hết ông ta muốn thực hiện các mục tiêu mà cả cha anh và mẹ em đã đặt ra là gắn kết số phận hai chúng ta, Coralie ạ. Và mục tiêu đó đã chiếm hết cuộc đời ông ta. Như vậy, chính ông ấy đã để nửa hạt thạch anh vào trong hộp đựng đồ của anh, đã sưu tầm ảnh của hai ta. Rốt cuộc, cũng chính Siméon là người bạn vô danh đã gửi cái chìa khoá cho anh, kèm theo một bức thư mà anh không nhận được…
– Vậy thì, Patrice, anh không còn nghĩ là người đó đã chết? Người bạn vô danh mà anh đã nghe thấy tiếng kêu hấp hối ấy?
– Anh cũng không biết nữa. Có phải Siméon hành động đơn độc không? Hay là ông ta có một người thân cận, một phụ tá trong việc ông ta làm và người này đã bị giết lúc bảy giờ mười chín phút? Anh không rõ. Tất cả những gì đã diễn ra trong buổi sáng đau buồn đó giờ vẫn còn trong bóng tối, chẳng có gì sáng tỏ thêm. Sự tin tưởng chắc chắn duy nhất mà chúng ta có là từ hai mươi năm nay, Siméon đã dành cả cuộc đời vì quyền lợi của chúng ta và chống lại kẻ sát nhân cha mẹ chúng ta, một nhiệm vụ bí mật và kiên trì, và hiện Siméon Diodokis vẫn còn sống.
Patrice nói thêm:
– Vẫn còn sống, nhưng mà bị điên. Đến nỗi mà chúng ta không thể cảm ơn ông ta cũng không thể hỏi ông ta về câu chuyện mờ mịt mà ông ta biết và về những hiểm nguy đe dọa em. Tuy nhiên, ông ta là người duy nhất…
Một lần nữa, Patrice có ý định hỏi lại ông ta mặc dù anh biết trước sẽ lại thất bại. Siméon ở một căn phòng tại dãy nhà dành cho người ở, ngay cạnh phòng của hai người tàn tật. Patrice tìm đến căn phòng và gặp ông ta ở đó…
Siméon đang nằm trên ghế bành, quay mặt ra vườn, miệng ngậm một cái tẩu đã tắt. Căn phòng nhỏ bé, ít đồ đạc song có vẻ sạch và thoáng đãng. Tất cả cuộc đời bí ẩn của con người già cả này đã trôi qua tại đây. Trước đây đã nhiều lần lúc ông vắng mặt, Patrice và ông Desmalions đã vào căn phòng này xem xét, mỗi người với một mục đích khác nhau.
Khám phá duy nhất đáng chú ý là một hình đơn giản được vẽ bằng bút chì tìm thấy sau một cái tủ – ba đường gạch chéo tạo thành một tam giác cân. Ở giữa cái khối hình học đó là một lớp sơn lót nham nhở có ánh mạ vàng. Tam giác vàng! Ngoại trừ hình đó ra, ông Desmalions chẳng tìm được cái gì khác nữa.
Patrice đi thẳng đến chỗ Siméon và đập lên vai ông:
“Siméon”, anh nói.
Ông ta ngẩng đầu lên, ngước đôi mắt có cặp kính vàng nhìn Patrice. Đột nhiên Patrice nảy ra ý muốn gỡ bỏ cái vật cản bằng kính đã che giấu ánh mắt của ông và ngăn cản không cho anh đi sâu vào tâm hồn cũng như những ký ức xa xăm của ông. Siméon nhìn anh và bắt đầu cười thật ngây ngô:
– À, Patrice nghĩ, người này là bạn của ta và cũng là bạn của cha ta. Ông ta đã yêu mến ta, ông ta tôn trọng những ý nguyện của cha ta, ông ta đã trung thành với ký ức. Ông ta đã xây cho cha ta một miếu thờ và cầu nguyện cho cha ta. Ông ta đã và có thể sẽ báo thù cho cha ta. Vậy mà giờ đây, ý thức của ông đã không còn nữa.
Patrice cảm thấy mọi lời nói đều vô ích. Nhưng nếu giọng nói không thức tỉnh được gì trong bộ óc lạc lõng này, thì có lẽ đôi mắt còn giữ lại chút ký ức nào đó. Anh thấy một tờ giấy trắng và viết lên đấy những từ mà chắc chắn Siméon đã bao lần nhìn thấy
Patrice và Coralie – 14/4/1895
Ông già nhìn, lắc lắc đầu và lại bắt đầu cười một cách đau khổ và ngây ngô. Người sĩ quan lại viết:
Armand Belval
Lần này, ông lão cũng chẳng phản ứng gì. Patrice vẫn tiếp tục. Anh viết những cái tên Essarès, đại tá Fakhi, rồi vẽ một hình tam giác. Ông già không hiểu gì cả và vẫn cười ngây dại.
Nhưng bất chợt, nụ cười của ông bớt ngây dại. Patrice đã viết tên của tên đồng phạm Bournef và lần này dường như có một kỷ niệm đã tác động đến người thư ký già. Ông cố đứng dậy, rồi lại ngồi xuống ghế. Sau cùng, ông đứng dậy và cầm lấy cái mũ treo trên tường. Ông rời căn phòng, Patrice lập tức đi theo. Ông ra khỏi nhà, rẽ sang trái, đi về hướng Auteuil. Ông cứ đi về phía trước như người ngủ mê, cứ như có cái gì đó thúc giục ông chứ ông cũng không biết đi đâu. Ông qua phố Boulainvillers, qua sông Seine và thẳng tiến đến khu phố Grenelle. Không một bước chân ngập ngừng.
Sau đó đến một đại lộ, ông dừng chân và giơ tay ra hiệu cho Patrice ngừng lại theo.
Trước mặt, ở góc giao của đại lộ này với một đại lộ khác, có một quán cà phê có khoảng sân trước khá rộng được quây bởi những chậu hoa fu danh.
Phía sau những chậu hoa, có bốn người đàn ông đang ngồi. Ba người ngồi quay lưng lại. Patrice chỉ nhìn rõ người quay mặt ra và anh nhận ra ngay đó là Bournef.
Lúc đó, ông lão Siméon đã bỏ ra xa, như thể một người đã hoàn thành xong nhiệm vụ và dành phần còn lại cho kẻ khác. Patrice đảo mắt nhìn quanh và nhận ra một buồng điện thoại, anh vội chạy ngay tới đó và cầm máy. Anh biết hiện giờ ông Desmalions đang ở phố Raynouard. Anh đã gọi đến và thông báo cho ông sự có mặt của Bournef. Ông ta trả lời là sẽ đến ngay. Từ sau vụ sát hại Eessarèsbey, cuộc điều tra của ông Desmalions về bốn tên đồng bọn của đại tá Fakhi chẳng tiến triển gì. Mặc dù họ đã tìm ra kẻ tên là Grégoire và những căn phòng có tủ ngầm, nhưng tất cả đều trống rỗng. Những tên đồng bọn cũng biến mất.
– Ông lão Siméon, Patrice tự nhủ, đã biết được thói quen của những tên này. Ông chắc phải biết vào giờ nào, ngày nào trong tuần bọn chúng lại tụ họp tại quán cà phê này, và ông đã đột nhiên nhớ lại khi ta đề cập đến tên Bournef.
Vài phút sau, ông Desmalions cùng các nhân viên cảnh sát từ trên xe bước xuống. Sự việc sau đó diễn ra nhanh chóng. Cái sân bị bao vây. Bọn chúng không ai chống cự, ông Desmalions cho giải ba tên về sở cảnh sát và canh gác nghiêm ngặt, về phần Bournef, ông đưa hắn vào phòng L, phòng tra hỏi đặc biệt.
– Đi nào – ông nói với Patrice – Chúng ta sẽ tra hỏi hắn.
Patrice thắc mắc:
– Bà Essarès ở nhà một mình à?
– Một mình, ồ không, vẫn còn người của anh mà.
– Vâng, nhưng tôi muốn về đó hơn – Đây là lần đầu tiên tôi rời bà ấy và mọi mối lo ngại đều có thể xảy ra.
– Chỉ vài phút thôi – ông Desmalions nhấn mạnh. Chúng ta phải tận dụng việc bắt giữ này.
Patrice theo ông vào, nhưng họ thấy ngay là tên Bournef này chẳng phải loại người dễ khai thác. Hắn ưỡn ngực trước sự dọa nạt của họ.
– Vô ích thôi, các ông, các ông không làm tôi sợ đâu. Tôi chẳng ngại gì cả. Xử bắn ư? Thật nực cười! Ở Pháp, người ta không xử bắn ai về một từ “có” hay “không”, và cả bốn chúng tôi đều là công dân của một nước trung lập. Ra toà ư? Kết án ư? Vào tù ư? Không đời nào. Các ông hiểu rõ là nếu các ông đã chôn vùi sự việc đến tận bây giờ, nếu các ông đã giấu những vụ sát hại Mustapha, vụ Fakhi và vụ Essarès thì không phải là để bây giờ làm sống lại sự việc đó mà chẳng có lý do chính đáng nào. Không, thưa các ông, tôi rất bình tĩnh. Trại tập trung, đó là tất cả những gì có thể chờ đợi tôi.
– Vậy là, ông Desmalions nói, anh từ chối trả lời?
– Nhất định không. Trại tập trung, có lẽ vậy. Nhưng ở các trại đó có đến hai mươi loại chế độ và tôi chắc là cũng sẽ được một chế độ ưu đãi để từ đó mà sống yên ổn cho hết chiến tranh. Nhưng trước tiên, các ông đã biết những gì?
– Gần như tất cả.
– Mặc xác, có thể giá trị của tôi sẽ giảm. Các ông biết đêm cuối của Essarès chứ?
– Biết, cả vụ trao đổi bốn triệu Frăng nữa. Số tiền đó ra sao rồi?
Bournef có một cử chỉ như điên dại.
– Bị đoạt lại rồi! Bị đánh cắp! Đó là một cái bẫy.
– Ai đã đoạt lại nó?
– Một kẻ tên là Grégoire
– Người đó là ai?
– Cái kẻ đáng nguyền rủa ấy, chúng tôi đã biết tâm địa của hắn từ lâu. Chúng tôi đã tìm hiểu, thì ra tên Gregoire chỉ là tên lái xe phục vụ cho Essarès khi cần thiết.
– Vậy có phải là kẻ đã giúp Essarès chuyển số vàng từ ngân hàng về nhà hắn?
– Đúng, và chúng tôi cũng biết, gần như chắc chắn… hoá ra… Gregeire lại là một phụ nữ.
– Một phụ nữ?
– Đúng vậy. Đó là bồ của hắn. Chúng tôi có một vài bằng chứng. Nhưng đó là một người phụ nữ lực lưỡng, rắn chắc và khoẻ mạnh như đàn ông, là kẻ chẳng lùi bước trước bất cứ cái gì.
– Anh biết địa chỉ của bà ta không?
– Không
– Thế còn vàng, các anh không có dấu vết gì, nghi ngờ gì sao?
– Không. Vàng chỉ ở trong ngôi nhà hoặc trong khu vườn tại ngôi biệt thự phố Raynouard thôi. Suốt một tuần, chúng tôi đã thấy số vàng đó được chuyển về. Và từ dạo đó, nó chưa được chuyền ra ngoài. Mỗi đêm, chúng tôi đều theo dõi. Những túi vàng vẫn còn ở trong đó, tôi cam đoan như vậy.
– Cũng không có dấu vết gì liên quan đến tên giết Essarès à?
– Không
– Có chắc như vậy không?
– Tại sao tôi lại phải nói dối chứ?
– Biết đâu đó là anh? Hoặc một người bạn của anh?
– Chúng tôi cũng đã nghĩ là người ta sẽ nghi ngờ chúng tôi. Nhưng thật tình cờ và may mắn, chúng tôi có một chứng cớ ngoại phạm
– Có dễ dàng xác minh không?
– Không chê vào đâu được.
– Chúng tôi sẽ xác minh điều này. Thế không còn phát hiện gì sao?
– Không. Nhưng có một ý này… một câu hỏi thì đúng hơn, trả lời như thế nào thì tuỳ các ông. Kẻ nào đã phản bội chúng tôi? Câu trả lời của các ông có thể sẽ làm tôi sáng tỏ, bởi lẽ chỉ có duy nhất một người biết được cuộc hẹn của chúng tôi mỗi tuần tại quán cà phê từ bốn đến năm giờ chiều… chỉ có một người, đó là Essarès. Essarès… ông ấy vẫn thường xuyên đến hội họp với chúng tôi. Essarès đã chết. Vậy thì ai đã tố cáo chúng tôi?
– Ông già Siméon.
– Sao cơ? Siméon! Siméon Diodokis ư?
– Đúng, Siméon Diodokis, thư ký của Essares bey.
– Ah, thì ra là lão! Tên khốn kiếp! Lão sẽ phải trả giá… Nhưng không, không thể như thế được.
– Tại sao lại nói là không thể?
– Tại sao ư? Đó là bởi vì…
Hắn suy nghĩ khá lâu, có lẽ phải cân nhắc chắc chắn rằng nói ra sẽ không có gì bất lợi. Sau đó hắn nói:
– Bởi vì ông già Siméon đã thoả thuận với chúng tôi.
– Anh nói cái gì? – Patrice kinh ngạc hỏi
– Tôi nói và tôi khẳng định rằng ông Diodokis đã hợp tác với chúng tôi. Ông ấy là người của chúng tôi. Chính ông đã báo cho chúng tôi biết những hành động khả nghi của Essarès Bey. Chính ông đã gọi điện thoại cho chúng tôi lúc chín giờ tối để báo rằng Essarès Bey đã đốt cái lò trong nhà trồng hoa cũ và rằng tín hiệu tia lửa sẽ hoạt động. Chính ông đã mở cửa cho chúng tôi và đã giả vờ chống cự và bị trói trong căn buồng của người gác cửa. Cũng chính ông tối hôm đó đã cho bọn gia nhân nghỉ việc…
– Thế nhưng tên đại tá Fakhi đã không đối xử với ông ta như với đồng bọn?
– Đó chỉ là màn kịch để đánh lừa Essarès. Từ đầu đến cuối đều là đóng kịch.
– Có thể là thế. Nhưng tại sao Siméon lại phản bội Essarès? Vì tiền ư?
– Không, vì hận thù. Ông ta có mối căm hận Essarès Bey mà nhiều khi khiến chúng tôi phải rùng mình.
– Vì lý do gì vậy?
– Tôi không rõ nữa. Siméon là một người kín đáo, nhưng mối thù hận đó đã lớn lắm rồi.
– Ông ta có biết chỗ giấu vàng không? – ông Desmalions hỏi.
– Không. Ông ấy chẳng biết được là làm cách nào mà những túi vàng đã được chuyển khỏi tầng hầm, nơi đó chỉ là chỗ cất giấu tạm thời.
– Tuy nhiên, chúng đã được đưa khỏi nhà. Trong trường hợp này, ai có thể nói được là ông ta không biết?
– Lần đó, chúng tôi theo dõi ở bên ngoài, ở tất cả các hướng, đó là điều mà Simeon không thể làm một mình.
Đến lượt Patrice lại hỏi:
– Anh không biết gì thêm về ông ta sao?
– Phần tôi thì không. À, tuy nhiên, có điều này khá kỳ quặc. Buổi chiều cái hôm xảy ra tấn thảm kịch đó, tôi nhận được một bức thư trong đó Siméon có đưa cho tôi một vài chỉ dẫn. Trong phong thư còn có một bức thư khác chắc hẳn là một nhầm lẫn đến khó tin vì nó có vẻ hết sức quan trọng.
– Thế bức thư đó viết gì? – Pntrice lo lắng hỏi
– Chỉ là nói về một cái chìa khóa thôi.
– Anh nói rõ hơn đi?
– Lá thư ấy đây. Tôi đã giữ nó, định trả lại cho ông ấy và dặn ông ấy cẩn thận. Nhìn xem, đúng là chữ của ông ấy…
Patrice cầm lấy lá thư và nhìn thấy ngay tên mình. Lá thư đúng là gửi cho anh như điều anh đã dự cảm trước. Đó là bức thư mà anh đã không nhận được.
“ Patrice,
Tối nay, anh sẽ nhận được một cái chìa khoá. Ở giữa con phố nhỏ đi xuống sông Seine có hai cánh cửa, một bên phải, đó là cánh cửa khu vườn căn nhà của người mà anh yêu; cái kia ở bên trái, đó là cánh cửa của khu vườn nơi tôi đã hẹn anh hôm mười bốn tháng tư lúc chín giờ sáng. Chiếc chìa khoá sẽ mở được cả hai cánh cửa. Người mà anh yêu cũng sẽ có mặt ở đó. Các bạn sẽ biết tôi là ai và mục đích tôi muốn đạt được. Cả hai người sẽ được biết từ quá khứ những điều chắc chắn sẽ càng làm hai người gắn bó với nhau hơn. Cuộc chiến đấu bắt đầu vào tối nay sẽ rất khủng khiếp. Nếu tôi ngã xuống, thì chắc chắn là người mà anh yêu sẽ phải chịu những hiểm nguy to lớn. Hãy trông nom cô ấy, bảo vệ cô ấy, không được rời bỏ cô ấy giây phút nào cả. Nhưng tôi sẽ không gục ngã đâu và hai người sẽ có được niềm hạnh phúc mà tôi đã chuẩn bị cho cả hai từ rất lâu.
Với tất cả trìu mến.”
– Bức thư không ký, Bournef lên tiếng, nhưng tôi nhắc lại, chữ viết là của ông Siméon. Còn về người phụ nữ thì hẳn nhiên đó là bà Essarès.
– Thế nhưng mối nguy hiểm nào đe doạ bà ta? Patrice kêu lên lo lắng. Essarès đã chết rồi. Vậy thì chẳng còn gì phải sợ.
– Ai mà biết được. Đó là một gã đàn ông quỷ quyệt.
– Thế hắn đã giao trách nhiệm báo thù cho ai? Ai sẽ tiếp tục công việc của hắn?
– Tôi không biết điều đó nhưng cần phải dè chừng.
Patrice không nghe nữa. Anh đưa nhanh lá thư cho ông Desmalions và không muốn nghe thêm gì nữa, anh bước nhanh ra khỏi căn phòng.
“Đến phố Raynouard nhanh lên”, anh nhảy lên một chiếc ô tô và nói với người tài xế.
Anh sốt ruột muốn nhanh chóng tới đó ngay. Những hiểm nguy mà ông già Siméon đã nói dường như đột nhiên đang treo lơ lửng trên đầu Coralie. Có thể, lợi dụng lúc anh vắng mặt, kẻ thù đã tấn công người mà anh yêu quý nhất. “Và ai sẽ bảo vệ nàng nếu tôi ngã xuống?”, ông già Siméon đã nói như thế. Vậy mà, giờ đây một phần của cái giả thiết đó đã được thực hiện bởi lẽ ông ta đã mất trí rồi.
“Xem nào, điều gì đây. Patrice tự nhủ, thật ngốc nghếch… mình cứ tự nhồi nhét bao ý nghĩ không hay… Chẳng có lý do gì mà… ”
Thế nhưng, sự dày vò cứ lớn lên từng phút. Anh tự nói với mình rằng chắc ông lão Siméon làm thế chỉ với chủ định để anh chăm sóc và bảo vệ Coralie một cách hiệu quả hơn…
Từ xa, anh nhìn thấy ông lão Siméon. Đêm tối đã xuống và ông già đang quay trở về nhà. Patrice vượt qua ông và tiến đến hỏi người lính gác:
– Có gì mới không?
– Không, thưa đại uý
– Mẹ Coralie đâu?
– Bà đã đi dạo một vòng quanh vườn và vừa trở lên phòng cách đây nửa giờ
– Ya-Bon đâu?
– Ya-Bon đi theo mẹ Coralie. Chắc giờ anh ta đang ở cửa phòng của bà.
Patrice leo lên cầu thang, bình tĩnh hơn. Nhưng khi đến tầng một, anh hết sức ngạc nhiên khi thấy điện không thắp. Anh bật điện lên. Anh nhận ngay ra Ya-Bon đang ở đầu hành lang, đang quỳ trước cửa phòng Coralie, đầu dựa vào tường. Cửa phòng mở toang. Anh hốt hoảng chạy lại lay lay Ya-Bon.
– Cậu làm gì ở đây thế này?
Ya-Bon không trả lời. Patrice nhận thấy có máu trên vai áo người hầu cận của mình. Ngay lúc đó, Ya- Bon đổ ập xuống.
“Khủng khiếp quá! Cậu ta bị thương… có thể là chết rồi!”
Anh nhảy qua người Ya-Bon vào phòng và nhanh chóng bật điện lên. Coralie đang nằm dài trên ghế. Một sợi dây lụa đỏ quấn quanh cổ nàng. Nhưng Patrice không thấy trên sắc diện của nàng vẻ nhợt nhạt ghê sợ, dấu hiệu của sự tuyệt vọng không gì cứu chữa nổi. Và quả thực, thiếu phụ vẫn còn thở.
“Nàng không chết… nàng không chết… Patrice hổn hển. Nàng sẽ không chết, ta tin chắc như vậy,và cả Ya-Bon cũng sẽ không chết… Âm mưu của bọn chúng thất bại rồi.”
Anh nới lỏng sợi dây ở cổ nàng ra.
Chỉ vài giây sau, thiếu phụ thở mạnh hơn và bắt đầu hồi tỉnh. Nàng khẽ mỉm cười.
Và cũng ngay lập tức, nàng nắm chặt hai bàn tay anh, dù nàng còn rất yếu và nói với anh giọng run run:
“Ôi, Patrice, em sợ… em sợ cho anh… ”
– Sợ điều gì, Coralie? Chuyện xảy ra như thế nào?
– Em không nhìn thấy hắn… Hắn đã tắt điện… và hắn bóp cổ em ngay lập tức, và hắn nói nhỏ với em: “Trước tiên là mày… tối nay sẽ đến lượt tình nhân của mày… ” Ôi, Patrice, em sợ cho anh… em sợ cho anh, Patrice… ”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.