THIÊN LONG BÁT BỘ

28. Thảo mộc tàn sinh lô chú thiết



Chết đi sống lại mấy lần,

Một thân gánh chịu muôn phần khổ đau.
Kim chi ngọc diệp còn đâu,
Đầu đeo lồng sắt xiết bao thảm hình.
¤
Du Thản Chi thấy Tiêu Phong cùng đoàn người đi thẳng về hướng bắc, không thấy quay lại, lúc ấy mới chắc rằng mình thoát chết, nghĩ thầm: Tên gian tặc này sao không giết ta nhỉ? Hừ, chắc là y coi ta chẳng vào đâu, giết mình chỉ thêm bẩn tay. Y … y ở nước Liêu làm cái chức đại vương quái gì đó, mình sau này báo thù xem ra còn khó hơn. Thế nhưng ít nhất mình cũng biết được tên gian tặc đó ở chỗ nào.

Y cúi xuống nhặt cái túi vôi sống lên, rồi đi kiếm con dao của y mà Tiêu Phong đoạt bằng roi ngựa vứt ra, bỗng thấy trong bụi cỏ ở bên trái có một cái bao vải dầu nhỏ, chính là của Tiêu Phong lấy từ trong bọc ra rồi lại bỏ trở vào, liền nhặt lên, mở ra thấy bên trong là một cuốn sách, thuận tay lật lật mấy trang, trang nào cũng viết đầy những chữ ngoằn ngoèo, không đọc được lấy một chữ.

Thì ra Tiêu Phong thấy vật lại nhớ người, tâm hồn lãng đãng, bỏ bản Dịch Cân Kinh vào trong túi không kỹ nên khi ngựa lồng lên, cái bao liền văng ra rơi vào trong đám cỏ mà không hay biết gì cả.
Du Thản Chi nghĩ thầm: Chắc cái này là chữ Khất Đan đây. Quyển sách này tên gian tặc luôn luôn mang theo trong người, hẳn rất quan trọng. Ta lấy luôn không trả lại, để y khổ một phen cho đáng kiếp. Y cảm thấy có phần nào báo được thù nên trong bụng khoái chí, lấy bao vải dầu gói cuốn sách lại, bỏ vào túi rồi thẳng đường xuôi nam.

Y từ nhỏ theo cha học võ, có điều thân thể gầy gò, cánh tay yếu ớt, không hợp với công phu cương mãnh ngoại gia của Du Thị Song Hùng, học ba năm võ công nhưng tiến bộ chẳng mấy tí, thật chẳng đáng gọi là con cháu danh môn. Y học đến năm mười hai, Du Câu chán nản hết hi vọng, mới bàn với ca ca là Du Ký. Hai người cùng tính: -Nếu con cái nhà họ Du mình ra ngoài mà võ nghệ quều quào như thế chẳng khiến người ta cười đến sái quai hàm hay sao? Huống chi nếu ai nghe y là con cháu Du Thị Song Hùng, không động thủ thì thôi chứ ra tay thì phải toàn lực, ngay chiêu đầu đã lấy mạng y rồi. Chi bằng cho y học văn, có thế mới bảo toàn được tính mạng.

Thành thử Du Thản Chi từ mười hai tuổi trở lên thì không học võ nữa, Du Câu mới mời một vị túc nho dạy y văn chương. Thế nhưng y học chữ cũng không

chuyên cần, lúc nào hồn vía cũng để đâu đâu. Thầy đồ dạy: -Tử viết: Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?1 Y liền đáp:Cái đó cũng còn phải xem học cái gì mới biết được, gia gia dạy đệ tử đánh quyền, con học rồi tập luyện, có thấy vui sướng gì đâu.

Thầy đồ cáu tiết nói: -Khổng phu tử nói là nói chuyện học đạo thánh hiền, đại nghiệp kinh bang tế thế chứ nào phải là chuyện múa quyền đánh gậy đâu?
Du Thản Chi nói: -Được, thầy bảo cha con, bác con múa quyền đánh gậy là chẳng ra gì, để con đi nói cho cha con biết.
Cứ như thế y làm cho thầy đồ tức quá phải bỏ đi. Y liên tiếp chọc giận hết thầy đồ này tới thầy đồ khác không ai chịu nổi, Du Câu đánh nó không biết bao nhiêu trận, nhưng thằng bé này càng đánh càng lỳ lợm.
Du Câu thấy con chẳng vâng lời, cứng đầu khó dạy chẳng biết làm sao chỉ còn nước thở dài sườn sượt, để ra sao thì ra. Thành thử năm nay Du Thản Chi đã mười tám rồi, tuy dòng dõi danh môn mà thật đúng là văn dốt võ dát, đến khi bá phụ và phụ thân tự vẫn, mẫu thân đập đầu vào cột tuẫn phu, y cô khổ lênh đênh, đi lang thang không nhà không cửa, trong đầu lúc nào cũng chỉ nghĩ đến việc làm sao kiếm được Kiều Phong để báo thù.

Trận đại chiến Tụ Hiền Trang hôm đó, y náu ở góc nhà xem đánh nhau, tướng mạo hình dạng Kiều Phong y đã ghi nhớ kỹ càng, nghe nói ông người Khất Đan bèn tất tưởi đi lên miền bắc. Y thấy trên giang hồ một tên du thủ du thực ném vôi sống làm mù mắt địch nhân, cảm thấy cách này có thể dùng được, nên cũng học theo tìm một gói vôi bột dắt trong người. Y ở biên giới chạy đôn chạy đáo để sao bọn quan binh Khất Đan đi gặt lúa bắt được thành ra mới gặp Tiêu Phong, có dịp ném bao vôi bột ra quả thực là cơ hội ngàn năm một thuở.
Y trong bụng nghĩ thầm: Việc trước mắt là chạy sao cho càng xa càng tốt đừng để y bắt lại được. Rồi mình sẽ tìm cách đi bắt một con rắn độc hay một con rết lớn, len lén vứt vào giường y, y vừa chui vào chăn là nó cắn chết tươi. Còn tiểu cô nương kia … còn tiểu cô nương kia, chao ôi, sao … sao mà có người đẹp thế!.

Y vừa nghĩ đến khuôn mặt A Tử, lồng ngực thấy nóng hổi, rồi mặt cũng bừng bừng chỉ còn nghĩ: Không biết đến bao giờ mình mới được gặp lại cô gái xinh đẹp có khuôn mặt xanh xao, thân hình ẻo lả kia.
Y cúi đầu rảo bước, chẳng mấy chốc đã vượt qua đoàn người vừa được Tiêu Phong thả ra. Có người tử tế gọi y nhập bọn đi chung, y cũng chẳng thèm để ý, cứ lầm lũi mà đi. Đi được hơn chục dặm, bụng đói đến kêu lên ùng ục, y đưa mắt nhìn ngang nhìn ngửa xem có gì ăn được không nhưng trên thảo nguyên ngoài cỏ khô và tuyết trắng ra chẳng còn gì khác nghĩ thầm: Nếu như mình là con bò, con cừu thì tốt biết mấy. Ăn cỏ uống tuyết thật sung sướng

bao nhiêu. Ôi, nếu như mình chỉ là một con cừu non, người ta đem cha mẹ mình hai con vật già ấy xẻ thịt ăn thì liệu mình có báo thù không nhỉ? Thù cha mẹ không đội trời chung, dĩ nhiên phải trả rồi. Thế nhưng báo thù cách nào đây? Lấy hai cái sừng húc gã đồ tể giết cha mẹ mình ư? Người ta nuôi bò nuôi cừu, vốn là để xẻ ra làm thịt ăn, sao lại nói đến chuyện trả thù được?.

Y nghĩ ngợi gần xa, lại cất bước đi, đột nhiên nghe tiếng chân ngựa lộp cộp, ba gã kỵ binh Khất Đan từ trên mặt tuyết chạy tới, vừa thấy y đã lớn tiếng reo hò. Một tên Khất Đan vung sợi dây thòng lọng trên tay ra, nghe soạt một tiếng quàng ngay vào cổ Du Thản Chi, kéo một cái sợi dây liền xiết lại. Du Thản Chi đưa tay toan gỡ, tên Khất Đan huýt một tiếng, con ngựa liền chạy tới. Du Thản Chi đứng không vững, ngã lăn ra, bị gã kia lôi đi xềnh xệch. Du Thản Chi kêu lên thảm thiết nhưng chỉ được mấy tiếng thì cổ họng đã bị dây thừng chẹn rồi, không còn ú ớ được nữa.

Tên Khất Đan cũng sợ y chết ngạt nên dừng cương lại. Du Thản Chi ở dưới đất cố gắng lồm cồm đứng lên, gỡ chiếc dây đang buộc nơi cổ. Gã Khất Đan kéo mạnh một cái, Du Thản Chi lảo đảo, lại ngã phịch xuống, ba tên Khất Đan cùng cười sằng sặc. Tên Khất Đan cầm sợi dây buộc cổ Du Thản Chi nói mấy tiếng nhưng y không hiểu được câu nào, chỉ biết lắc đầu. Gã Khất Đan vẫy tay một cái, lại giục ngựa chạy tiếp nhưng lần này không chạy nhanh. Du Thản Chi sợ bị xiết cổ lần nữa, không thở được nên đành đi hai bước lại chạy ba bước cho kịp.

Y thấy ba tên lính Khất Đan đi về hướng bắc, trong bụng chột dạ: -Tên khốn kiếp Kiều Phong miệng nói nghe thật dễ nghe, bảo thả mình về, vừa quay đi quay lại đã sai bộ thuộc bắt lại. Lần này bị bọn chúng bắt rồi, mạng mình còn sao được nữa?. Khi y bỏ nhà đi lên mạn bắc, trong bụng chăm chăm lo việc báo thù, chẳng biết trời cao đất dày là gì, nên khi gặp được Tiêu Phong, hình ảnh thê thảm của cha mẹ hiện ra trước mắt, cơn giận bùng lên, định dùng vôi bột ném mù mắt ông ta, rồi sẽ rút dao đâm ông chết. Thế nhưng tấn công mà không trúng, nhuệ khí tiêu tan, chỉ mong sao thoát thân, ngờ đâu lại bị lính Khất Đan bắt lại.

Khi trước y bị bọn lính Khất Đan đi gặt lúa bắt được, để lẫn trong đám đàn bà con gái, nữ nhân đi đứng không được nhanh, cước bộ của y cũng theo kịp nên không bị hành hạ mấy tí, ngoài một sống dao chém vào lưng lúc bị bắt mà thôi. Lần này thì khác hẳn, bước thấp bước cao, chạy lên chạy xuống, thở hồng hộc, chưa được mấy bước lại vấp một cái, mỗi lần vấp ngã xuống, dây thừng lại xiết vào sau ót một đường lằn. Gã kỵ binh Khất Đan nào có chịu ngừng, cũng chẳng thèm xem coi y còn sống hay đã chết, kéo y một mạch tới thành Nam Kinh. Vào trong thành rồi, Du Thản Chi người đầy máu me, chỉ

mong sao chết sớm chừng nào đỡ khổ chừng nấy.

Ba tên lính Khất Đan vào trong thành còn chạy thêm mấy dặm nữa, lúc ấy mới lôi y vào trong một tòa nhà to. Du Thản Chi thấy dưới đất lót toàn phiến đá xanh, cột cao cửa rộng, không biết là nơi nào. Ở ngoài cửa ngừng lại chưa đến thời gian uống một chén trà, tên kỵ binh kéo y vào trong một tòa đại sảnh, đột nhiên chúm môi huýt một tiếng, hai chân kẹp thúc mạnh, con ngựa liền chồm tới trước. Du Thản Chi đâu có ngờ gã kia vào trong viện rồi lại phóng ngựa chạy nhanh, nên chỉ được ba bước đã ngã lăn ra.

Tên lính Khất Đan luôn mồm giục ngựa, lôi Du Thản Chi chạy ba vòng trong tòa nhà đó, càng lúc càng nhanh, có thêm mấy chục tên quan binh đứng chung quanh hò hét trợ uy. Du Thản Chi nghĩ thầm: Thì ra y định kéo mình lê dưới đất cho chết. Trán, chân tay, thân thể y đụng vào đá dưới sàn, không chỗ nào không đau.

Trong tiếng reo vang của bọn quan binh Khất Đan, có lẫn tiếng cười trong trẻo của một thiếu nữ. Du Thản Chi trong cơn mơ mơ màng màng, loáng thoáng nghe cô gái cười nói: -Ha ha, cái diều người này e rằng không thả nổi.
Du Thản Chi tự hỏi: Diều người là cái gì thế nhỉ?. Ngay lúc đó y thấy dây buộc cổ xiết chặt, thân hình tung lên không, lập tức hiểu ra, tên lính Khất Đan kia cưỡi ngựa chạy cho nhanh để y bay bổng lên, làm như thả con diều bằng giấy. Y toàn thân lăng không, sau ót đau buốt, mồm miệng bị gió thổi vào thật ngộp thở, không còn biết gì nữa, lại nghe thiếu nữ kia vỗ tay reo lên: -Hay quá! Hay quá! Quả thực đã phóng được con diều người lên rồi.

Du Thản Chi nhìn ra phía có tiếng nói thấy người vỗ tay reo hò kia chính là cô gái xinh đẹp mặc áo tím. Y vừa thấy nàng lập tức ngực như bị chấn động mạnh, không biết nên buồn hay vui, thân hình trên không bay lạng vù vù không cách gì suy nghĩ được.

Cô gái mỹ miều kia chính là A Tử. Nàng thấy Tiêu Phong thả cho Du Thản Chi đi, trong bụng không vui, cưỡi ngựa đi được một quãng liền cố ý tụt ra sau, khẽ dặn tùy tòng quay lại bắt Du Thản Chi đem về nhưng không được để cho Tiêu đại vương hay biết. Bọn tùy tòng biết nàng được Tiêu Phong cực kỳ sủng ái, nên vui vẻ tuân lời, giả vờ sửa lại dây buộc yên ngựa, đứng lại ở triền núi, đợi Tiêu Phong và cả đoàn đi xa mới quay lại bắt Du Thản Chi.

A Tử trở về Nam Kinh liền đến nơi xa Tiêu Phong ở là Hựu Thánh Cung ngồi chờ. Đến khi bắt được Du Thản Chi về, nàng mới hỏi bọn Khất Đan xem có trò gì đánh đập, hành hạ tội nhân mới mẻ thú vị không. Có người đề nghị thả diều người, trò đó quả là hợp ý A Tử, nàng ra lệnh thi hành ngay, nên bọn chúng liền đem Du Thản Chi ra thả diều.

A Tử xem thấy thú vị quá, luôn mồm khen hay, nói: -Để cho ta thả diều một tí.

Nàng nhảy lên yên ngựa tên lính kia, cầm lấy dây thừng nói: -Ngươi xuống đi. Tên lính kia liền nhảy xuống ngựa để cho A Tử thả diều người. A

Tử cầm dây thừng giục ngựa chạy một vòng, miệng reo hò, suýt soa: -Thích quá! Thích quá!
Thế nhưng nàng bị thương mới đỡ, tay vẫn còn yếu, cổ tay chùng ra, chiếc thừng liền hạ xuống, nghe bình một tiếng, Du Thản Chi rơi bịch xuống một cái thật đau, lăn trên nền đá, trán va phải góc nhọn của bậc thềm, sứt thành một cái lỗ, máu chảy túa ra. A Tử cụt hứng, bực tức nói: -Cái thằng ngốc này sao nặng thế?

Du Thản Chi tưởng chừng ngất xỉu, nghe nàng trách mình thân thể nặng quá, đang định giãi bày mấy câu nhưng đau quá không nói thành lời. Một tên quân Khất Đan bước tới, cởi chiếc thòng lọng buộc trên cổ, một tên khác xé vải trên áo y, buộc qua quít vết thương, nhưng máu tươi vẫn tiếp tục chảy thấm ra ngoài, làm sao ngừng được?

A Tử nói: -Thôi thế được rồi, được rồi! Mình thả diều thêm lần nữa cho vui, càng cao càng thích.
Du Thản Chi không hiểu nàng nói tiếng Khất Đan những gì, nhưng thấy nàng hoa chân múa tay, chỉ lên trên cao xem ra không phải chuyện tốt lành. Quả nhiên một tên Khất Đan cầm chiếc dây thừng luồn dưới nách y, vòng một vòng để y khỏi bị xiết cổ ngộp thở, quát lên một tiếng: -Lên nào!

Y giục ngựa chạy cho nhanh, kéo lê Du Thản Chi dưới đất mấy vòng, rồi lại phóng lên. Sợi dây thừng trong tay tên lính Khất Đan mỗi lúc một dài thêm, thân hình Du Thản Chi cũng mỗi lúc một cao.
Tên lính Khất Đan đột nhiên buông tay, nghe vèo một tiếng, Du Thản Chi thật chẳng khác gì tên rời khỏi dây cung, bay vút lên trời. A Tử và các quan binh đều reo hò khen ngợi. Du Thản Chi thân hình tự nhiên bật văng lên không, trong bụng chỉ nghĩ được: Thôi lần này chết thật rồi!.

Khi sức văng đã hết, y đầu lộn xuống đất, chân chổng lên trời lao thẳng xuống, xem ra thể nào cũng lao vào nền đá xanh, bốn tên quan binh Khất Đan cùng tung thòng lọng ra, buộc chặt ngay hông y, cùng kéo ghì về bốn phía. Du Thản Chi khi đó đã ngất đi, nhưng bốn luồng lực đạo giữ y bông bênh giữa trời, chỉ còn cách đất chừng ba thước. Cái cảnh đó quả thực nguy hiểm cùng cực, trong bốn người chỉ cần một người ra tay hơi chậm, lực đạo không cân, đầu Du Thản Chi thể nào cũng rơi thẳng xuống vỡ sọ ngay. Người Khất Đan thường thường đem người Tống ra để làm trò vui, tù binh bị đem ra thả diều, mười người thì đến tám chín người chết. Nếu như ở ngoài thảo nguyên đất mềm, từ trên cao như thế đâm bổ xuống, ví như không vỡ đầu thì cũng gãy cổ chết như nhau. Trong tiếng hò reo, bốn tên lính Khất Đan hạ Du Thản Chi

xuống. A Tử lấy tiền, thưởng cho mỗi đứa năm lượng bạc. Các quan binh lớn tiếng tạ ơn, hỏi thêm: -Cô nương có còn muốn thêm trò vui gì nữa không?

A Tử thấy Du Thản Chi đã ngất xỉu, cũng chẳng biết y còn sống hay chết rồi, mới đây nàng thả diều, dùng sức quá độ, ngực ngâm ngẩm đau, không còn hơi đâu mà vui chơi thêm nữa bèn nói: -Vui thế đủ rồi. Gã tiểu tử này nếu chưa chết, ngày mai lại mang y đến cho ta, để ta nghĩ cách nào tiêu khiển. Tên này định ám toán Tiêu đại vương, không thể để y chết dễ dàng quá như thế được.
Các quan binh cùng vâng lời, lôi cổ Du Thản Chi mình mẩy đầy máu me ra.

Khi Du Thản Chi tỉnh lại, thấy một mùi ẩm mốc hôi hám xông thẳng vào mũi, mở choàng mắt ra thấy chung quanh tối đen như mực, không nhìn thấy một chút gì. Ý niệm đầu tiên y nghĩ đến là Không biết mình đã chết chưa? nhưng lập tức thấy toàn thân chỗ nào cũng đau nhức, cổ họng khô ran không sao chịu nổi liền rên lên mấy tiếng: -Nước! Nước! Thế nhưng nào có ai ngó ngàng gì đến y?

Y kêu được mấy tiếng, lại mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi, thấy nào bá phụ, phụ thân cùng Kiều Phong đại chiến, giết nhau đến máu văng đầy mặt đất, rồi mẫu thân ôm mình trong lòng, dịu dàng an ủi, bảo mình đừng sợ. Rồi kế đó A Tử hiện ra với khuôn mặt thật tú lệ, đôi mắt trong veo với quang thái thật lạ lùng. Khuôn mặt bỗng nhiên thu nhỏ lại, thành đầu một con rắn hình tam giác, lè chiếc lưỡi dài đỏ au, lộ hai chiếc nanh nhọn hoắt mổ vào người y. Du Thản Chi hết sức vùng vẫy nhưng không cách nào động đậy được, con rắn đó cứ day từng miếng thịt, trên tay, dưới đùi, cạnh cổ chỗ nào cũng cắn, khi đến trán lại càng đau hơn. Y thấy mình từng miếng thịt bị nhả xuống, muốn kêu toáng lên, nhưng không phát ra một tiếng nào …

Cứ như thế trằn trọc cả đêm, tỉnh dậy thì bị hành hạ đã đành mà trong giấc mộng cũng thật là khổ sở. Hôm sau hai tên lính Khất Đan lại áp giải y đến gặp A Tử. Cơn sốt đêm qua chưa lui, bước một bước lại ngã bổ nhào về trước. Hai tên lính Khất Đan chia nhau xốc hai bên, lớn tiếng chửi rủa, kéo lê y vào một tòa nhà lớn. Du Thản Chi tự hỏi: Không biết chúng đưa mình đi đâu? Đem mình đi giết chăng?. Đầu y mê mê mẩn mẩn, không thể nào suy tính gì được, thấy đi xuyên qua hai hành lang dài, đến trước một sảnh đường. Hai tên lính Khất Đan đứng ngoài cửa bẩm báo gì đó mấy câu, bên trong có tiếng một thiếu nữ đáp lại một tiếng, sảnh môn đẩy ra, lính Khất Đan liền đưa y vào.
Du Thản Chi ngẩng đầu lên, thấy trong sảnh trải một tấm thảm cực lớn, thêu hoa văn sặc sỡ, một thiếu nữ xinh đẹp ngồi trên một tấm nệm ngay đầu đằng kia, chính là A Tử. Hai bàn chân nàng để trần, để trên thảm. Du Thản Chi vừa nhìn thấy hai bàn chân nhỏ nhắn trắng trẻo, mịn màng như ngọc, mềm mại

như gấm của nàng lập tức tim đập thình thình, hai mắt đăm đăm dính chặt đôi chân, thấy tưởng chừng lưng đôi chân cô gái có phát ra ánh sáng, lờ mờ mấy đường gân xanh quả muốn chạy đến vuốt ve cho thỏa dạ.

Hai tên lính Khất Đan thả y ra, Du Thản Chi lảo đảo một hồi, sau cùng cũng gượng đứng được nhưng mục quang không lúc nào rời bàn chân A Tử, thấy mười đầu ngón chân nàng sơn màu hồng nhạt, trông chẳng khác gì mười cánh hoa.

A Tử cũng nhìn ra gã thanh niên xấu xí toàn thân đầy máu me, khuôn mặt nhăn nhúm, cằm vêu vao kia ánh mắt hau háu một vẻ thèm thuồng. Nàng nhớ lại một con sói đói mà nàng cùng hai sư huynh săn được khi còn ở biển Tinh Tú, nàng bắn trúng con vật một mũi tên nhưng chưa chết hẳn. Con vật đó bị trọng thương, mắt gườm gườm nhìn mình, lúc bấy giờ chẳng khác gì Du Thản Chi, dường như chỉ muốn xông lên cắn chết nàng, tuy không nhảy lên được, nhưng vẫn nhe hàm răng nhọn hoắt gầm gừ.

A Tử thích thú nhìn ánh mắt đầy dã tính đó, lại nghe tiếng gừ gừ nhưng chẳng làm gì được mình, tiếc rằng Du Thản Chi yếu đuối quá rồi, không phản kháng gì được nữa quả thực chẳng còn gì thú vị. Ngày hôm qua y ném túi vôi bột vào Tiêu Phong, lại không chịu quì lạy, ăn nói ra vẻ ngang tàng, không chịu nhận tiền của Tiêu Phong, A Tử thích thú lắm tưởng như bắt được một con thú dữ lợi hại. Nàng muốn hành hạ y cho người y bị thương nhiều như vẩy cá, để y mỗi khi bị thương lại muốn xông lên cắn mình một cái nhưng dĩ nhiên nàng không để cho y cắn trúng được.

Đến khi bắt được y làm cái diều người rồi, con dã thú này lại không chống cự, chết dở sống dở, thật chẳng có gì thích thú. Nàng hơi nhíu lông mày nghĩ thầm: Có cách nào mới mẻ để hành hạ y cho vui đây?.
Đột nhiên cổ họng Du Thản Chi phát tiếng hà hà, cũng không biết một luồng lực đạo từ đâu đến, y chẳng khác gì một con báo nhanh nhẹn lạ thường phóng đến A Tử, ôm chặt lấy bắp chân nàng, cúi đầu hôn hít lưng bàn chân cô gái. A Tử hoảng hốt, kêu toáng lên. Hai tên lính Khất Đan và bốn tì nữ phục thị A Tử cùng quát mắng, xông lên lôi gã ra.

Thế nhưng hai tay y cứ ôm chặt, chết cũng không buông. Tên lính Khất Đan vừa kéo một cái, kéo luôn cả A Tử tuột khỏi chiếc nệm bông, ngồi phệt xuống dưới thảm. Hai binh sĩ Khất Đan vừa sợ vừa tức, không dám kéo thêm nữa, một tên đấm lên lưng y mấy cú thật mạnh, còn một đứa thì đánh vào mặt. Người Du Thản Chi vẫn còn sưng vều, lại thêm cơn sốt chưa hết, thần trí mê loạn không khác gì một người điên, những gì đang gánh chịu dường như không biết đến. Y vẫn ôm chặt lấy chân A Tử, tiếp tục hôn chân nàng.

A Tử cảm thấy đôi môi vừa nóng hổi, vừa khô khan của y chạm vào chân mình,

trong bụng sợ lắm, lại thêm cảm giác nhột nhạt2 lạ lùng, đột nhiên kêu hoảng lên: -Ối trời! Y cắn ngón chân ta.

Nàng quay sang nói với hai tên lính Khất Đan: -Các ngươi mau ra chỗ khác, người này nổi cơn điên, ối chao, đừng để y cắn đứt ngón chân ta.
Du Thản Chi mơn man ngậm ngón chân cô gái, A Tử tuy không thấy đau nhưng lại sợ y bất thần cắn mạnh một cái, trong cơn gấp gáp, biết là không thể dùng sức mà xong, sợ hai tên lính đánh y, y không kể sống chết cắn một cái thì khốn.

Hai tên lính Khất Đan không biết làm sao, đành phải buông tay. A Tử lại kêu: – Đừng có cắn, ta tha ngươi khỏi chết, ối ối, ta sẽ thả ngươi ra.
Du Thản Chi bấy giờ tâm thần cuồng loạn, có còn biết nàng nói những gì? Một tên lính Khất Đan cầm chặt yêu đao, định bụng bất thần rút ra khỏi vỏ chém xuống ót y một nhát, chặt đứt đầu y, nhưng có điều y ôm chân A Tử chặt quá, một đao chém xuống lại sợ làm nàng bị thương cho nên ngần ngừ không dám. A Tử lại tiếp: -Này này, ngươi nào có phải là dã thú sao lại cắn người là sao? Mau nhả ra, ta sẽ sai người trị thương, thả ngươi trở về Trung Nguyên.
Du Thản Chi vẫn không lý tới nhưng răng không cắn xuống nên không làm nàng đau chút nào, hai tay vuốt ve lưng bàn chân, trong lòng lâng lâng bay bổng, thật chẳng khác gì một cánh diều đang lững lờ giữa từng mây.
Một tên lính Khất Đan chợt nảy ra một ý, xông vào bóp cổ Du Thản Chi. Du Thản Chi bị nghẹt thở, tự nhiên há mồm, A Tử vội vàng rụt chân lại, rút được ngón chân ra khỏi miệng y, đứng phắt dậy, lại sợ y nổi cơn điên cắn nữa, dấu hai chân vào sau tấm nệm. Hai tên lính Khất Đan liền giữ chặt Du Thản Chi, đấm liên tiếp vào ngực gã, đánh được độ mươi quyền, y oa oa há mồm hộc ra mấy ngụm máu, làm bẩn cả tấm thảm rực rỡ kia. A Tử quát: -Ngừng tay! Đừng đánh y nữa.

sau một trận kinh hoàng, nàng cảm thấy gã tiểu tử này có điều quái lạ thật vui nên không muốn đánh chết y ngay. Tên lính Khất Đan không đánh nữa, A Tử ngồi xếp bằng trên tấm nệm, để ngoặt hai bàn chân trần dưới mông, trong bụng tính toán: Có cách nào hành hạ y cho thật bõ nhỉ?.

A Tử ngửng đầu lên, thấy Du Thản Chi mắt vẫn chăm chăm nhìn mình, liền hỏi: -Ngươi nhìn ta làm chi?
Du Thản Chi vốn chẳng còn kể sống chết vào đâu liền đáp: -Cô nương đẹp quá đỗi, cho nên tôi thích nhìn.
A Tử bẽn lẽn nghĩ thầm: Tên tiểu tử này lớn mật thật, dám nói với ta những lời khinh bạc. Thế nhưng trong đời nàng, chưa bao giờ có một chàng trai nào dám ca tụng nàng đẹp ngay tận mặt. Khi nàng học nghệ ở phái Tinh Tú, chư sư huynh đều coi nàng là một cô bé con ngang ngược lanh lợi, còn khi đi cùng

với Tiêu Phong, nếu không sợ nàng gây chuyện thì cũng lo nàng chết bất ngờ, chưa bao giờ để ý xem nàng đẹp hay xấu.

Những lời ca ngợi sống sượng của Du Thản Chi, quả là xuất tự đáy lòng, nàng không khỏi vui sướng ngầm nghĩ thầm: Ta giữ y lại ở gần bên, thỉnh thoảng đem ra tiêu khiển cũng thích lắm. Có điều tỉ phu đã bảo là thả y về, nếu như biết ta sai người bắt lại ắt sẽ bực mình. Chỉ giấu được anh ấy hôm nay nhưng làm sao giấu được mãi. Nếu muốn tỉ phu không thể nào biết được thì làm gì đây? Không cho ai nói thì cũng còn được, nhưng nếu tỉ phu bất thần đi vào, bắt gặp y thì làm sao?.

Nàng trầm ngâm một hồi, bỗng chợt nghĩ tới: A Châu rất giỏi hóa trang, giả làm cha ta đến nỗi tỉ phu còn không nhận ra, ta đem tiểu tử này thay hình đổi dạng, anh ta sẽ không nhận ra được. Thế nhưng nếu y không tự nguyện, mình hóa trang y rồi y sẽ rửa sạch đi, trở lại hình dáng cũ thế thì có ích gì đâu?.
Đôi hàng mi cong của nàng hơi nhíu lại, lập tức tìm ra ngay, vỗ tay reo lên: – Hay lắm! Thật là hay! Cứ thế mà làm.
Nàng quay sang hai tên Khất Đan nói một hồi, hai tên lính đó có chỗ nào chưa rõ lại hỏi lại. A Tử giải thích thêm rồi gọi thị nữ lấy ra năm chục lượng bạc đưa cho họ. Hai tên Khất Đan cầm lấy, khom lưng hành lễ, xốc Du Thản Chi ra khỏi sảnh.

Du Thản Chi kêu lên: -Ta muốn ngắm nàng! Ta muốn ngắm cô gái xinh đẹp tàn ác kia.
Lính Khất Đan và thị nữ nào có hiểu tiếng Hán nên chẳng ai hiểu y đang nói gì. A Tử cười mủm mỉm nhìn theo sau lưng y, nghĩ đến chủ định thông minh của mình, càng thêm đắc ý.
Du Thản Chi bị đem trở về địa lao, vứt trên một đống cỏ khô. Đến chiều hôm đó, có người đem đến cho y một bát thịt cừu, vài cái bánh bao.
Cơn sốt của Du Thản Chi chưa hạ, luôn mồm lảm nhảm khiến gã kia sợ quá bỏ vội thức ăn xuống, chạy vội ra ngoài. Du Thản Chi không biết đói nên chẳng đụng tới thịt hay bánh bao.
Tối hôm đó có ba tên Khất Đan đi vào. Du Thản Chi thần trí mơ hồ, thấy vẻ mặt ba gã kia đầy vẻ quái đản, xem ra không phải tốt lành gì, chỉ mang máng biết là nguy đến nơi nên cố gắng lồm cồm đứng lên, tính chuyện đào tẩu. Hai gã Khất Đan xông đến đè nghiến y xuống, lật ngửa mặt lên. Du Thản Chi chửi toáng lên: -Quân Khất Đan chó má, chết đường chết chợ, đại gia sẽ băm vằm chúng bay ra.

Vừa tới đó, gã Khất Đan thứ ba bưng một cái gì trăng trắng, trông tựa như bông, lại giống như tuyết, dùng sức ập lên mặt y. Du Thản Chi thấy mặt mình vừa ẩm vừa mát, đầu óc tỉnh lại nhưng không thở nổi, nghĩ thầm: Thì ra bọn

chúng bịt chặt thất khiếu cho mình chết ngạt.

Thế nhưng xem chừng y đoán không đúng, gã kia lại châm cho thủng mũi mồm khiến y vẫn thở được nhưng mắt mở không ra, chỉ thấy mặt dính đầy thứ gì nhão nhoẹt, rồi ai đó nắn khắp mặt y, tưởng như trát lên một lớp bột nát. Du Thản Chi mơ mơ hồ hồ nghĩ thầm: Không biết tên ác tặc này dùng cách quái ác gì giết mình đây?.

Một hồi sau, lớp bùn mềm trên mặt được người ta nhẹ nhàng gỡ ra, Du Thản Chi mở mắt nhìn, thấy một khối bột mì in thành hình một mặt người, chính là vừa ở mặt mình ra. Tên Khất Đan đó trịnh trọng bưng cái vật đó, dường như sợ hư mất. Du Thản Chi lại chửi: -Đồ Liêu cẩu thối tha, chúng mày rồi sẽ chết không có đất mà chôn.

Ba gã Khất Đan không thèm để ý đến y, bưng cái khối bột nhão đó đi mất. Du Thản Chi chợt nghĩ ra: Đúng rồi, bọn chúng nó tô lên mặt mình một lớp thuốc độc, rồi chẳng bao lâu, mặt mình sẽ lở loét thối tha, da thịt vỡ nát, biến thành quỉ quái … Y càng nghĩ càng kinh, nghĩ thầm:

So với để bọn chúng hành hạ mình đến chết, chi bằng mình đập đầu chết còn hơn. Y bèn húc đầu vào tường, bình bình bình ba cái. Ngục tốt nghe tiếng vội vàng chạy vào, trói chặt chân tay y lại. Du Thản Chi đập đầu đã thành sống dở chết dở, nay đành nằm yên chịu vậy.

Qua luôn mấy ngày, mặt y không hề đau đớn, cũng không lở lói, nhưng y đã quyết ý chết, bụng tuy đói nhưng nhất định không ăn thức ăn ngục tốt mang vào. Đến ngày thứ tư, ba gã Khất Đan kia lại trở vào địa lao, lôi y đi. Trong cơn đau đớn, Du Thản Chi bỗng nảy ra một ý vị ngọt ngào, nghĩ thầm chắc A Tử sai đem mình ra xỉ vả đánh đập, tuy thân thể có phải khổ sở nhưng lại có cơ hội được nhìn khuôn mặt tú lệ kia, trên khuôn mặt nhăn nhúm thoáng hiện một nụ cười.

Ba tên Khất Đan dẫn y đi qua mấy ngõ hẹp rồi vào trong một căn nhà đá tối om om. Chỉ thấy lửa bập bùng chiếu sáng một bên vách đá, một gã thợ rèn gân guốc cởi trần, đứng bên cạnh một cái đe sắt lớn, đang xăm xoi xem một vật gì đen sì trên tay. Ba tên Khất Đan đẩy Du Thản Chi đến trước mặt người thợ rèn, hai người chia ra nắm hai tay y, còn một người giữ chặt sau lưng. Người thợ rèn nghiêng đầu qua, nhìn mặt y, lại đăm đăm nhìn vào vật trong tay, dường như muốn so sánh.

Du Thản Chi nhìn vào vật trên tay y, thấy đó là một cái mặt nạ bằng sắt mới đúc xong, trên có đục hai mắt mũi mồm bốn cái lỗ. Y còn đang suy nghĩ, không biết cái này để làm gì thì tên thợ rèn đã cầm mặt nạ lên, chụp vào mặt Du Thản Chi. Du Thản Chi tự nhiên hất đầu về sau tránh, nhưng sau ót đã bị người ta giữ chặt, không cách gì thoát được, chiếc mặt nạ liền áp vào mặt y. Y

cảm thấy trên mặt lạnh ngắt, da thịt chạm vào kim loại, mà kỳ lạ làm sao, cái mặt nạ đó thật khít khao kể cả mắt mũi mồm, tưởng chừng như chế riêng cho y vậy.

Du Thản Chi chỉ ngạc nhiên giây lát lập tức hiểu ngay nguyên do, một làn hơi lạnh chạy thẳng từ đỉnh đầu xuống xương sống: Chết rồi, cái mặt nạ này chính là để cho ta, hôm trước bọn chúng dùng bột mì nhồi thành khuôn. Bọn chúng làm cái mặt nạ sắt đó để làm gì? Không lẽ …

không lẽ … Y đã đoán ra cái dụng ý ác độc của người Khất Đan, nhưng để làm gì thì không biết, không còn dám nghĩ thêm chỉ hết sức vùng vẫy mong sao thoát ra được.
Người thợ rèn bỏ chiếc mặt nạ ra, gật gù tỏ vẻ hài lòng, rồi dùng một chiếc kìm lớn kẹp bỏ vào lò lửa nung cho đỏ lên, tay phải cầm búa, đập xuống choang choang. Y đập chiếc mặt nạ một lúc, đưa tay rờ rẫm xương gò má và trán Du Thản Chi, rồi sửa những chỗ chưa được hoàn toàn ăn khớp.

Du Thản Chi kêu lên: -Bọn Liêu cẩu trời đánh kia, các ngươi làm chuyện thương thiên hại lý, hung tàn ác độc thế này, ông trời sẽ giáng họa xuống tất cả chúng bay không được chết yên chết lành, đến cả bò ngựa nhà bay cũng chết nốt, con nít cũng chết non.
Y ngoác mồm chửi rủa nhưng người Khất Đan chẳng hiểu câu nào.

Gã thợ rèn đột nhiên quay phắt lại, hầm hầm nhìn y, cầm chiếc kìm sắt đang nóng đỏ, dí vào mắt y khiến Du Thản Chi sợ đến hét ầm lên.
Thế nhưng gã thợ rèn chỉ dọa y một mẻ, cười sằng sặc, rút chiếc kìm về, lại lấy ra một khối sắt hình cong ướm thử vào sau ót Du Thản Chi.
sau khi gõ cho vừa, tên thợ rèn bèn đem cả mặt nạ lẫn cái chụp hình bán cầu bỏ vào lửa nung cho đỏ, lớn tiếng nói mấy câu. Ba tên Khất Đan liền kéo Du Thản Chi lên bắt nằm trên một cái phản gỗ, để đầu y thò ra ngoài bìa. Lại có thêm hai người Khất Đan khác đến giúp, dùng sức giữ chặt đầu tóc y, khiến cho y không thể nhúc nhích. Năm người kẻ giữ chân người nắm tay, thử hỏi Du Thản Chi còn cục cựa làm sao được?

Tên thợ rèn kẹp chiếc mặt nạ nóng đỏ lên, ngừng lại một chút cho nguội bớt, quát lớn một tiếng, rồi áp lên mặt Du Thản Chi. Khói trắng xèo xèo bốc lên đồng thời mùi thịt cháy khét bay tứ tán. Du Thản Chi chỉ kêu lên được một tiếng rồi ngất xỉu. Năm tên Khất Đan lật người y lại, gã thợ rèn lại kẹp nửa đầu bên kia, để vào sau ót, hai mảnh bán cầu ráp lại thành một trái cầu sắt bao chặt đầu Du Thản Chi lại. Cái lồng sắt còn nóng lắm, đụng vào thịt liền đốt cháy thành một khối bầy nhầy. Gã thợ rèn đó là thiết công khéo léo vào bậc nhất ở thành Yên Kinh, hai nửa chiếc lồng sắt dính chặt làm một chỗ nào cũng thật khít khao.

Du Thản Chi chẳng khác gì rơi vào địa ngục, bị thiêu đốt trong vạn trượng lửa không biết bao lâu mới dần dần tỉnh lại nhưng trước mặt và sau ót đau đớn khôn cùng chịu không nổi, lại ngất đi. Cứ như thế ba lần tỉnh lại, ba lần ngất xỉu, y lớn tiếng kêu gào nhưng chỉ phát ra những tiếng ú ớ không ra tiếng người.

Y đành nằm yên cố gắng không suy nghĩ gì khác, nghiến răng cố chịu đựng nỗi đau đớn ở mặt và ót phải đến hơn hai giờ mới đưa được tay lên sờ thử, tay đụng phải vật gì vừa cứng vừa lạnh, biết ngay những gì mình đoán không sai, cái mặt nạ kia đã chụp lên đầu mình rồi. Trong cơn phẫn khích, y cố giằng nó ra nhưng cái lồng sắt đó đúc thật kiên cố, không hề suy suyển chút nào. Y càng nghĩ càng thêm tuyệt vọng nhịn không nổi khóc òa lên.

Thế nhưng dẫu sao y tuổi cũng còn trẻ, nỗi thống khổ tuy lớn lao nhưng rồi cũng chịu được không đến nỗi chết, qua mấy ngày sau vết thương dần dần se da, đau đớn cũng bớt, bụng cảm thấy đói. Y ngửi thấy mùi thịt cừu và bánh bao nhịn không nổi cầm lấy ăn. Lúc này y đã mò kỹ biết rõ chiếc lồng sắt ấy bao chặt đầu mình như thế nào, không thể nào thoát ra được, mấy ngày đầu nổi cơn cuồng nộ nhưng rồi cũng bình tĩnh lại, tự hỏi: Tên cẩu tặc Kiều Phong chụp lên đầu ta cái lồng sắt này, không biết có dụng ý gì?.

Y vẫn nghĩ tất cả đều do lệnh của Tiêu Phong làm sao có thể đoán ra rằng sở dĩ A Tử làm cái đầu sắt chính là che giấu để ông không nhận ra y.
Cái công trình đó, tất cả đều do đội trưởng Thất Lý theo lệnh A Tử mà thi hành.
Ngày ngày A Tử đều hỏi Thất Lý xem Du Thản Chi sau khi đeo cái lồng sắt tình hình ra sao, lúc đầu thì lo y chết sẽ mất vui, về sau biết y vẫn còn sống, trong bụng hết sức hoan hỉ. Hôm đó nàng nghe tin Tiêu Phong đi xuống Nam Giao duyệt binh liền bảo Thất Lý đem Du Thản Chi đến Đoan Phúc Cung. Gia Luật Hồng Cơ vì muốn cho Tiêu Phong vui lòng nên đã phong nàng là Đoan Phúc quận chúa, tòa Đoan Phúc Cung này là ban riêng cho nàng ở.

A Tử vừa nhìn thấy hình dạng Du Thản Chi liền cảm thấy một niềm vui vô bờ bến từ đáy lòng dâng lên, nghĩ thầm: Cái cách này của ta thật được việc. Tiểu tử này đeo cái mặt nạ thì tỉ phu dẫu có đứng trước mặt y cũng không thể nào nhận ra. Du Thản Chi lại đi tới mấy bước, A Tử vỗ tay khen ngợi nói: -Thất Lý, cái mặt nạ này đúc khéo quá, ngươi đem năm chục lạng bạc thưởng thêm cho gã thợ rèn.
Thất Lý đáp: -Vâng! Đa tạ quận chúa.

Du Thản Chi từ trong hai cái lỗ mắt nhìn ra, thấy A Tử mặt mày tươi rói, cực kỳ kiều diễm, lại được nghe tiếng nói thanh tao của nàng, không khỏi ngơ ngẩn như trời trồng. A Tử thấy y đội chiếc mặt nạ, thần tình quái lạ, nhưng mắt vẫm

đăm đăm nhìn mình nên cũng biết được bèn hỏi: -Này thằng ngốc kia, ngươi nhìn ta làm gì thế?
Du Thản Chi đáp: -Tôi … tôi … không biết nữa. Cô … cô nương đẹp quá.
A Tử mỉm cười: -Ngươi đeo cái mặt nạ đó, thích hay không thích?
Du Thản Chi hậm hực hỏi lại: -Thế cô nghĩ có thích hay không?
A Tử cười khanh khách đáp: -Ta không nghĩ ra.

Nàng thấy miệng trên cái mặt nạ của y chỉ mở một đường thật hẹp, miễn cưỡng có thể húp canh ăn cơm, còn như muốn ăn thịt thì phải dùng tay xé nhỏ mới đút vào được, có muốn cắn ngón chân mình thì cũng không được bèn cười nói: -Ta đeo cho ngươi cái mặt nạ đó để ngươi mãi mãi không thể nào cắn ta được.

Du Thản Chi trong lòng chợt mừng hỏi lại: -Cô nương sẽ cho tiểu nhân … cho tiểu nhân … được … luôn luôn ở gần bên hầu hạ hay sao?
A Tử đáp: -Hứ, ngươi là một tên tiểu tử xấu xa, ở gần bên lúc nào cũng tính chuyện hại ta thì sao mà chịu được.
Du Thản Chi đáp: -Tiểu nhân … tiểu nhân … nhất quyết không bao giờ hại cô nương.
Kẻ thù của tiểu nhân chỉ một mình Kiều Phong thôi.
A Tử nói: -Ngươi muốn hại tỉ phu ta ư? Thế thì cũng như hại ta vậy? Có khác gì đâu?
Du Thản Chi nghe nàng nói vậy thấy một nỗi chua xót dâng lên trong lòng, không biết phải trả lời sao. A Tử cười nói: -Ngươi muốn hại anh rể ta thật còn khó hơn lên trời. Này thằng ngốc, ngươi có muốn chết không?
Du Thản Chi đáp: -Lẽ dĩ nhiên tiểu nhân không muốn chết. Thế nhưng bây giờ trên đầu đeo cái đồ chết tiệt này, người không ra người, quỉ không ra quỉ, so với chết thì có khác gì bao nhiêu?
A Tử nói: -Nếu ngươi quả là thà chết sướng hơn, thì cũng được, ta sẽ giúp ngươi tròn tâm nguyện, có điều không phải muốn chết là chết ngay đâu. Ta chặt tay trái ngươi trước đã.
Nàng quay sang Thất Lý đang đứng hầu bên cạnh truyền lệnh: -Thất Lý, ngươi
đem y ra, chặt tay trái trước.
Thất Lý đáp lời: -Vâng!

Y đưa tay ra nắm lấy cánh tay Du Thản Chi. Du Thản Chi sợ quá kêu lên: – Đừng! Đừng! Cô nương, tiểu nhân không muốn chết, cô nương … cô nương đừng chặt tay tôi.
A Tử cười nhạt nói: -Ta đã nói rồi không lẽ không tính, trừ phi … trừ phi …
ngươi quì xuống khấu đầu.

Du Thản Chi còn hơi ngần ngừ, Thất Lý đã cầm tay y lôi đi. Du Thản Chi không

còn dám lần khân nữa, khuỵu hai đầu gối, lập tức quì xuống rập đầu, cái lồng sắt đập vào nền gạch, nghe boong một tiếng. A Tử cười khanh khách nói: – Tiếng khấu đầu sao dễ nghe quá, ta chưa từng nghe thấy bao giờ, ngươi sụp lạy ta thêm vài cái nữa xem nào.

Du Thản Chi là tiểu trang chủ của Tụ Hiền Trang, tuy học văn không được, học võ không thông, trong trang ai cũng biết y là loại ăn hại đái nát nhưng Du Ký có con lại chết non, Du Câu thì chỉ có một cậu con vàng con ngọc này, tiểu trang chủ nhất hô bách nặc3, từ nhỏ đã được nuông chiều tôn kính, có bị khinh khi như thế này bao giờ đâu? Y mới gặp Tiêu Phong vẫn còn một chút ngạo khí thà chết không chịu khuất phục nhưng mấy hôm nay, thân thể cũng như tâm linh đều bị những vết thương cực kỳ lợi hại, bao nhiêu hào khí của tuổi thanh niên đều tiêu tán không còn gì nữa, nghe A Tử nói như vậy, lập tức liên tiếp khấu đầu, leng keng vang dội, được vị cô nương trông như nàng tiên này khen mình sụp lạy dễ nghe, trong lòng thầm hoan hỉ.

A Tử nở một nụ cười duyên dáng nói: -Hay lắm! Từ nay ngươi phải vâng lời ta, không cưỡng lại thì không sao, bằng không ta sẽ chặt tay ngươi, nhớ không nào?
Du Thản Chi đáp: -Vâng! Vâng!

A Tử lại tiếp: -Ngươi đúng là một thằng ngu, ta cứu mạng ngươi, ngươi lại không biết ơn. Tiêu đại vương muốn băm vằm ngươi ra, ngươi không biết hay sao?
Du Thản Chi đáp: -Y là kẻ thù giết cha tôi, dĩ nhiên không thể tha tôi được.

A Tử nói: -Ông ta giả vờ tha ngươi ra, nhưng lại sai người đuổi theo bắt lại để băm ngươi ra thành tương. Ta thấy ngươi không đến nỗi tệ lắm, giết đi thật tội nghiệp, nên cố gắng che đậy cho ngươi. Thế nhưng nếu như Tiêu đại vương bắt gặp thì liệu ngươi có sống được hay chăng? Ngay cả ta cũng phải chịu liên lụy rất lớn.

Du Thản Chi lập tức hiểu ra bèn đáp: -À, thì ra cô nương đúc cái đầu sắt này cho tiểu nhân đội chính là vì có lòng tốt, cốt để cứu mạng cho tôi. Tiểu nhân … tiểu nhân thật là cảm kích, thật thế … hết sức cảm kích.
A Tử đánh lừa được y khiến cho y biết ơn mình nên rất đắc ý, mỉm cười nói: – Vì thế lần sau ngươi gặp Tiêu đại vương thì không được nói năng gì để ông ta không nhận ra tiếng ngươi. Nếu như ông ta biết được là ngươi, hừ, hừ, thì sẽ chặt ngay tay trái, một hồi sau lại chặt luôn tay phải.

Thất Lý, ngươi mau đem y ra thay đổi y phục Khất Đan, tắm cho y một cái chứ người đầy máu mủ tanh hôi, nặng mùi quá.
Thất Lý đáp lời dẫn y ra ngoài. Chẳng mấy chốc, Thất Lý lại đưa Du Thản Chi vào, đã thay đổi quần áo Khất Đan cho y. Thất Lý muốn A Tử vui lòng cố ý mặc

cho y thật sặc sỡ, nam chẳng ra nam, nữ chẳng ra nữ, trông như một thằng hề.

A Tử nhếch mép cười: -Để ta đặt cho ngươi một cái tên, gọi là … gọi là … Hề Sắt. Từ nay ta gọi Hề Sắt ngươi phải dạ nghe chưa. Hề Sắt! Du Thản Chi vội vàng đáp: -Dạ!
A Tử cực kỳ sung sướng, đột nhiên nghĩ ra một việc nói: -Thất Lý, nước Đại Lương bên Tây Vực có đem qua một con sư tử, phải không? Ngươi bảo huấn sư đem nó qua đây, lại gọi thêm mười vệ sĩ.
Thất Lý vâng lời ra ngoài truyền lệnh. Mười sáu tên vệ sĩ tay cầm trường mâu tiến vào trong điện, quay về phía A Tử khom lưng hành lễ, rồi đứng lên, mười sáu mũi giáo chĩa ra ngoài, bảo vệ chủ nhân. Chẳng mấy chốc đã nghe ngoài cửa điện có tiếng sư tử gầm, tám người đàn ông khỏe mạnh khiêng một cái chuồng bằng sắt lớn, trong chuồng là một con sư tử đực đi qua đi lại, chòm lông đuôi dài rủ xuống, răng nhọn vuốt sắc, thần tình thật là uy võ. Người luyện thú đi trước, tay cầm roi da.

A Tử thấy con sư tử đó thật là hung dữ đáng sợ, vui mừng nói: -Hề Sắt, mồm ngươi nói thì nghe hay lắm nhưng chẳng biết có thật hay không. Để ta thử xem cho biết, coi ngươi có nghe lời ta chăng. Du Thản Chi đáp: -Vâng!

Y vừa trông thấy con mãnh sư đã hoảng thầm, không biết có dụng ý gì nghe nàng nói thế, lập tức tim đập thình thình. A Tử nói: -Không biết chiếc lồng trên đầu ngươi có chắc chắn hay không, ngươi thử thò đầu vào trong chuồng cho sư tử cắn mấy cái, xem nó có cắn vỡ được cái lồng sắt đó hay không?

Du Thản Chi hoảng hốt ấp úng: -Cái đó … cái đó chẳng nên thử làm gì. Nếu nó cắn vỡ thì đầu tiểu nhân …
A Tử nói: -Cái đồ ngươi thật là vô dụng. Có một việc như thế mà cũng sợ, nam tử hán đại trượng phu thì phải xem cái chết như trở về nhà4 mới phải chứ. Ta xem chừng nó cắn không vỡ được đâu.
Du Thản Chi năn nỉ: -Cô nương, việc này đâu phải trò đùa, ví như nó cắn không vỡ, con súc sinh này lại làm cái lồng méo đi thì cái đầu tiểu nhân …
A Tử cười khanh khách nói: -Thì cùng lắm cái đầu ngươi cũng bị méo thôi. Tên tiểu tử này thật lắm chuyện, vốn dĩ ngươi cũng đâu có đẹp đẽ gì, dù đầu có méo thì cũng vẫn còn ở trong cái lồng có ai nhìn thấy đâu mà lo, sợ gì đẹp hay xấu.
Du Thản Chi vội đáp: -Tiểu nhân nào có thích đẹp hay không đẹp …

A Tử mặt sầm xuống nói: -Ngươi không nghe lời ta, được, thôi ta biết rồi. Ngươi có ý đánh lừa ta, vậy ta sẽ vứt ngươi vào trong lồng cho sư tử ăn thịt. Nàng dùng tiếng Khất Đan dặn dò Thất Lý, Thất Lý liền đáp: -Vâng!

Rồi lập tức xông lên nắm tay Du Thản Chi. Du Thản Chi nghĩ thầm:

Nếu như mình bị đẩy vào chuồng sư tử thì còn sống sao nổi, chi bằng nghe lời cô nương, đút cái đầu sắt vào thử, may nhờ rủi chịu. Y liền kêu lên: -Đừng kéo! Đừng kéo! Cô nương, tôi xin nghe lời.
A Tử cười nói: -Có thế mới ngoan ngoãn chứ! Ta bảo này, từ rày ta bảo ngươi

làm gì là phải làm ngay, đừng có lừng khừng để cô nương phải bực mình. Thất
Lý, đánh cho y ba chục roi.
Thất Lý đáp: -Tuân lệnh!

Y cầm chiếc roi da trong tay người dạy sư tử, nghe chát một tiếng đã quất vào lưng Du Thản Chi. Du Thản Chi đau quá, kêu lên oai oái. A Tử nói: -Hề Sắt, ta bảo này, ta sai người đánh ngươi là coi trọng ngươi đó.
Ngươi kêu toáng lên như thế tức là không thích ta đánh chứ gì?
Du Thản Chi đáp: -Tiểu nhân thích lắm chứ, đa tạ ân điển cô nương.
A Tử nói: -Thế thì được, đánh đi.

Thất Lý đánh chát chát luôn một chập mười roi, Du Thản Chi chỉ đành nghiến răng cố chịu, không dám hé răng, thế nhưng nhờ có chụp cái lồng sắt nên roi không đánh vào đầu, còn roi da đánh vào ngực bụng cũng đành phải ráng chịu. A Tử thấy y không kêu nữa cảm thấy vô vị nói: -Hề Sắt, ngươi bảo ngươi thích ta cho người đánh ngươi, phải không nào? Du Thản Chi đáp: -Chính thế!

A Tử nói: -Ngươi nói thế là thật hay giả? Hay chỉ là nói quấy nói quá để lừa ta?
Du Thản Chi đáp: -Đúng là thế, tiểu nhân nào dám đánh lừa cô nương.

A Tử nói: -Nếu quả là ngươi thích thú, sao không cười lên? sao không nói là được đánh thật sướng quá?
Du Thản Chi bị nàng hành hạ đến hết hồn hết vía, quên cả phẫn nộ, chỉ đành xuôi theo: -Cô nương đối với tiểu nhân thật là tử tế, lại sai người đánh thật là sướng đời.
A Tử nói: -Nói thế nghe được đấy, để thử xem sao.

Chát một tiếng, y lại bị thêm một roi, Du Thản Chi vội kêu: -Đa tạ ơn cứu mạng của cô nương, roi này đánh sướng lắm.
Chẳng bao lâu đã bị đánh hơn hai chục roi, tính cả trận đòn trước thì đã quá ba chục. A Tử xua tay nói: -Thôi hôm nay thế đủ rồi. Ngươi mau đút đầu vào chuồng ta coi.
Du Thản Chi toàn thân đau như dần, khập khiễng bước tới bên chuồng sư tử, nghiến răng đút đầu qua song sắt. Con sư tử thấy y dám tiến lên khiêu khích như thế, sợ quá giật mình lùi lại hai bước, lom lom nhìn chiếc đầu sắt một hồi, lại lùi thêm hai bước nữa, miệng gừ gừ ra oai. A Tử quát: -Bảo sư tử cắn đi, sao nó chưa cắn?

Gã dạy thú quát lên mấy tiếng, sư tử nhận được hiệu lệnh, liền chồm tới, há mồm ra, ngoạm vào đầu Du Thản Chi, tiếp theo là tiếng kèn kẹt răng sư tử cạ vào lồng sắt. Du Thản Chi nhắm chặt hai mắt, cảm thấy một luồng hơi nóng theo lỗ mắt, lỗ mũi, lỗ mồm phà vào, biết rằng đầu mình đã lọt thỏm trong mồm con mãnh thú, rồi sau ót và trán đau nhói lên.

Khi y bị chụp cái lồng sắt vào đầu, mặt mũi đầu tóc y đã bị chiếc lồng nóng đỏ đốt cháy, sau mấy ngày bắt đầu liền da, bây giờ lại bị sư tử cắn, bao nhiêu vết thương lại vỡ tung ra.
Con sư tử cố sức cắn mấy cái nhưng không được, ngược lại răng còn bị ê ẩm, bèn ra oai giơ chân phải lên chộp lên vai Du Thản Chi. Du Thản Chi đầu vai đau điếng, kêu A lên một tiếng. Con sư tử đột nhiên thấy vật trong mồm mình bỗng rống lên, kinh hoảng nhả đầu y ra, lùi về nép tại một góc lồng.

Gã dạy sư tử lớn tiếng quát tháo, giục sư tử xông đến cắn Du Thản Chi lần nữa. Du Thản Chi giận quá, đột nhiên vươn tay ra, chộp luôn ót gã huấn sư, đẩy mạnh một cái, dúi luôn đầu y vào trong chuồng sư tử, khiến gã kêu lên inh ỏi. A Tử vỗ tay reo hò nói: -Hay quá! Hay quá! Không ai được can thiệp, để hai đứa vật nhau xem ai sống ai chết.

Bọn lính Khất Đan đang định tiến lên nắm tay Du Thản Chi lôi ra, nghe A Tử nói thế đều đứng tại chỗ không động tĩnh gì. Gã dạy sư tử hết sức dãy dụa, nhưng dã tính của Du Thản Chi nổi lên, nói gì thì nói nhất định không buông. Gã huấn sư chỉ còn nước nhờ sư tử giúp mình, kêu lên: -Cắn! Cắn y ngay!

Con sư tử thấy y thúc giục, gầm lên một tiếng chồm tới. Con vật chỉ nghe chủ nhân bảo nó cắn đi, nhưng nào có biết cắn cái gì, hai hàm răng nhọn hoắt há ra ngoạm luôn một nửa đầu gã dạy thú, khiến cho máu lẫn óc tung tóe đầy mặt đất.
A Tử cười nói: -Hề Sắt thắng rồi!

Nàng bèn bảo sĩ binh đem cái xác gã dạy thú và lồng sư tử ra ngoài, nói với Du Thản Chi: -Thế là phải! Ngươi làm cho ta hoan hỉ, phải thưởng gì mới được! Thưởng cái gì đây nhỉ?
Nàng chống tay vào cằm nghiêng đầu suy nghĩ. Du Thản Chi nói: -Cô nương, tiểu nhân không mong cô thưởng tiền, chỉ cầu xin một việc. A Tử hỏi: -Ngươi cầu xin gì?
Du Thản Chi đáp: -Xin cô cho tiểu nhân được ở bên cạnh hầu hạ, làm đầy tớ cho cô nương.
A Tử ngạc nhiên: -Làm đầy tớ cho ta ư? sao lại thế? Có gì thích thú đâu? Ồ, ta biết rồi, ngươi định đợi Tiêu đại vương đến thăm ta, thừa cơ hạ thủ, báo thù cho cha mẹ chứ gì?
Du Thản Chi vội đáp: -Không! Không! Không phải thế đâu.

A Tử nói: -Không lẽ ngươi không định báo thù hay sao?

Du Thản Chi đáp: -Không phải không nghĩ đến, có điều một là báo thù không được, hai là không muốn để cô nương bị dính líu vào. A Tử hỏi: -Thế sao ngươi lại thích làm đầy tớ cho ta?
Du Thản Chi đáp: -Cô nương là tiên trên trời hạ phàm, là người đẹp nhất trong thiên hạ. Tiểu nhân … tiểu nhân … mong được ngày ngày trông thấy cô nương.
Câu đó cực kỳ vô lễ, ở vào tình trạng y lúc này, thì lại cũng thật là lớn mật. Thế nhưng A Tử nghe vào tai thì lại rất vừa ý. Nàng tuổi còn nhỏ, dung mạo tuy đẹp đẽ thật nhưng thân thể chưa trưởng thành, lại thêm trọng thương mới khỏi, tiều tụy xanh xao mà bảo là người đẹp nhất trong thiên hạ thì thật quá đáng, nhưng nghe một người vì nhan sắc mình mà đắm đuối như thế cũng không khỏi mở cờ trong bụng.

Nàng đang toan bằng lòng lời thỉnh cầu của Du Thản Chi thì bỗng nghe một tên cung vệ lên tiếng báo: -Đại vương đến thăm.
A Tử đưa mắt cho Du Thản Chi, hạ giọng hỏi: -Tiêu đại vương đến rồi kìa, ngươi có sợ không?
Du Thản Chi sợ đến mất vía nhưng vẫn run run nói cứng: -Không sợ!
Điện môn mở toang ra, Tiêu Phong mặc khinh cừu đai lỏng [5], chậm rãi đi vào. Ông vừa vào cửa điện đã thấy trên sàn đầy những máu tươi, lại thêm Du Thản Chi đầu đeo lồng sắt đứng đó, hình dáng hết sức lạ lùng bèn vừa cười vừa hỏi A Tử: -Hôm nay khí sắc cô trông tươi tỉnh lắm, lại có trò chơi gì mới chăng? Người này trên đầu đeo cái gì lạ thế?

A Tử cười đáp: -Bối cảnh xã hội đời Tống. Đây là người đầu sắt do nước Cao Xương bên Tây Vực tiến cống, tên là Hề Sắt. Đầu y cứng lắm, đến sư tử cắn còn không vỡ, anh coi nè, đây là vết răng sư tử đó.
Tiêu Phong coi kỹ chiếc lồng sắt, quả nhiên còn dấu răng mãnh thú thật. A Tử lại tiếp: -Tỉ phu, anh có cách gì gỡ cái lồng sắt này ra được không?
Du Thản Chi nghe nói thế, sợ đến hồn phi phách tán. Y đã từng chính mắt trông thấy thần dũng của Tiêu Phong một mình đấu với quần hùng Trung Nguyên, song chưởng đánh ra khiến cương thuẫn của cả bá phụ và phụ thân đều văng đi, nếu như muốn gỡ cái lồng trên đầu mình thì thật dễ như trở bàn tay. Khi bị người ta gắn chiếc lồng sắt vào đầu, y đau khổ thất vọng, đến bây giờ thì lại mong rằng cái lồng sắt đó sẽ mãi mãi ở trên đầu mình để Tiêu Phong không nhìn thấy bộ mặt thật.

Tiêu Phong giơ ngón tay búng nhẹ vào cái lồng sắt mấy cái, phát tiếng leng keng cười nói: -Cái lồng sắt này thật chắc chắn, thật tinh vi, làm hỏng thì uổng lắm.

A Tử nói: -Sứ giả nước Cao Xương nói rằng, gã đầu sắt này sinh ra mặt xanh nanh vàng, ba phần người, bảy phần quỉ, ai trông thấy cũng phải hoảng hồn tránh xa thành thử cha mẹ y mới đúc cái lồng này cho y đội để khỏi làm cho người khác tởn thần. Tỉ phu ơi, em muốn xem bộ mặt thực của y thế nào, có thực là kinh khủng dễ sợ hay không?
Du Thản Chi sợ quá run lẩy bẩy, răng đánh bò cạp kêu lách cách.

Tiêu Phong thấy y kinh hoảng dị thường bèn nói: -Gã này sợ đến mất vía, thôi đừng bửa đầu y ra làm chi. Người này từ nhỏ đội đã quen, nếu cố gắng lấy ra e rằng y không sống được.
A Tử vỗ tay reo lên: -Thế thì thật thú vị. Mỗi khi em thấy con rùa em đều bắt nó đem lột mai ra để xem rùa không mai có sống được không?
Tiêu Phong chau mày, nghĩ đến con rùa bị lột vỏ, quả là tàn nhẫn nói: -A Tử, sao ngươi lại cứ thích những trò tàn ác khiến cho người ta sống dở chết dở như thế?
A Tử hứ một tiếng nói: -Anh không thích em chứ gì? Em làm sao tốt được như chị A Châu?
Em mà được như chị A Châu thì đâu có đến nỗi mấy ngày anh không thèm đến thăm.
Tiêu Phong nói: -Làm cái chức khốn khổ Nam Viện Đại Vương này, suốt ngày bận tối tăm mặt mũi. Thế nhưng chẳng phải ngày nào ta cũng đến chơi với cô một lúc hay sao?
A Tử phụng phịu: -Chơi với cô một lúc? Hứ, chơi với cô một lúc? Em chẳng thích cái lối vờ vĩnh đến chơi với cô một lúc cho có chuyện của tỉ phu đâu? Giá như em là chị A Châu thì ắt hẳn anh luôn luôn ở bên cạnh em không rời một bước chứ đâu phải chỉ một lúc, nửa lúc mà thôi.

Tiêu Phong nghe nàng nói quả không sai nên không sao trả lời được, chỉ đành cười trừ nói: -Tỉ phu là người lớn, đâu có thích chơi đùa với trẻ con, sao em không kiếm một cô gái nhỏ tuổi nào để trò truyện giải sầu?
A Tử hậm hực đáp: -Trẻ con, trẻ con … em nào có còn là trẻ con nữa? Anh không thích chơi với em, sao còn đến đây làm gì?
Tiêu Phong đáp: -Ta đến xem cô đã khỏe chưa? Hôm nay uống mật gấu rồi chứ?
A Tử cầm chiếc nệm trên ghế quăng mạnh xuống đất, giơ chân đá một cái nói: -Trong lòng em không được vui, dù mỗi ngày uống hàng trăm cái mật gấu thì cũng chẳng khỏe được.
Tiêu Phong thấy nàng lại giở trò hờn mát, nếu là A Châu ông ắt sẽ dỗ dành để nàng bớt giận làm lành, còn cô bé điêu ngoa ác độc này thì càng nghĩ càng chán ghét nên chỉ nói: -Thôi em đi nghỉ đi thôi.

Ông đứng lên đi ra. A Tử nhìn theo sau lưng ông, ngơ ngẩn muốn khóc, chợt nhìn thấy Du Thản Chi, cơn giận bùng lên, bao nhiêu bực dọc muốn trút lên đầu y bèn quát: -Thất Lý, đánh thêm cho nó ba mươi roi nữa. Thất Lý vội đáp: -Vâng!

Y cầm chiếc roi lên. Du Thản Chi thất thanh kêu lên: -Cô nương, tôi làm lầm lỗi gì thế?
A Tử không đáp, vẫy tay nói: -Đánh mau!
Vút một tiếng, Thất Lý liền đánh xuống. Du Thản Chi lại kêu: -Cô nương, quả thực tiểu nhân phạm tội gì, xin cô cho biết để lần sau khỏi tái phạm.
Thất Lý cứ vút một roi rồi lại một roi nữa. A Tử nói: -Ta muốn đánh là đánh, ngươi không được hỏi là tội gì, không lẽ ta đánh sai hay sao? Ngươi hỏi là mình phạm tội gì ư? Thì chính vì ngươi hỏi cho nên ta mới đánh.
Du Thản Chi nói: -Tại cô nương đánh trước, tiểu nhân mới hỏi. Tôi chưa hỏi cô nương đã sai đánh rồi mà.
Vút một roi, lại vút vút vút thêm ba roi nữa. A Tử cười nói: -Ta đoán là ngươi sẽ hỏi cho nên ta sai người đánh trước. Quả nhiên ngươi hỏi thật, có đúng là ta liệu sự như thần hay không? Cái đó chứng minh là ngươi đâu có hết lòng hết dạ với ta. Cô nương bỗng nhiên muốn đánh người, nếu quả ngươi trung thành thì phải xông lên, tự động hiến thân cho ta đánh mới phải. Ngươi lầu bầu như thế đủ biết trong lòng không phục. Được rồi, ngươi không thích ta đánh, thì thôi không đánh cũng chẳng sao.

Du Thản Chi nghe nàng nói không đánh cũng chẳng sao mà sợ run lên, người nổi da gà, biết rằng A Tử sẽ nghĩ ra những hình phạt còn đau đớn khổ sở gấp mười lần đánh, chi bằng ngoan ngoãn chịu ba chục roi còn hơn, vội nói: -Tiểu nhân biết sai rồi! Cô nương đánh là đại ân đại đức, có ích cho thân thể tiểu nhân, xin cô nương đánh thêm nữa, càng nhiều càng tốt.

A Tử nở một nụ cười tươi như hoa nói: -Xem ra ngươi kể cũng thông minh nhưng ta đâu có để cho người khác giăng bẫy được, ngươi bảo đánh càng nhiều càng tốt là để cho ta cao hứng tha cho ngươi chứ gì?
Du Thản Chi đáp: -Nào có dám thế, tiểu nhân quả không dám giăng bẫy đánh lừa cô nương.
A Tử nói: -Thế ngươi bảo đánh càng nhiều càng tốt là phát xuất tự đáy lòng đấy chăng?
Du Thản Chi đáp: -Quả đúng như thế, chính là tâm nguyện của tiểu nhân.
A Tử nói: -Nếu đúng như vậy thì thôi ta cũng chiều ý ngươi. Thất Lý, đánh cho nó một trăm roi, y thích đánh cho thật nhiều.
Du Thản Chi sợ đến mất mật, nghĩ bụng: Đánh một trăm roi thì mạng mình còn sao nổi?. Thế nhưng việc đã đến nước này, dù y bảo mình không muốn,

nhưng người ta đánh là đánh cãi lại có ích gì đâu, nên đành lặng thinh không dám nói gì cả.
A Tử hỏi: -sao ngươi không nói gì cả? Có phải trong lòng không phục chứ gì?
Ta sai người đánh ngươi, ngươi thấy không công bình chăng?

Du Thản Chi đành gượng đáp: -Tiển nhân vui lòng thành khẩn, biết là cô nương đánh là do lòng tốt muốn thành toàn cho tiểu nhân. A Tử nói: -Thế sao ngươi không nói gì cả?
Du Thản Chi không còn cách gì trả lời, ngập ngừng một hồi rồi đáp: -Cái đó … cái đó … tiểu nhân nghĩ đến ơn đức cô nương nặng tày non, trong lòng cảm kích, không còn biết nói sao nữa, chẳng biết tương lai làm thế nào để báo đáp. A Tử nói: -Tốt lắm! Ngươi hỏi làm cách nào báo đáp ta ư? Mỗi roi ta đánh ngươi, ngươi lại thêm hận thù một chút nhớ kỹ trong lòng chứ gì.

Du Thản Chi liên tiếp lắc đầu: -Không! Không! Không đâu! Tiểu nhân nói báo đáp là nói chuyện báo đáp chân chính. Tiểu nhân một lòng một dạ mong được vì cô nương tan xương nát thịt, dẫu phải nhảy vào nước sôi, xông vào lửa bỏng cũng không từ.
A Tử nói: -Được, thế thì đánh đi.
Thất Lý vội đáp: -Vâng.

Nghe chát một tiếng, roi da đã quất xuống. Đánh đến hơn năm chục roi thì Du Thản Chi đau đến tê người, hai đầu gối nhũn đi, từ từ sụm xuống. A Tử cười khì khì đứng coi, chỉ đợi cho y mở miệng van xin một tiếng là nàng sẽ kết tội y nói láo, tăng thêm năm chục roi đòn. Có ngờ đâu lúc này Du Thản Chi đã nửa tỉnh nửa mê, chẳng còn biết gì nữa, chỉ rên khe khẽ nhưng không van xin câu nào. Đánh đến bảy chục roi thì y đã ngất xỉu, Thất Lý vẫn không nương tay, đánh cho đủ một trăm roi lúc đó mới ngừng.

A Tử thấy Du Thản Chi chỉ còn thoi thóp, chín chết một sống không khỏi cụt hứng. Nàng nghĩ đến thái độ của Tiêu Phong chẳng thèm để ý đến mình, trong bụng ấm ức nói: -Lôi y đi! Gã này chẳng có gì vui! Thất Lý, có trò chơi mới nào nữa không?

Du Thản Chi bị trận đòn đó phải dưỡng thương một tháng trời mới khỏi. Người Khất Đan thấy A Tử đã quên y rồi nên không lôi y ra hành hạ nữa, bỏ y vào ở chung với một đám người Tống bị bắt khác, bắt y phải làm những việc hạ tiện nặng nhọc hơn cả, dọn hố xí, rửa chuồng cừu, nhặt phân bò, phơi da thú chuyện gì cũng đến tay.

Du Thản Chi đầu đội cái lồng sắt nên ai ai cũng đem y ra chửi mắng làm trò cười, đến cả đồng bào người Hán cũng coi y như con quái vật.
Thế nhưng y việc gì cũng nhịn, tưởng như biến thành người câm. Người khác đánh chửi, y cũng không kháng cự, chỉ có khi nào có ai cưỡi ngựa đi qua thì

mới ngửng đầu lên nhìn, trong lòng khắc khoải duy nhất một chuyện: Không biết đến chừng nào cô nương mới gọi mình lên đánh đòn?. Y chỉ mong được nhìn thấy A Tử cho dù phải chịu roi vọt cũng cam lòng chứ tuyệt nhiên chưa bao giờ có ý định đào tẩu.

Cứ như thế hơn hai tháng trời, khí hậu ấm dần. Hôm đó Du Thản Chi theo mọi người ra phía nam thành Nam Kinh xúc đất khiêng gạch để đắp thêm cho tường thêm chắc chắn, bỗng nghe thấy tiếng chân ngựa lộp cộp, mấy người từ trong Nam môn đi ra, có tiếng cười trong trẻo nói: -Ô kìa, tên Hề Sắt còn sống nhỉ? Ta vẫn tưởng y chết ngỏm từ đời nào! Hề Sắt, ngươi lại đây.
Chính là tiếng của A Tử. Du Thản Chi ngày mong đêm nhớ, canh cánh mong tới giờ phút này, nghe tiếng A Tử gọi, hai chân như đóng chặt xuống đất, không sao di động được, chỉ thấy tim trong ngực đập thình thình, lòng bàn tay toát mồ hôi.

A Tử lại gọi: -Hề Sắt, đáng chết thực! Ta gọi ngươi lại đây, ngươi điếc hay sao?
Du Thản Chi lúc ấy mới đáp: -Thưa cô nương, vâng.

Y đi đến trước đầu ngựa của cô gái. A Tử trong lòng thật vui vẻ, cười nói: -Hề Sắt, sao ngươi chưa chết hả?
Du Thản Chi đáp: -Tiểu nhân vẫn mong … vẫn mong báo đáp ân điển cô nương mà chưa được nên không thể chết.
A Tử càng thêm vui, cười khanh khách mấy tiếng nói: -Ta đang đi tìm một đứa đầy tớ trung thành một lòng một dạ để làm một chuyện, chỉ sợ người Khất Đan chân tay vụng về làm hỏng việc, nếu ngươi chưa chết thì thật tốt quá. Ngươi đi theo ta.
Du Thản Chi đáp ngay: -Vâng!

Lập tức đi theo sau ngựa nàng. A Tử vẫy tay bảo Thất Lý và ba tên vệ sĩ Khất Đan quay trở về, không phải theo nữa. Thất Lý biết rằng nàng đã nói gì thì người khác không thể nào khuyên giải được, cũng may tên đầu sắt này nhút nhát khiếp nhược, đi theo nàng ắt không có chuyện gì xẩy ra bèn nói: -Xin cô nương sớm quay về phủ.

Bốn người bèn nhảy xuống ngựa đứng đợi bên cửa thành. A Tử giục ngựa chạy chậm chậm, đi chừng bảy tám dặm, càng lúc càng hoang dã rẽ vào một sơn cốc tối om om, gió lạnh từ một khe núi thổi qua khiến hai người da thịt như se lại.
A Tử nói: -Thôi, ở đây được rồi!

Nàng ra lệnh cho Du Thản Chi buộc ngựa tại một gốc cây rồi bảo: -Những chuyện ngươi trông thấy ngày hôm nay, không được tiết lộ cho ai một tí gì, ngay cả với ta cũng không được đề cập tới, nhớ chưa? Du Thản Chi vội đáp: -Vâng! Vâng!

Trong bụng vui muốn phát điên, A Tử chỉ cho một mình mình đi theo, đến một nơi hẻo lánh như thế, dẫu cho nàng có đánh cho y một chập thật đau thì cũng vẫn còn cảm thấy ngọt như đường. A Tử cho tay vào bọc lấy ra một chiếc đỉnh nhỏ bằng gỗ màu vàng sậm, để trên mặt đất nói: -Lát nữa nếu có côn trùng gì quái lạ bò ra, ngươi không được la lối om sòm, nhất định không được lên tiếng nghe chưa?
Du Thản Chi vội vàng đáp: -Vâng!

A Tử lại cho tay vào túi lấy ra một cái gói vải nhỏ, mở ra thấy có mấy cục hương liệu màu vàng, màu đen, màu tím, màu đỏ. Nàng bẻ mỗi cục một miếng nhỏ, bỏ vào trong đỉnh, dùng hỏa đao, hỏa thạch đánh lên châm lửa đốt, sau đó đậy nắp lại nói: -Mình ra dưới gốc cây kia ngồi rình xem.

A Tử ngồi dưới gốc cây, Du Thản Chi đâu dám ngồi bên cạnh nàng, ra một tảng đá dưới chiều gió. Gió lạnh hiu hiu, trong hơi gió có thoang thoảng mùi thơm từ người nàng bay ra, Du Thản Chi không khỏi mê mẩn tâm hồn, thấy rằng được một lúc như thế này, bao nhiêu khổ sở dày vò y phải chịu những ngày qua kể cũng không uổng. Y mong sao A Tử vĩnh viễn ngồi dưới gốc cây, còn mình được đời đời kiếp kiếp ở nơi đây hầu bên cạnh.

Y còn đang say sưa lãng đãng, bỗng nghe thấy có tiếng loạt soạt, một vật gì đỏ chót đang động đậy trong bụi cỏ xanh, chính là một con rết thật lớn, toàn thân lấp lánh, trên đầu lồi ra một cái bướu nhỏ, trông khác xa những con rết thường.

Con rết đó ngửi thấy mùi hương trong mộc đỉnh lập tức trườn tới, chui theo cái lỗ dưới chiếc đỉnh mà vào rồi không thấy ra nữa. A Tử lấy trong bọc ra một vuông gấm dày, rón rén tới gần, chụp mảnh gấm lên trên chiếc đỉnh bao lại thật chặt sợ con rết chui ra mất rồi bỏ vào trong chiếc bao da treo bên cổ ngựa cười nói: -Thôi đi!

Nàng lập tức lên ngựa khởi hành. Du Thản Chi lẽo đẽo theo sau nghĩ thầm: Cái tiểu mộc đỉnh đó thật là kỳ quái, nhưng chắc hẳn là vì đốt hương liệu mà dụ được con rết đó chui vào. Không biết con rết đó có cái gì vui mà cô nương lại lận đận vào tận trong sơn cốc để bắt nó?.

A Tử về đến Đoan Phúc Cung sai thị vệ dọn một cái phòng nhỏ ở bên cạnh làm nơi ở cho Du Thản Chi. Du Thản Chi mừng quá, biết rằng rồi đây mình sẽ được gặp A Tử luôn. Quả nhiên sáng hôm sau, A Tử đã sai gọi Du Thản Chi đến, dẫn y vào bên cạnh điện, tự tay đóng cửa, trong điện chỉ còn hai người. A Tử sang phía tây lấy một chiếc hũ bằng sành, mở nắp ra cười nói: -Ngươi xem này, coi có hùng tráng không?

Du Thản Chi thò đầu vào nhìn, thấy chính là con rết bắt được hôm qua đang chạy lăng quăng trong đó. A Tử lấy ra một con gà trống đã để san bên cạnh,

rút đoản đao chặt đứt mỏ và cựa, vứt vào trong hũ. Con rết kia liền nhảy lên đầu con gà cắn cổ hút máu, chẳng bao lâu con gà trúng độc chết liền. Mình con rết từ từ căng lên, cái đầu màu đỏ tưởng như muốn bật máu ra. A Tử vẻ mặt đầy vui sướng nói nhỏ: -Thành rồi! Thành rồi! Môn công phu này có thể luyện thành công được rồi!

Du Thản Chi nghĩ thầm: Thì ra cô đi bắt rết là để luyện một môn công phu. Công phu đó chắc tên là Ngô Công Công. Cứ như thế nàng nuôi nó bảy ngày, mỗi ngày cho con rết hút máu một con gà trống lớn.
Đến ngày thứ tám, A Tử lại gọi Du Thản Chi vào trong điện, cười hì hì hỏi: -Hề Sắt, ta đối với ngươi thế nào?
Du Thản Chi đáp: -Cô nương đối đãi tiểu nhân ơn nặng tày non.
A Tử hỏi thêm: -Ngươi từng bảo sẽ vì ta tan xương nát thịt, nhảy vào nước sôi, xông vào lửa bỏng cũng không từ, cái đó thực hay giả thế?
Du Thản Chi đáp: -Tiểu nhân chẳng dám nói láo cô nương. Cô nương sai bảo chuyện gì tiểu nhân nhất định không từ chối.
A Tử nói: -Thế thì hay lắm. Để ta nói cho ngươi hay, ta muốn luyện một môn công phu nhưng phải có người giúp mới xong được. Ngươi có bằng lòng giúp ta luyện công không? Nếu như luyện thành rồi, ta thể nào cũng trọng thưởng cho ngươi.

Du Thản Chi đáp: -Tiểu nhân đương nhiên nghe cô nương bảo gì làm nấy, chẳng cần phải thưởng.
A Tử nói: -Thế thì hay lắm, mình luyện công được rồi.
Nàng ngồi xuống xếp bằng, hai tay xoa vào nhau, nhắm mắt vận khí, một hồi sau mới nói: -Ngươi thò tay vào trong hũ, con rết đó thể nào cũng cắn ngươi, ngươi giá nào cũng không được động đậy, phải để cho nó hút máu, càng nhiều càng tốt.

Bảy ngày qua ngày nào Du Thản Chi cũng thấy con rết đó hút máu gà, chỉ giây lát, một con gà trống đang khỏe mạnh đã ngã ra chết ngay, đủ biết con rết này độc kinh khủng, nghe A Tử bảo thế, không khỏi ngần ngừ không trả lời. A Tử mặt sầm xuống hỏi lại: -Chờ gì nữa? Ngươi không muốn làm hay sao? Du Thản Chi đáp: -Không phải không muốn, có điều … có điều …

A Tử ngắt ngang: -Cái gì? Có điều con rết này độc tính lợi hại, ngươi sợ chết chứ gì?
Ngươi là người hay ngươi là gà trống?
Du Thản Chi đáp: -Tiểu nhân không phải là gà trống.

A Tử nói: -Đúng thế, gà trống bị rết hút máu thì chết, ngươi không phải là gà, sao lại chết được? Ngươi bảo san lòng vì ta nhảy vào nước sôi, xông vào lửa bỏng, tan xương nát thịt, vậy mới để rết hút có một chút máu thì đã gọi là tan

xương nát thịt hay chưa?

Du Thản Chi ứ họng không trả lời được, ngẩng đầu nhìn A Tử, thấy nàng khóe miệng hơi trĩu xuống ra chiều khinh miệt, lập tức ý loạn tình mê như bị ma nhập liền khẳng khái đáp: -Được, tiểu nhân nghe lời sai bảo của cô nương.
Y nghiến chặt hàm răng, nhắm mắt lại, tay phải chầm chậm thò vào trong cái chóe. Bàn tay y vừa lọt vào trong hũ, đầu ngón tay giữa liền bị đau nhói như kim chích khiến y nhịn không nổi rụt tay lại. A Tử kêu lên: -Giữ yên đó! Không được động đậy!

Du Thản Chi cố gắng chịu đựng, mở mắt ra, thấy con rết kia đang cắn đầu ngón tay giữa của mình hút máu. Du Thản Chi toàn thân nổi gai ốc, chỉ muốn kéo tay ra vẩy cho con rết rơi xuống lấy chân đạp cho chết.
Thế nhưng tuy y không quay đầu lại cũng biết đôi mắt sắc như dao của A Tử đang nhìn sau lưng mình, chẳng khác gì hai lưỡi kiếm đâm tới thì làm sao dám cử động?
Cũng may khi con rết hút máu không đau lắm chỉ thấy con vật từ từ phồng lên, còn đầu ngón tay giữa của Du Thản Chi thì mờ mờ phủ một lớp màu tím thẫm. Màu tím đó từ nhạt chuyển sang đậm, rồi từ từ biến thành màu đen, một lát sau, từ ngón tay lan sang bàn tay, rồi chạy lên cánh tay.

Du Thản Chi lúc này không còn coi sống chết vào đâu, ngược lại còn thản nhiên như không, mép nở một nụ cười, có điều nụ cười đó giấu sau tấm mặt nạ thép nên A Tử không nhìn thấy được.
A Tử hai mắt đăm đăm nhìn con rết, hết sức chăm chú không dám sao nhãng chút nào. sau cùng con rết nhả tay Du Thản Chi ra, nằm bất động dưới đáy hũ. A Tử kêu lên: -Ngươi nhè nhẹ bắt con rết bỏ vào mộc đỉnh cho ta, cẩn thận đó, đừng làm nó tổn thương.

Du Thản Chi y lời nhặt con rết lên, bỏ vào trong chiếc tiểu mộc đỉnh để ở trước cẩm đôn. A Tử liền đóng nắp lại, chỉ trong giây lát, từ trong chiếc lỗ có những giọt máu đen nhỏ ra. A Tử vẻ mặt vui mừng, vội đưa tay hứng máu đó, ngồi xếp bằng vận công, hút những giọt máu độc đó vào trong lòng bàn tay. Du Thản Chi nghĩ thầm: Đây là huyết dịch của ta, bây giờ đi vào trong người nàng. Thì ra cô nương đang luyện Ngô Công độc chưởng.

Một lúc lâu sau, máu đen từ chiếc đỉnh đã chảy ra hết, A Tử mở nắp ra thấy con rết kia đã chết rồi. A Tử hai tay xoa vào nhau, nhìn lại bàn tay thấy chẳng khác gì bạch ngọc không một tì vết, cũng không có vết máu, biết rằng phương pháp luyện công nàng nghe lóm được của sư phụ không sai chút nào, trong bụng sung sướng, bưng chiếc một đỉnh lên, trút con rết ra rồi hấp tấp ra khỏi điện, chẳng thèm nhìn nhõi gì đến Du Thản Chi, coi y không khác gì con rết chết, không còn dùng vào việc gì được nữa.

Du Thản Chi nhìn theo sau lưng A Tử cho tới khi nàng đi khuất, lúc ấy mới cởi áo ra xem thấy sắc đen đã lan lên tới nách, đồng thời cả cánh tay ngứa ngáy khó chịu, chỉ giây lát đã tưởng chừng như có muôn ngàn con rận cùng cắn một lượt.

Y kêu rầm lên, nhảy choi choi, đưa tay gãi, nhưng càng gãi thì càng ngứa, tưởng như từ trong xương tủy, phế phủ đều có sâu bọ chui vào, ngo ngoe ngọ ngoạy khắp nơi. Đau thì có thể chịu đựng nhưng ngứa lại thật khó mà nín nhịn. Y nhảy lên nhảy xuống, vừa nhảy vừa kêu, lấy chiếc đầu sắt húc mạnh vào tường, nghe kêu boong boong, chỉ mong mình ngất đi, mất hết tri giác, để khỏi phải chịu cái cơn ngứa ngáy kinh khủng này.

Đập đầu thêm mấy cái nữa, nghe cạch một tiếng, cái gói bằng vải dầu từ trong bọc rơi ra, lộ ra một cuốn sách bìa đã vàng, chính là bản kinh thư bằng tiếng Phạn hôm nọ y nhặt được. Lúc này trong cơn ngứa ngáy kịch liệt, y cũng chẳng nghĩ tới chuyện nhặt lên làm gì, chỉ thấy cuốn sách mở tung. Du Thản Chi toàn thân khó chịu, lăn lộn dưới đất vùng vẫy như con cá mắc lưới. Một lúc sau, y chỉ còn nằm gục một chỗ thở hồng hộc, nước mắt, nước mũi, nước dãi từ các chỗ hổng trên chiếc lồng sắt chảy ra, rơi cả xuống cuốn kinh chữ Phạn. Trong cơn mơ màng, y thiếp đi không biết bao lâu, cuốn sách dính đầy dãi nhớt, không hiểu vì sao bỗng từ trên những hàng chữ cong cong quẹo quẹo, hiện ra hình của một nhà sư. Tăng nhân đó tư thức cực kỳ quái dị, đầu cúi xuống chui qua háng thò ra ngoài, hay tay đưa xuống nắm hai cổ chân.
Y nào còn tâm trí đâu mà xem hình thế cổ quái trong sách, chỉ thấy người ngứa ngáy tưởng chừng thở không nổi, đành lăn ra đất, cào gãi lung tung, xé vụn quần áo đang mặc trên người để cọ da thịt lên nền đá cho đỡ ngứa, chỉ chốc lát da dẻ đã rướm máu. Y lăn qua lộn lại ma sát như thế, đột nhiên vô ý sao, đầu chui tọt vào giữa hai bắp đùi. Đầu y có mang cái rọ sắt, trong cơn gấp gáp không rút lại được, giơ tay tính đẩy trở ra, tay phải quều quào sao nắm ngay cổ chân. Đến lúc đó Du Thản Chi đã mệt ngất ngư chẳng còn hơi sức gì nữa, không thể động đậy, chỉ đành nghỉ một chốc thở vài hơi, vô tình sao nhìn thấy cuốn sách mở dưới đất, trong sách vẽ hình một nhà sư gầy gò, tư thức cũng na ná như y đang làm, trong bụng vừa kinh dị lại cảm thấy tức cười. Kỳ quái làm sao, y theo tư thức này, tuy thân thể vẫn còn ngứa ngáy như cũ nhưng hơi thở đã dễ dàng hơn, thành thử cũng không vội chui đầu ra khỏi háng, mà đành nằm phục dưới đất như hình vẽ, tay trái cũng đưa ra nắm luôn cổ chân phải, cằm chống xuống đất. Thế là y và đồ hình của nhà sư trong sách hoàn toàn giống nhau, hơi thở lúc này đã dễ dàng hơn nhiều.
Y nằm phục như thế, đôi mắt để gần ngay cuốn sách, nhìn vào tăng nhân thấy ở bên cạnh nhà sư có hai chữ màu vàng cực lớn, hình dáng quái lạ cong cong

quẹo quẹo, nhưng trong nét bút lại có vô số những mũi tên đỏ nhỏ xíu bắn ra. Du Thản Chi lúc này đang nằm gục xuống hết sức mỏi mệt nên buông tay ra đứng lên. Y vừa đứng dậy, lập tức lại ngứa đến ngạt thở, vội vàng lại cúi xuống chui đầu vào giữa hai đùi, hay tay nắm cổ chân, cằm chống xuống đất. Chỉ có tư thế cổ quái đó y mới lại thấy dễ chịu mà thôi.

Du Thản Chi không dám động đậy gì nữa, một lúc sau không có việc gì làm, đưa mắt nhìn nhà sư vẽ trên sách rồi nhìn qua hai chữ quái dị ở bên cạnh đồ hình. Y xem những mũi tên trên hai chữ đó, tự nhiên đưa mắt theo những đầu mũi tên quan sát nét bút, bỗng thấy những chỗ ngứa trên tay phải biến thành một luồng khí ấm, từ cổ họng chạy xuống ngực bụng, chạy quanh vài vòng theo hai vai lên đỉnh đầu rồi chầm chậm biến mất.

Y thử nhìn vào đầu mũi tên trên hai chữ quái dị vài bận, lần nào cũng có một luồng khí ấm chạy lên trên óc, còn cánh tay thì lại bớt ngứa đi một chút. Du Thản Chi kinh ngạc nhưng chẳng hơi đâu nghĩ đến nguyên nhân vì sao, cứ theo thế mà làm đến hơn ba chục lần thì cánh tay chỉ còn hơi ngứa, làm thêm mươi lần nữa, ngón tay, lòng bàn tay, cánh tay không chỗ nào còn cảm giác gì khác lạ.

Y rút đầu ra khỏi hai đùi, giơ tay xem, hắc khí trên bàn tay đã hoàn toàn biến mất, y vui mừng khôn xiết đột nhiên kinh hoảng kêu lên: -Chết rồi, không xong. Chất kịch độc của con rết đều chạy lên óc cả rồi.
Thế nhưng lúc đó cơn ngứa quái lạ kia đã hết, y nghĩ thầm nếu sau này có chuyện gì thì cũng không đến nỗi nào. Du Thản Chi tự hỏi: Cuốn sách này rõ ràng nào có hình vẽ gì đâu, sao tự nhiên lại có một hòa thượng cổ quái hiện ra? Ta chỉ vô ý sao lại thành tư thế giống hệt như nhà sư này? Nhà sư này hẳn là bồ tát đến cứu mạng ta đây. Y bèn quì xuống đất, cung kính khấu đầu trước vị quái tăng trong quyển sách, chiếc lồng sắt gõ xuống đất kêu boong boong.
Y nào có biết hình trong quyển sách vẽ bằng một chất thảo dược pha với nước, khi ướt thì hiện ra, còn khô thì biến mất, thành thử cả A Châu lẫn Tiêu Phong đều không nhìn thấy. Thực ra tuyến lộ luyện công của hình vẽ trong quyển sách đều có chú thích rõ ràng ở bên cạnh, những nhà sư Thiếu Lâm thời trước biết chữ Phạn tuy không biết bí mật của đồ hình vẫn theo đúng lời chỉ bằng chữ luyện thành Dịch Cân Kinh thần công. Du Thản Chi khi bị cơn ngứa kỳ quái không chịu nổi kia, nước mắt ràn rụa rơi xuống trang sách nên làm hình vẽ hiện ra. Đây là một môn diệu pháp trong việc hóa giải ma đầu từ bên ngoài xâm nhập, là bí thuật trong phép Du Già6 của Thiên Trúc thời cổ.

Y đột nhiên làm được tư thức đó cũng chẳng phải ngẫu nhiên xảo hợp mà ăn nhanh thì nghẹn, ăn quá thì ói. Trong khi y bị ngứa quá đỗi, đầu chúi xuống đất cũng là tự nhiên không có gì lạ, có điều nước mắt y chảy vào đúng quyển

sách thì cái đó mới thật khéo làm sao. Y ngơ ngẩn một hồi, mệt mỏi quá lăn ra đất ngủ thiếp đi.

Sáng sớm hôm sau khi y còn chưa trở dậy, A Tử hấp tấp đi vào trong điện thấy y trần truồng nằm đó, kêu lên một tiếng hỏi: -sao ngươi còn chưa chết? Du Thản Chi kinh hãi ấp úng: -Vì … tiểu nhân … tiểu nhân còn sống.
Y trong lòng chua xót: Thì ra cô nương mong ta chết cho rồi. A Tử nói: -Ngươi chưa chết thì càng hay. Mau đi kiếm quần áo mặc vào theo ta đi bắt độc trùng lần nữa.
Du Thản Chi đáp: -Vâng!

Đợi cho A Tử đi ra khỏi điện, y mới đi kiếm mấy tên lính Khất Đan hỏi xin quần áo. Binh sĩ Khất Đan thấy quận chúa có vẻ tử tế với y hơn một chút liền đi kiếm một bộ quần áo khô sạch cho y mặc.
A Tử dẫn Du Thản Chi đến một nơi hoang dã, lại dùng Thần Mộc Vương Đỉnh để bắt độc trùng, dùng máu gà để nuôi, sau đó lại cho hút máu Du Thản Chi rồi dùng để luyện công. Lần thứ hai là một con nhện màu xanh, lần thứ ba là một con bò cạp lớn. Du Thản Chi lần nào cũng theo đúng đồ hình trong quyển sách hóa giải chất độc.

Năm xưa A Tử nhìn trộm sư phụ luyện thần công, lần nào cũng thấy có người chết, đều là dân chúng trong vùng bị đệ tử bản môn theo lệnh sư phụ đi bắt về, nên tưởng Du Thản Chi trúng độc thể nào cũng chết, ngờ đâu thấy y vẫn bình thường, không khỏi lấy làm lạ.

Cứ như thế liên tiếp bắt độc trùng luyện công, ba tháng sau, chung quanh thành Nam Kinh trong vòng hơn mười dặm độc vật càng lúc càng hiếm, những con bị hương khí dụ được toàn là con nhỏ bé yếu đuối, không vừa ý A Tử chút nào. Hai người đi bắt độc trùng càng lúc càng phải đi xa hơn.

Hôm đó họ đi về hướng tây thành Nam Kinh hơn ba chục dặm, A Tử đốt hương trong mộc đỉnh rồi, chờ đến hơn một giờ, mới nghe tiếng sột soạt trong cỏ, xem ra có rắn rết gì đây. A Tử kêu lên: -Nằm xuống!
Du Thản Chi y lời nằm mọp xuống, thấy tiếng động càng lúc càng lớn, xem ra không phải bình thường. Tiếng động lạ đó kèm theo một mùi tanh hôi khiến người ta muốn mửa. Du Thản Chi nín hơi không cử động, thấy đám cỏ cao rẽ ra, một con đại mãng xà7 mình trắng vằn đen lượn mình bò tới. Đầu con trăn hình tam giác, trên mọc một cục bướu sần sùi. Phương bắc rắn rết vốn không nhiều, con mãng xà này hình dáng lạ lùng như thế xưa nay chưa từng thấy.
Con rắn bò đến bên cạnh chiếc đỉnh, trườn quanh. Mãng xà dài đến hai trượng, to bằng bắp tay, làm sao chui vào trong đỉnh được? Thế nhưng nó ngửi thấy mùi hương liệu cùng mùi chiếc đỉnh nên không ngớt đưa cái đầu to lớn húc vào.

A Tử có ngờ đâu lần này lại dụ được một con vật to đến thế, hết sức kinh hãi, nhất thời không biết phải làm sao, rón rén bò đến bên cạnh Du Thản Chi nói nhỏ: -Làm sao đây? Nếu như con trăn làm vỡ mất chiếc đỉnh thì thật hỡi ôi!

Du Thản Chi nghe nàng ăn nói dịu dàng như thế quả không ngờ tới, tự nhiên hăng máu lên nói cứng: -Cô nương chớ lo, để tôi ra đuổi con rắn đi.
Y bèn đứng lên, hùng dũng đi ra chỗ con trăn. Con mãng xà nghe thấy có tiếng động, lập tức nằm cuộn lại, vươn cao đầu, le chiếc lưỡi đỏ chót, phát tiếng sì sì, thủ thế mổ ra. Du Thản Chi thấy nó hung dữ như thế, chột dạ không dám tiến tới nữa.

Ngay lúc đó, bỗng có một trận gió lạnh thổi qua, từ phía tây bắc có một đường lửa cháy thẳng tới, chỉ giây lát đã tới ngay trước mặt. Đốm sáng đó chạy tới nơi, nhìn rõ hơn thì ra không phải là một vệt lửa, mà là trong đám cỏ có một con gì đó chạy tới, cỏ xanh gặp phải lập tức sém vàng, đồng thời hàn khí càng lúc càng nhiều.

Y lùi lại mấy bước, thấy đường sém vàng đó chạy tới chiếc đỉnh, hóa ra là một con tằm. Con tằm đó trắng tinh như ngọc, hơi ẩn sắc xanh, so với tằm thường phải to gấp đôi, lại dài như một con giun, thân hình sáng bóng như thủy tinh. Con mãng xà vốn dĩ thật hung tợn, lúc này lại xem chừng sợ đến mất vía, rút đầu chui vào dưới thân.

Con tằm trong như thủy tinh kia nhanh nhẹn dị thường bò thẳng một mạch lên người con trăn, chẳng khác gì một đường lửa nóng xẻ dọc theo xương sống con mãng xà, đến đầu thì con rắn đã bị cắt ra làm hai. Con sâu liền rúc vào túi nọc độc ở hai bên mang con mãng xà hút độc dịch, chỉ giây lát thân đã căng phồng lên, từ xa nhìn tới thấy giống như một cái bình trong suốt chứa đầy một thứ nước màu xanh tím.

A Tử vừa mừng vừa sợ, nói nhỏ: -Con tằm này lợi hại đến thế, xem ra là chúa của các loài độc vật.
Du Thản Chi bụng lại lo thầm: Một con tằm kịch độc như thế này nếu như hút máu ta thì lần này tính mạng mình chắc không còn. Còn sâu đó chạy vòng quanh chiếc mộc đỉnh rồi bò lên, chỗ nào nó đi qua, chiếc đỉnh liền hiện ra một cái ngấn cháy sém. Thế nhưng dường như nó có linh tính, bò quanh chiếc đỉnh một vòng, biết là nếu chui vào trong đỉnh thì chỉ còn nước chết nên lại bò xuống chạy về hướng tây bắc.
A Tử vừa cao hứng vừa nóng ruột, kêu lên: -Đuổi theo ngay! Đuổi theo!

Cô ta lấy vuông gấm bọc cái đỉnh lại rồi chạy đuổi theo con sâu. Du Thản Chi theo sát đằng sau, cứ theo đường lửa cháy sém mà đuổi. Con tằm đó tuy nhỏ bé như thế nhưng bò nhanh như gió, chỉ nháy mắt đã xa đến mấy trượng, cũng may nó đi đến đâu đều để lại một cái ngấn nên không mất dấu.

Hai người chỉ một thoáng đã đuổi đến ba bốn dặm, nghe phía trước có tiếng nước chảy róc rách đến bên một dòng suối. Vết cháy sém đến suối liền biến mất, nhìn qua bờ bên kia không thấy ngấn bò của con tằm đâu, hiển nhiên con vật đã chui xuống nước trôi đi rồi. A Tử dậm chân than thở: -Ngươi đuổi chậm quá, bây giờ biết đi đâu mà tìm? Ta không biết, ngươi phải tìm cách bắt nó đem về cho ta.

Du Thản Chi trong lòng lo lắng, nhìn ngang nhìn ngửa nhưng nào có thấy bóng dáng nó đâu? Hai người tìm kiếm một hồi lâu, trời đã sâm sẩm tối, A Tử cảm thấy mỏi mệt, lại không kiên tâm, giận dữ nói: -Bằng giá nào ngươi cũng phải bắt nó đem về cho ta, nếu không thì đừng gặp ta nữa.

Nói xong nàng quay trở về đường cũ một mình về thành. Du Thản Chi thấp thỏm đành men theo bờ suối đi xuôi xuống hạ lưu, tìm kiếm đến bảy tám dặm, trong ánh sáng lờ mờ bỗng thấy bờ trên mặt cỏ bên kia lại có dấu cháy sém. Du Thản Chi mừng quá, mở miệng gọi to: -Cô nương! Cô nương! Tôi tìm thấy rồi!

Thế nhưng A Tử đã đi thật xa. Du Thản Chi lội nước đi qua, lần theo vết cháy khô. Chỉ thấy đường sém đó chạy thẳng đến một thung lũng ở phía trước. Y ráng sức đuổi tới mãi tận cuối thì ra là một tòa cổ miếu kiến trúc hùng vĩ, rảo bước đến gần thấy biển ngạch trên đề năm chữ Sắc Kiến Mẫn Trung Tự thật lớn. Du Thản Chi không có thì giờ đâu mà xem xét miếu này ra thế nào, chỉ tiếp tục đi theo đường ngấn cháy. Vết cháy sém đó vòng quanh một bên miếu, chạy ra phía sau. Chỉ nghe thấy tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng tụng kinh ở trong chùa vang lên từng chập, tiếng này dứt tiếng kia nổi lên, quần tăng chính đang vào giờ công khóa.

Y đầu đội lồng sắt, tự xấu hổ mình hình dạng không ra gì, sợ người trong chùa nhìn thấy, nên chỉ men theo tường mà lần đi, thấy vết cháy vượt qua một khu đất lầy lội, chạy vào một vườn rau.
Y trong lòng thật vui mừng, chắc mẩm hẳn không có người, chỉ có con tằm ăn rau mà thôi thì thể nào cũng bắt được nó. Y đi đến bên hàng rào nghe văng vẳng bên trong vườn rau ai đó đang lớn tiếng chửi mắng vội vàng đứng lại. Chỉ nghe người kia nói: -Ngươi cớ sao không biết giữ qui củ, một mình dám đi ra ngoài chơi khiến cho ông phải lo lắng cả buổi, chỉ sợ mày đi mất không quay về. Ông đường sá xa xăm mang mày từ đỉnh núi Côn Lôn tới đây, vậy mà mày chẳng biết phải quấy, không hiểu được rằng lão tử chăm lo cho mày biết là dường nào. Cứ cái ngữ này, đời mày còn ra thế nào nữa, mai sau chắc chẳng làm nên trò trống gì, không ai thương đâu con ạ! Ngữ khí người kia đầy vẻ phẫn nộ nhưng lại có ẩn chút lòng thương xót kỳ vọng, tưởng chừng như lời của phụ huynh dạy dỗ con cái. Du Thản Chi nghĩ thầm: Y nói gì mà từ đỉnh núi

Côn Lôn xa xôi diệu vợi đem đến đây, xem chừng chắc là sư phụ hay trưởng bối chứ không phải phụ thân. Y rón rén đến sát bờ giậu, thấy người đang nói kia là một nhà sư.

Nhà sư đó thật là mập mạp, thân hình lại lùn xủn, trông chẳng khác gì một trái cầu thịt thật lớn, tay chỉ xuống đất, mồm thì rủa sả liên hồi. Du Thản Chi theo tay y nhìn xuống, vừa mừng vừa lo, hòa thượng mập kia đang mắng chửi chính là một con sâu lớn sáng lấp lánh.

Hình dáng nhà sư lùn mập kia kỳ dị thì đã đành nhưng cái lối chửi sa sả con tằm kia lại còn lạ lùng hơn. Con sâu chạy loăng quăng dưới đất cực kỳ nhanh nhẹn, tưởng chừng như toan đào tẩu. Có điều dường như nó chạm phải một bức tường vô hình nào đó nên lại quay đầu qua hướng khác. Du Thản Chi cố gắng nhìn kỹ hơn, thấy dưới đất có vẽ một cái vòng màu vàng, con tằm tả xung hữu đột nhưng vẫn không sao qua khỏi được cái vòng đó, lập tức hiểu ra: Cái vòng đó dùng một loại thuốc vẽ thành, dược vật hẳn là khắc tinh của con sâu.

Gã hòa thượng lùn mập chửi một hồi xong, lôi trong bọc ra một vật gì đó, đưa lên miệng ăn nhồm nhoàm, hóa ra một cái đầu dê đã luộc chín, xem chừng ngon lành lắm. Y lại lấy từ trên cột xuống một cái hồ lô, mở nắp ra, ngửa cổ lên, ọc ọc uống một mạch. Du Thản Chi ngửi thấy tửu hương, biết là quả bầu đó đựng đầy rượu nghĩ thầm: Hóa ra đây là một nhà sư hổ mang. Xem ra con tằm này là của y nuôi, được y cưng chiều lắm lắm. Làm cách nào ăn trộm được đây?.

Còn đang nghĩ ngợi bỗng nghe từ phía bên kia vườn rau có tiếng người gọi: – Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh!
Gã sư lùn mập nghe thế giật mình hoảng hốt, vội vàng đem cái đầu dê và bầu rượu giấu vào trong bụi cỏ. Lại nghe người kia giục giã: -Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh! sao ngươi không tụng kinh chiều, trốn ở đây làm gì?
Nhà sư lùn mập vội vàng vớ ngay cái cuốc dưới chân, bổ hùng hục lên luống rau đáp: -Đệ tử ở đây đang cuốc rau.
Người đi đến là một hòa thượng trung niên, khinh khỉnh nói: -Kinh sớm kinh chiều, ai ai cũng phải dự. sao lúc khác không trồng rau, đến lúc đọc kinh chiều thì lại giở giói ra cuốc đất? Mau lên! Mau lên! Bao giờ tụng kinh chiều xong, trở lại cuốc cũng vừa. Ở chùa Mẫn Trung chấp tác thì phải theo qui củ của chùa Mẫn Trung, không lẽ chùa Thiếu Lâm nhà ngươi không có miếu qui gia pháp gì hay sao?
Nhà sư lùn mập tên Tuệ Tịnh vội đáp: -Vâng!

Y bỏ cuốc xuống, lật đật đi theo, không dám quay đầu lại nhìn con tằm, xem chừng sợ nhà sư trung niên phát giác. Du Thản Chi nghĩ thầm:

Gã sư lùn mập này vốn ở chùa Thiếu Lâm. Sư chùa Thiếu Lâm ai ai cũng biết võ công, mình ăn cắp con tằm của hắn thì phải thật cẩn thận mới được!.

Y đợi cho hai người đi xa, nghe ngóng chung quanh không có gì, vội vàng chui qua hàng rào, thấy con tằm vẫn chạy loanh quanh trong cái vòng màu vàng, tự hỏi: Làm sao bắt được nó đây?. Y suy nghĩ một hồi tìm ra một cách, lấy trong bụi cỏ cái bầu rượu ra, lắc lắc thử mấy cái, còn chừng nửa bình bèn uống luôn mấy ngụm, còn bao nhiêu đổ vào luống rau, đưa cái miệng hồ lô đến gần cái vòng màu vàng. Miệng bầu rượu vừa lọt vào trong vòng tròn, chỉ nghe tách một tiếng, con tằm đã chui tọt vào trong hồ lô. Du Thản Chi mừng quá, vội vàng lấy cái nắp gỗ đóng chặt lại, hai tay bưng bầu rượu, chui qua hàng rào, ba chân bốn cẳng chạy về đường cũ.

Ra khỏi chùa Mẫn Trung chừng vài chục trượng bỗng thấy chiếc hồ lô lạnh một cách khác thường, xem ra còn hơn cả một khối băng, Du Thản Chi đưa cái bầu rượu từ tay trái sang tay phải, rồi lại từ tay phải đưa qua tay trái nhưng vẫn lạnh thấu xương không sao chịu nổi. Y không còn cách gì khác hơn bèn để hồ lô đội lên đầu nhưng lại càng khó chịu, khí lạnh truyền qua chiếc lồng sắt chui vào trong óc khiến y chịu không nổi, tưởng như huyết dịch toàn thân đã đóng thành băng. Tình cấp trí sinh, y liền cởi dây lưng buộc vào chỗ thắt trên hồ lô xách trên tay. Dây lưng không truyền hơi lạnh nên y cầm được, thế nhưng khí lạnh từ trong cái bầu tỏa ra, chỉ trong giây lát bên ngoài hồ lô đã bao phủ một tầng sương mỏng.

1. Khổng tử nói: Học rồi được thực hành, chẳng vui sướng lắm sao? (Luận Ngữ)
2. tickling
3. gọi một tiếng trăm người dạ
4. thị tử như qui
5. quần áo của người quyền quí đời xưa (Xem thêm, phần y phục của Nguyễn Duy Chính)
6. tức Yoga
7. python (con trăn)


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.