THIÊN LONG BÁT BỘ

49. Tệ tỉ vinh hoa, phù vân sinh tử, thử thân hà cụ



Giàu sang phú quí mà chi,

Xem như dép cũ bỏ đi cho rồi.
Cuộc đời mây nổi ai ơi,
Đến như sống chết đã coi ra gì.
¤
Trong hoàng cung Đại Lý, Đoàn Chính Minh truyền ngôi cho cháu là Đoàn Dự, dặn dò phải biết ái dân, nạp gián, lại nhắn nhủ việc nước không được bừa bãi làm càn, dấy động binh đao. Cũng vào thời kỳ đó, nơi kinh đô Biện Lương nhà Đại Tống, trong hoàng cung ở hậu các Sùng Khánh điện, thái hoàng thái hậu Cao thị bệnh nặng, đang trăn trối cho cháu là Triệu Hú(1): -Hài nhi, tổ tông sáng nghiệp thật gian nan vất vả, nhờ phúc trạch ông cha thâm hậu nên mới có cảnh tượng thái bình như ngày hôm nay. Thế nhưng cha ngươi khi trị nước để cho dân tình sôi sục, suýt nữa gây ra đại biến, đến giờ trăm họ nghĩ đến còn kinh, ngươi có biết vì do đâu chăng?

Triệu Hú đáp: -Hài nhi thường nghe nãi nãi2 nói rằng, phụ hoàng nghe lời Vương An Thạch, sửa đổi phép tắc cũ khiến cho dân chúng không đủ sống. Khuôn mặt khô héo của thái hoàng thái hậu hơi rung động, thở dài nói: – Vương An Thạch là người có học vấn, có tài năng, vốn không phải là kẻ xấu. Dụng tâm tuy là vì nước vì dân, có điều … ôi … chỉ bởi cha ngươi, vốn dĩ tính tình nóng nảy, chỉ mong sao chóng thành công, có biết đâu việc trên đời này dục tốc tắc bất đạt, thành ra rối loạn hỏng việc.

Bà lão nói đến đây ho sù sụ một hồi rồi mới tiếp: -Thứ đến … thứ đến y không bao giờ muốn nghe câu nào trái tai, chỉ thích người ngoài ca công tụng đức, gọi y là thánh minh thiên tử y mới vui lòng, còn như bảo y sai lầm không đúng, can gián một câu thì lập tức nổi cơn lôi đình, kẻ thì bãi chức, người thì đi đày, cứ như thế, còn ai dám trực ngôn can gián nữa?

Triệu Hú đáp: -Bà ơi, tiếc thay di chí của phụ hoàng chưa thành, bao nhiêu lương pháp mỹ ý của tiên đế đều bị kẻ tiểu nhân làm hỏng cả.
Thái hoàng thái hậu hoảng hốt, run rẩy hỏi lại: -Cái … cái gì mà lương pháp mỹ ý? … Ai … ai là tiểu nhân?
Triệu Hú đáp: -Phụ hoàng đặt ra phép thanh miêu, phép bảo mã, phép bảo giáp … chẳng phải là phú quốc cường binh lương pháp thì là gì? Chỉ hận bọn hủ nho Tư Mã Quang, Lã Công Trứ, Tô Thức làm hỏng đại sự.
Thái hàng thái hậu biến sắc, chống tay cố ngồi lên nhưng đã suy nhược quá rồi, thân hình chỉ nhỏm lên được một hai tấc rồi không gượng nổi nữa, ho sù sụ. Triệu Hú nói: -Bà nội đừng tức tối, hãy nằm xuống nghỉ đi, sức khỏe mới là

quan trọng.

Tuy miệng y thì khuyên bảo như thế nhưng giọng điệu chẳng có chút nào thân cận. Thái hoàng thái hậu ho một hồi, tạm bình tĩnh lại nói: -Hài nhi, cháu làm hoàng đế cũng đã chín năm rồi, thế nhưng trong chín năm đó … trong chín năm đó, người làm vua đích thực là bà nội đây, chuyện gì cháu cũng nghe lời bà mà làm, trong bụng … trong bụng cháu chắc tức tối lắm, ghét bà lắm, có phải không?

Triệu Hú đáp: -Bà nội làm hoàng đế giùm cháu, ấy là thương cháu chứ, sợ cháu làm hỏng việc đấy thôi. Dùng người cũng bà dùng, thánh chỉ cũng bà đưa xuống, hài nhi thật là rảnh rỗi, có gì không thích đâu? Sao cháu lại trách bà được?

Thái hoàng thái hậu thở hắt ra, khẽ nói: -Mày thật giống cái thằng cha mày, cứ cho là mình thông minh tài trí phải làm nên một đại sự nghiệp. Trong bụng ngươi ghét ta lắm, không lẽ … không lẽ ta lại không biết hay sao?
Triệu Hú mỉm cười khinh khỉnh nói: -Bà nội chuyện gì chẳng biết. Trong cung ngự lâm quân cũng là người thân tín của bà, chỉ huy nội thị thái giám cũng là tâm phúc của bà, trong triều văn võ đại thần cũng do bà sắp đặt. Hài nhi ngoài việc ngoan ngoãn nghe lời bà dặn bảo ra, có dám tùy tiện làm gì đâu, có dám nói gì đâu?

Thái hoàng thái hậu nhìn lên đình màn nói: -Ngươi ngày ngày mong mỏi chuyện hôm nay, chờ tới khi ta bệnh chết rồi, lúc đó … lúc đó mới tha hồ mặc sức bay nhảy.
Triệu Hú đáp: -Chuyện gì cũng do bà ban cho hài nhi, trước đây nếu không có bà nội chủ trì, khi phụ hoàng băng giá, triều đình nếu chẳng lập Ung Vương thì cũng lập Tào Vương. Ơn sâu của bà nội, hài nhi đâu thể nào quên được? Có điều … có điều …

Thái hoàng thái hậu nói: -Có điều cái gì? Ngươi muốn nói gì thì cứ nói ra, sao lại còn ấp úng mãi thế?
Triệu Hú đáp: -Hài nhi từng nghe người ta nói rằng, sở dĩ bà muốn lập cháu lên làm vua, chỉ vì hài nhi còn nhỏ, có thế mới dễ cho bà tự mình đảm trách việc triều chính.
Y thu hết can đảm nói được câu đó ra, tim đập thình thình, nhìn trộm ra ngoài cửa mấy lượt, thấy những thái giám canh gác ngoài điện môn đều là người tâm phúc của mình, thủ vệ nghiêm mật, thế mới yên tâm.
Thái hoàng thái hậu chậm rãi gật đầu nói: -Ngươi nói quả không sai. Ta quả muốn chính mình cai trị quốc gia, trong chín năm qua ta làm việc ra thế nào? Tây Hạ lấy trong túi ra một cuộn giấy nói: -Bà ơi, những lời ca công tụng đức của văn sĩ trong triều ngoài nội, trong chín năm qua không biết là bao nhiêu,

chắc bà nghe đã phát chán rồi. Hôm nay ở phương bắc có người xuống đây, nói rằng tể tướng nước Liêu có một bản tấu chương dâng lên Liêu đế, có đề cập đến việc thi hành chính sách của bà nội. Đây là nghị luận của đại thần nước Liêu, nãi nãi có muốn nghe không?

Thái hoàng thái hậu thở dài: -Cả thiên hạ khen thì cũng thế mà cả thiên hạ chê thì cũng vậy, lão … lão thân chắc chẳng sống được tới chiều nay đâu. Ta
… ta chẳng biết có còn thấy mặt trời mọc ngày mai nữa không? Tể tướng Liêu quốc … y … y nói về ta thế nào?
Tây Hạ mở cuốn trục ra nói: -Trong tấu chương gã tể tướng đó nói thái hoàng thái hậu: Từ khi ở sau rèm đến nay3, tuyển dụng danh thần, bãi bõ chính sách hà khắc của tân pháp, trông coi triều chính chín năm qua, triều đình sáng sủa, Hoa hạ yên ổn. Ngăn chặn các thăng thưởng vô lối, bãi bỏ các ân sủng cho người nhà, các tấu chương trình lên, lớn nhỏ đều coi xét kỹ lưỡng, suốt đời không tơ hào một li …

Y đọc đến đây, ngừng lại một chút, thấy ánh mắt lờ đờ của thái hoàng thái hậu lóe lên một vẻ phấn khởi, liền đọc tiếp xuống: -… người đời gọi bà ta là nữ trung Nghiêu Thuấn!
Thái hoàng thái hậu lẩm bẩm: -Người đời gọi là nữ trung Nghiêu Thuấn! Người đời gọi là nữ trung Nghiêu Thuấn! Dù có thực là Nghiêu Thuấn chăng nữa thì cũng không thể không chết.
Đột nhiên trong đầu óc mỗi lúc một mơ hồ chậm lụt của bà nảy ra một điểm linh quang, bèn hỏi: -Tại sao tể tướng nước Liêu lại nhắc đến ta? Hài nhi, cháu … cháu phải lưu tâm, bọn họ biết ta chết rồi là sẽ chèn ép cháu ngay.
Trên khuôn mặt non trẻ của Triệu Hú lộ vẻ kiêu ngạo nói: -Định chèn épcháu ư? Hừ, đúng thế đấy nhưng chắc không phải dễ đâu. Bọn Khất Đan có thám tử ở Đông Kinh, biết nãi nãi đang bệnh nặng, bộ mình không có người dò thám ở Thượng Kinh hay sao? Tấu chương của tể tướng bọn chúng mình chả có trong tay là gì? Quân dân Khất Đan bàn tính, một khi bà … một khi bà thiên thu vạn tuế rồi, nếu như văn võ đại thần không có gì thay đổi, không thi hành tân pháp, bảo vệ bờ cõi, nhân dân yên ổn thì không sao. Còn như nếu hài nhi
… hà hà … có gì làm ẩu làm liều … khinh suất vọng động, thì bọn chúng cũng lớn mật làm càn một phen.
Thái hoàng thái hậu hoảng hốt hỏi: -Họ định sẽ xua quân xuống phương nam ư?
Tây Hạ đáp: -Đúng vậy.
Y quay người đi ra phía cửa sổ, nhìn theo cái cán chòm sao Bắc đẩu thấy ngôi đế tọa lấp lánh trên bầu trời, lẩm bẩm nói một mình: -Đại Tống ta binh tinh mã nhuệ, lương thảo đầy đủ, dân số lại đông, lẽ nào lại sợ bọn Khất Đan? Bọn

chúng không đem quân xuống nam thì ta cũng xua quân lên bắc thử một keo cho biết.
Thái hoàng thái hậu tai nghễnh ngãng nghe không rõ hỏi lại: -Ngươi nói gì?
Cái gì mà thử một keo cho biết?

Triệu Hú đi đến bên giường bệnh nói: -Nãi nãi, người Đại Tống chúng ta so với người Liêu đông gấp mười, lương thảo gấp ba mươi lần, có phải thế không? Lấy mười chọi một, không lẽ đánh không lại chúng sao?
Thái hoàng thái hậu run run hỏi: -Ngươi định gây chiến với nước Liêu chăng? Chân Tông hoàng đế năm xưa anh vũ là dường nào, ngự giá thân chinh vậy mà còn phải lập minh ước Thiền Uyên, ngươi … ngươi lẽ nào lại dám tính chuyện đao binh?

Triệu Hú hậm hực đáp: -Bà vẫn cứ coi thường hài nhi, cứ coi cháu như đứa trẻ miệng còn hơi sữa, chẳng biết chuyện gì. Hài nhi tuy không bằng vua Thái Tổ, Thái Tông nhưng chưa chắc đã kém gì Chân Tông hoàng đế!
Thái hoàng thái hậu nói nhỏ: -Đến như Thái Tông hoàng đế, năm xưa cũng còn thua Bắc quốc, trọng thương phải quay về, vết thương không khỏi nên chính vì thế mà băng hà.
Triệu Hú nói: -Chuyện trong thiên hạ, đâu phải cứ có một bề mà luận. Trước kia mình đánh không lại bọn Khất Đan đâu phải mãi mãi lúc nào cũng thua. Thái hoàng thái hậu có biết bao nhiêu điều muốn nói, nhưng thấy tinh lực càng lúc cào hao kiệt dần, trước mắt chỉ thấy một quầng mây trắng bay qua bay lại, trong óc trống rỗng, nói năng đã cực kỳ gian nan nhưng trong đáy lòng bà ta vẫn có một tiếng nói hết sức rõ ràng vọng lên: “Việc chiến tranh là nguy hiểm, sinh linh đồ thán, nhất quyết không thể khinh suất làm càn”.

Một lúc sau bà ta mới lấy hơi, chậm rãi nói: -Hài nhi, trong chín năm qua ta nắm hết đại quyền, chưa từng cùng ngươi phân tích cho rõ ràng, nãi nãi quả là thiếu sót. Ta vẫn tưởng mình chắc còn sống được lâu, đợi đến khi ngươi khôn lớn rồi, lúc đó mới chỉ bảo cho cháu, ắt ngươi sẽ hiểu biết tường tận, có ngờ đâu … có ngờ đâu …

Bà lão ho khan mấy tiếng nói tiếp: -Chúng ta người đông lương đủ, điều đó không sai. Có điều người Đại Tống văn nhược, không dũng mãnh như người Khất Đan. Hơn nữa một khi đánh nhau rồi, quân dân gan óc đầy đất, không biết bao nhiêu người chết, cháy không biết bao nhiêu nhà cửa, thiên hạ không biết bao nhiêu gia đình nhà tan người chết, vợ chồng chia lìa, con cái ly tán. Làm vua thì lúc nào cũng phải nghĩ đến điều “nhân”, không nói gì chuyện thắng bại chưa liệu trước được, mà dẫu ở thế tất thắng chăng nữa nếu không phải đánh thì vẫn hơn.
Triệu Hú đáp: -Yên Vân thập lục châu của ta bị bọn người Liêu chiếm mất,

hàng năm mình còn phải tiến cống cho chúng vàng bạc lụa là, chẳng khác gì phiên thuộc, lại như nước bầy tôi, hài tử thân làm thiên tử Đại Tống, cái nhục đó làm sao nuốt nổi? Không lẽ mình mãi mãi chịu người Liêu áp chế hay sao?

Giọng y càng lúc càng to: -Trước đây Vương An Thạch biến pháp, thi hành phép bảo giáp, bảo mã, chẳng phải là để cho quốc phú dân cường, tẩy rửa cái nhục tổ tông hay sao? Làm con làm cháu, phải rửa nhục cho ông cha, ấy mới là đại hiếu. Phụ hoàng một đời chuyên cần chăm lo chẳng phải vì lẽ đó đấy ư? Hài tử định rằng sẽ kế thừa chí hướng của gia gia. Chí đó không thành nguyện như chiếc ghế này.

Đột nhiên y rút phắt bội kiếm đeo ở hông, chém đứt đôi một chiếc ghế. Hoàng đế trừ khi tập luyện duyệt binh, xưa nay không đeo đao kiếm. Thái hoàng thái hậu đột nhiên thấy thằng bé rút kiếm ra chém chiếc ghế, không khỏi hoảng hồn, mơ mơ hồ hồ nghĩ bụng: “Y tại sao lại đeo kiếm? Định đến giết ta chăng? Hay y không muốn ta thùy liêm thính chính? Thằng bé này lớn mật làm càn, ta phải phế bỏ y đi”. Bà ta tuy tính tình từ ái nhưng chưởng ác quyền bính đã lâu, nay thấy quyền lực lung lay, lập tức nghĩ ngay đến loại trừ địch thủ, dẫu cho là kẻ cốt nhục chí thân cũng không khoan thứ, trong một thoáng bà quên rằng mình đang vào cảnh đèn khô dầu kiệt, trong chốc lát sẽ lìa đời.
Còn Triệu Hú đang chú tâm vào việc làm sao phá trận sát địch, thu phục lại Yên Vân mười sáu châu, huyễn tưởng mình đang ngồi trên lưng ngựa, thống suất trăm vạn hùng binh, đánh vào Thượng Kinh, Liêu chúa Gia Luật Hồng Cơ cởi trần ra hàng. Y giơ thanh bội kiếm lên, ngang nhiên nói: -Quốc gia đại sự đều bị bọn hủ nho nhát gan làm hỏng việc. Bọn họ tự xưng quân tử, thực ra chỉ là đồ tiểu nhân tham sống sợ chết, tự tư tự lợi, ta … ta phải trừng trị bọn chúng một phen cho hả tức.

Thái hoàng thái hậu tỉnh táo trở lại, nghĩ thầm: “Thằng bé này là đương kim hoàng đế, y có chủ ý riêng, ta không còn bảo nó phải nghe lời mình nữa rồi. Ta bây giờ chỉ là một bà lão sắp chết, còn y là một ông vua đang lúc thanh niên khỏe mạnh, y là vua, y là vua”. Bà cố hết sức nói thêm một câu: -Hài nhi, cháu có tâm chí như thế, nãi nãi sung sướng lắm.

Triệu Hú mừng rỡ, tra kiếm trở vào bao nói: -Bà ơi, cháu nói thế là đúng rồi, phải không?
Thái hoàng thái hậu đáp: -Thế cháu có biết thế nào là kế sách vạn toàn, nhất định phải thắng hay không?
Triệu Hú cau mày nói: -Tuyển tướng luyện binh, tích trữ lương thảo cùng người Liêu một trận thư hùng thì có thể thắng nhưng bảo là nhất định là thắng thì chưa chắc.
Thái hoàng thái hậu nói: -Cháu cũng biết rằng hai bên ra trận không có cái gì

gọi là “tất thắng chi lý”. Thế nhưng người Tống chúng ta còn biết phép không cần đánh mà vẫn khuất phục được người.

Triệu Hú đáp: -Cho dân nghỉ ngơi, thi hành nhân chính, ấy là không cần đánh mà vẫn khuất phục người, có phải thế không? Bà ơi, đó là kiến thức hủ nát của bọn thư sinh Tư Mã Quang, làm sao nên nổi đại sự cho được?
Thái hoàng thái hậu thở dài một tiếng, chậm rãi nói: -Tư Mã tướng công kiến thức trác việt, sao cháu lại bảo là kiến thức hủ nát của bọn thư sinh? Ngươi là chủ của một nước, phải luôn luôn chịu khó đọc Tư Trị Thông Giám của Tư Mã tướng công soạn ra. Hơn nghìn năm qua, những triều đại sở dĩ hưng suy bại vong ra sao, trong sách đều có viết rõ ràng. Đất nước Đại Tống chúng ta đất đai màu mỡ, dân số đông đảo, gấp mười nước Liêu, nếu không có chiến tranh, chỉ trong mười, hai mươi năm chúng ta càng thêm phú túc. Người Liêu dũng mãnh hiếu chiến, chúng ta chỉ cần nghiêm thủ biên cảnh, các bộ lạc của chúng ắt sẽ tàn sát lẫn nhau, giao tranh qua lại, khi đó nguyên khí sẽ cực kỳ thương tổn. Cái loạn Sở vương năm trước, bao nhiêu tinh binh nhuệ tốt của nước Liêu chết không phải là ít …

Triệu Hú vỗ đùi nói: -Đúng đó, lúc đó hài nhi đã tính xua quân lên miền Bắc, để nội ngoại giáp công, người Liêu đang có mối lo trong gan ruột không dễ gì ứng phó. Ôi, tiếc thay lại để mất một dịp may nghìn năm một thuở.
Thái hoàng thái hậu gắt lên: -Ngươi lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện đánh nhau với nước Liêu, ngươi … ngươi … ngươi …
Đột nhiên bà ngồi nhỏm dậy, ngón tay phải giơ ra chỉ thẳng vào Triệu Hú. Thái hoàng thái hậu tích uy đã lâu, Triệu Hú sợ quá lùi lại ba bước, chân lập cập tưởng như ngã đến nơi, tay để lên đốc kiếm, tim đập thình thình, kêu lên: – Mau lên, các ngươi mau vào đây.

Bọn thái giám nghe thấy hoàng thượng gọi, vội vàng chạy vào điện. Triệu Hú run rẩy nói: -Bà … bà ấy … các ngươi xem bà ấy ra sao rồi?
Y mới rồi hùng tâm đại chí, muốn cùng người Khất Đan một trận tử chiến, thế nhưng một bà lão sắp chết vừa phát uy, thì đã sợ đến hồn bất phụ thể, chân tay luống cuống. Một tên thái giám tiến lên mấy bước, chăm chăm nhìn thái hoàng thái hậu một hồi, thu hết can đảm, giơ tay cầm mạch bà ta rồi nói: – Khải tấu hoàng thượng, thái hoàng thái hậu đã thừa long qui thiên.

Triệu Hú mừng rỡ, cười ha hả, thở phào: -Hay lắm! Hay lắm! Ta là hoàng đế rồi! Ta là hoàng đế rồi!
Y tuy đã làm vua chín năm nhưng thực ra chỉ hữu danh vô thực, đại quyền nằm trong tay thái hoàng thái hậu, cho đến lúc này mới thực là được làm vua. Triệu Hú thân lý chính vụ, việc đầu tiên là cách chức Lễ Bộ thượng thư Tô Thức4, biếm xuất ra làm tri phủ Định Châu. Tô Thức văn chương nổi danh

thiên hạ, người đương thời ai ai cũng trọng vọng. Ông là kẻ đối đầu số một của Vương An Thạch, xưa nay luôn luôn phải đối tân pháp. Thời Nguyên Hựu, thái hoàng thái hậu thùy liêm thính chính, trọng dụng Tư Mã Quang, và hai anh em Tô Thức, Tô Triệt. Bây giờ thái hoàng thái hậu chết rồi, hoàng đế liến biếm trục Tô Thức, trong triều cho chí dân gian ai nấy đều lo sợ, bụng bảo dạ: “Hoàng đế chắc lại định thi hành tân chính, làm khổ trăm họ lần nữa”. Thế nhưng cũng có những kẻ trong bụng mừng thầm, hoàng đế thi hành chính sách mới thì họ lại có dịp thăng quan phát tài.
Vào thời đó chấp chính trong triều đều là cựu thần của thái hoàng thái hậu.
Hàn Lâm học sĩ Phạm Tổ Vũ5 tâu lên:
Tiên thái hoàng thái hậu lấy tấm lòng đại công chí chính, bãi bỏ tân pháp của bọn Vương An Thạch, Lã Huệ Khanh mà thi hành chính sách cũ của tổ tông khiến cho xã tắc đang nguy trở lại thành an, lòng người đang ly trở về thành hợp. Đến ngay cả Liêu chúa cũng bàn với tể tướng rằng: “Nam triều tuân hành chính sự của Nhân Tông, giữ vững Yên Kinh, ước thúc quân lính đóng ở biên giới, không sinh sự”. Bệ hạ quan sát tình hình nước địch như thế ắt cũng biết được lòng dân Trung quốc như thế nào rồi.

Đến nay bệ hạ trông coi triều chính, kẻ tiểu nhân ắt mong có thay đổi, kẻ tham lợi ắt cũng ngóng trông. Thần mong mỏi bệ hạ nghĩ đến công lao gian khổ của tổ tông và tiên thái hoàng thái hậu, đau lòng nhức óc, ghi lòng tạc dạ rằng phải làm sao hết sức tránh xa kẻ tiểu nhân, tuân thủ phép nước đời Thiên Hựu, một lòng vững chãi như kim thạch, nặng như sơn nhạc, để trong triều ngoài nội ai ai một lòng, quay về đường ngay nẻo chính, thế thì quả là cái may cho thiên hạ.

Triệu Hú càng coi càng tức tối, vứt tấu chương xuống bàn nói: -“Đau lòng nhức óc, ghi lòng tạc dạ rằng phải làm sao hết sức tránh xa kẻ tiểu nhân”, câu này đúng lắm. Thế nhưng biết ai là quân tử, ai là tiểu nhân?
Nói xong mặt hầm hầm nhìn Phạm Tổ Vũ. Phạm Tổ Vũ khấu đầu đáp: -Bệ hạ minh sát: Khi thái hoàng thái hậu vừa mới thính chính, trong triều ngoài nội quan dân dâng biểu vô số, ai ai cũng nói rằng chính lệnh không hợp lòng người, khổ hại cho dân đen. Thái hoàng thái hậu thuận theo dân tâm thiên hạ, thay đổi chính sách, những ai có tội thì đuổi đi, bệ hạ và thái hoàng thái hậu đều theo ý dân mà làm, những người bị biếm trục ắt phải là kẻ tiểu nhân.
Triệu Hú cười nhạt, lớn tiếng nói: -Chuyện thái hoàng thái hậu trách phạt đuổi về nào có liên can gì đến ta?
Y liền phất tay áo bãi triều. Tuy Triệu Hú căm ghét quần thần nhưng vì mới thân chính chưa lâu, không tiện đuổi hết bao nhiêu đại thần nên mới hạ chiếu thăng cho nội thị Nhạc Sĩ Tuyên, Lưu Duy Giản, Lương Tòng Chính … lên làm

quan, tưởng thưởng công lao phò tá mình, rồi thác bệnh lâu ngày không nhập triều.
Thái giám đưa vào một phong tấu chương, nét chữ mập mạp cứng cỏi, thự
danh Tô Thức. Triệu Hú nói: -Gã râu rậm họ Tô này viết chữ đẹp nhỉ, không
biết lại nói lăng nhăng gì đây?
Thấy trên sớ viết:

Thần hầu hạ trong trướng bệ hạ đã lâu, nay được sai ra nơi biên cảnh, mong sao được diện kiến long nhan trước khi lên đường. Tiểu thần nay phải xa bệ hạ, trong lòng bịn rịn, quả là khó thay.
Triệu Hú nói: -Ta không muốn gặp cái lão râu rậm này, suốt đời không muốn gặp lại y.
Y tiếp lấy tờ sớ đọc xuống dưới thấy viết:
Thế nhưng thần không dám vì cái lòng ngu trung mà không ra sức. Thánh nhân thời cổ đã từng làm tướng, ắt trước hết phải ở nơi chỗ tối mà quan sát chỗ sáng, ở vào chỗ tĩnh mà quan sát chỗ động, ắt là mọi vật trước mắt đều rõ ràng. Bệ hạ thánh trí hơn người, tuổi đang lúc thanh niên …

Triệu Hú mỉm cười, nghĩ thầm: “Gã râu rậm này quả là giảo hoạt, cũng biết giở trò bợ đỡ, nói ta là”thánh trí tuyệt nhân”. Thế nhưng y lại thêm “tuổi đang thanh niên” chẳng phải bảo ta còn nhỏ, mà tuổi trẻ thì chẳng biết gì hay sao?”. Đọc tiếp xuống viết:

Thần nguyện sẽ để lòng trống không để xem xét cho rõ lý lẽ, mọi việc để nguyên chưa làm gì vội, cố gắng quan sát chỗ chính tà của bề dưới, xem chỗ lợi, chỗ hại, ba năm sau rõ ràng mọi chuyện, lúc đó mới tùy theo tình hình mà làm, có như thế thiên hạ mới không oán hận, bệ hạ không phải hối tiếc. Xem như thế thì cũng rõ ràng những việc bệ hạ cần làm, chỉ sợ quá sớm chứ không sợ trễ. Thần chỉ sợ những kẻ ham điều lợi muốn tiến nhanh, chưa tính toán kỹ đã giục bệ hạ cải biến nên phải nói ra, chỉ mong bệ hạ lưu tâm thì đó là điều đại hạnh của thiên hạ, đại phúc cho tông miếu xã tắc.

Triệu Hú đọc xong tấu chương nghĩ thầm: “Người người ai cũng bảo gã râu rậm họ Tô thông minh tuyệt đỉnh, quả nhiên danh bất hư truyền. Y biết ta nhất quyết đi theo tiên đến khôi phục lại tân pháp nên không dám đến ngăn cản, chỉ khuyên ta tạm hoãn ba năm. Ôi, cái gì mà “đến lúc thi hành thiên hạ mới không oán giận, bệ hạ không phải hối tiếc”. Y nói quanh nói co nhưng ý thì cũng vậy thôi chứ có khác gì? Y bảo ta nếu như mong cái lợi gấp gáp, nóng nảy muốn làm chuyện lớn ắt thiên hạ sẽ oán hận, rồi sau ta sẽ hối hận mà thôi”. Triệu Hú giận dữ, cầm bản tấu chương xé tan nát. Mấy ngày sau vào triều, Phạm Tổ Vũ lại dâng sớ tâu lên:

Đầu thời Hi Ninh, Vương An Thạch, Lã Huệ Khanh đặt ra ba tân pháp, thay đổi

chính sách của tổ tông dẫn đến kẻ tiểu nhân làm hỏng việc quốc gia. Nếu những người ủng hộ đường lối cũ không được dùng, những kẻ sĩ trung chính bị đẩy đi xa. Kế đó lại dùng binh nơi biên cảnh, kết oán với ngoại di, thiên hạ sầu khổ, bách tính bỏ đi.

Triệu Hú đọc đến đây hết sức tức tối nghĩ thầm: “Ngươi chê trách Vương An Thạch, Lã Huệ Khanh nhưng kỳ thực chẳng là chê phụ hoàng hay sao?”. Y đọc xuống dưới thấy viết:
Sái Xác liên tiếp xây thêm nhà ngục, Vương Thiều thu phục Hi Hà, Chương Đôn6 khơi năm khe nước, Thẩm Khởi làm phiền đất Giao7, Thẩm Quát 8 hưng binh Tây sự, dân binh chết không dưới hai chục vạn người. Tiên đế lâm triều khi đó mới hối hận, chỉ dụ triều đình từ nay không được phạm vào những sai lầm đó nữa …
Triệu Hú càng đọc càng thêm giận dữ, bỏ qua mấy hàng, bên dưới tiếp:

… dân chúng ai nấy buồn đau, nhà nhà chỉ mong làm loạn, may được bệ hạ và thái hoàng thái hậu cứu cho, người trong thiên hạ, tưởng chừng trút được …
Triệu Hú đọc đến đây không còn nhẫn nại thêm được nữa, vỗ long án đứng phắt dậy. Y lúc này vừa mười tám tuổi, ở trong vai hoàng đế tôn quí lại càng thêm oai nghi, ở giữa triều nổi nóng, triều thần không ai là không kinh hãi, nghe y gay gắt nói: -Phạm Tổ Vũ, tấu chương của ngươi như thế này chẳng là phỉ báng tiên đế hay sao?

Phạm Tổ Vũ liên tiếp khấu đầu tâu: -Bệ hạ minh giám, vi thần vạn lần không dám.
Triệu Hú vừa mới nắm đại quyền thấy quần thần ai nấy run sợ, cực kỳ đắc ý, nộ khí giảm dần nhưng mặt vẫn làm ra vẻ hung dữ, lớn tiếng nói: -Tiên đế thiên tính tài ba, hùng tâm đại chí có ý dẹp giống man di, thống nhất thiên hạ, rủi thay đương lúc thịnh niên bất hạnh băng hà, trẫm kế thừa di chí của tiên đế, có gì là không phải? Vậy mà các ngươi lèm bèm nói mãi, dám bảo biến pháp của tiên đế là sai lầm.

Trong đám quần thần một người bước ra, tướng mạo thanh tú thoạt trông đã có uy, chính là Tể Tướng Tô Triệt. Triệu Hú trong lòng không vui, nghĩ thầm: “Gã này là em của lão râu rậm họ Tô, hai anh em hung hăng kết đảng, thứ miệng chó làm sao mọc ngà voi được”. Chỉ nghe Tô Triệt tâu lên: -Bệ hạ minh sát, tiên đế đã thi hành rất nhiều việc, quả là vượt xa tiền nhân. Chẳng hạn như tiên đế tại vị mười hai năm, vậy mà suốt đời không đặt tôn hiệu, bọn thần dâng tấu chương ca tụng công đức, tiên đế khiêm tốn không nhận. Còn như chính sự có điều không phải, thì có triều đại nào lại không tránh được chỗ sơ sót? Đời cha làm, đời con chữa, ấy là đức hiếu của người xưa.

Triệu Hú hừ một tiếng, lạnh nhạt hỏi lại: -Cái gì mà bảo là “đời cha làm, đời con chữa”?

Tô Triệt tâu: -Đó là lời của Tỉ Phương nói về chuyện Hán Võ Đế. Hán Võ Đế bên ngoài gây chuyện với tứ di, bên trong xây cất cung điện, quốc khố trống rỗng, thành thử phải đặt ra thuế muối, thuế sắt, độc quyền rượu, quân du9, chiếm đoạt tài nguyên lợi vật của bách tính khiến cho mấy lần dân nổi loạn lớn. Sau khi Võ Đế băng hà, Chiêu Đế nối ngôi, trong dụng Hoắc Quang, bãi bỏ những chính sách hà khắc nên cơ nghiệp nhà Hán mới an định được.

Triệu Hú lại hừ một tiếng nghĩ thầm “Ngươi dám ví phụ hoàng với Hán Võ Đế”. Tô Triệt thấy hoàng đế vẻ mặt không vui, sự tình có chiều hung hiểm, nghĩ thầm: “Nếu còn nói thêm, hoàng thượng nổi giận, ta sẽ mất mạng không chừng, nhưng nếu cứ hùa theo thì thiên hạ lại trở nên khốn khó. Hàng nghìn hàng vạn người sẽ đói rét lầm than, lưu vong thất thổ, đương quốc đại thần như ta lẽ nào lại ngồi yên? Hôm nay chính là lúc ta lấy cái tính mạng nhỏ bé báo đáp thâm ân của thái hoàng thái hậu”. Ông bèn tiếp: -Thời Hậu Hán, vua Minh Đế để ý từng li từng tí, lấy việc bói toán để quyết đoán mọi sự, lại tin những lời huyền hoặc quái lạ, tra xét ngôn ngữ cử chỉ các bầy tôi, chuyện gì cũng xét nét, thiên hạ ai ai cũng sợ hãi, bụng dạ phập phồng. Chương Đế nối ngôi, hiểu rõ những thất bại của đời trước nên dùng chính sách nhân hậu khoan thứ, lòng người vui vẻ, thiên hạ đại trị, ấy cũng là con mà chống đỡ được cái sai sót của cha, thi hành cái đại hiếu của thánh nhân.

Tô Triệt đoán chừng Triệu Hú tức vị khi mới lên mười, chín năm qua mọi việc đều nghe lời thái hoàng thái hậu, trong bụng thể nào cũng oán hận, quyết ý hủy chính sự của thái hoàng thái hậu mà khôi phục biến pháp đời Thần Tông để tỏ lòng hiếu đối với cha, thành thử mới nhắc đến “thánh nhân chi đại hiếu” để khuyên nhủ hoàng đế.

Triệu Hú lớn tiếng nói: -Hán Minh Đế tôn sùng nho thuật, có gì bảo là không hay đâu? Ngươi dám đem Hán Võ Đế để đem so sánh với tiên đế, ấy là có dụng ý gì? Không phải là công nhiên phỉ báng hay sao? Hán Võ Đế hiếu chiến làm khổ dân, hành vi hoang tàn bị đời sau cười chê, cuối đời phải tự hạ chiếu trách cứ mình thật là thống thiết, sao lại sánh với tiên đế được?

Y càng nói càng lớn tiếng, giọng điệu cực kỳ gay gắt. Tô Triệt liên tiếp khấu đầu, lui xuống giữa sân quì xuống chịu tội, không còn dám nói thêm câu nào nữa. Nhiều người trong đám đại thần nghĩ thầm: “Biến pháp của tiên đế làm cho dân khốn khổ, buổi sớm không biết có sống được đến chiều không, Hán Võ Đế còn khá hơn ông ta nhiều”. Thế nhưng có ai dám nói ra, lại cũng có ai dám phân trần biện giải cho Tô Triệt?

Một vị đại thần râu bạc tiến ra, chính là Phạm Thuần Nhân, ung dung nói: -Xin

bệ hạ bớt giận. Tô Triệt nói năng tuy có điều thất thố nhưng cũng chỉ vì có ý tốt tỏ bụng ái quốc trung quân. Bệ hạ mới vừa thân chính, đối với đại thần cũng nên lễ mạo, không thể coi như đầy tớ. Huống chi Hán Võ Đế cuối đời hối hận về việc sai lầm đã qua, tri quá năng cải, cũng không phải là một ông vua tồi bại.

Triệu Hú nói: -Người đời ai ai cũng bảo “Tần Hoàng, Hán Võ”, Hán Võ Đế đứng ngang với Tần Thủy Hoàng bạo ngược, không phải là kẻ cực kỳ vô đạo thì là gì?
Phạm Thuần Nhân đáp: -Lời luận của Tô Triệt ấy là nói về thời thế và sự tình chứ không phải nói về người.
Triệu Hú thấy Phạm Thuần Nhân bẻ lại mình, lại càng giận hơn nữa không sao dằn nổi, quát lên: -Tô Triệt vào đây!
Tô Triệt từ sân đình tiến vào trong điện, không dám đứng vào vị trí cũ, quì xuống cuối hàng nói: -Vi thần đắc tội với bệ hạ, xin được bãi chức.
Hôm sau có chiếu, giáng Tô Triệt xuống làm Đoan Minh Điện học sĩ, đưa ra trấn nhậm tri châu Nhữ Châu, đường đường một vị tể tướng nay xuống làm một chức quan nhỏ bé.
Động tĩnh ở Nam Triều lập tức có tế tác báo về Thượng Kinh. Liêu chúa Gia Luật Hồng Cơ được tin thái hoàng thái hậu băng hà, thiếu quân Triệu Hú cách chức đại thần, hiển nhiên muốn trở lại thi hành tân chính, trong bụng mừng lắm nói: -Ta phải xuống Nam Kinh ngay, cùng Tiêu đại vương nghị sự.

Gia Luật Hồng Cơ lại tiếp: -Nam triều có không ít gián điệp ở Thượng Kinh, nếu biết ta đi xuống Nam Kinh, ắt sẽ đề phòng. Chúng ta chỉ nên chuẩn bị giản dị, ít kẻ tùy tòng, đi cho nhanh, không cần phải thông tri cho Nam Viện Đại Vương.

Lập tức dẫn ba nghìn giáp binh, đi về hướng nam. Để tránh cái cảnh Sở vương làm loạn năm nào hoàng đế để Tiêu hậu thống lãnh tất cả binh mã còn lại Thượng Kinh, chỉ đem mười vạn tinh binh hộ giá chia đường đi theo xuống.
Chỉ một ngày, ngự giá đến ngoài thành Nam Kinh. Hôm đó Tiêu Phong đem theo hai mươi vệ binh đi săn ở mạn bắc, bỗng nghe Liêu chúa đến, vội vàng ruổi ngựa chạy lên nghinh giá, từ xa trông thấy tàn vàng tán tía, lập tức xuống ngựa, hối hả chạy đến, lạy phục xuống.

Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả, giục ngựa lên nói: -Huynh đệ, ta với ngươi danh thì là quân thần, tình thực thì như ruột thịt, việc gì phải hành đại lễ như thế? Y lập tức đưa tay đỡ lên, cười hỏi: -Có săn được nhiều dã thú không?
Tiêu Phong đáp: -Mấy hôm nay trời lạnh ngắt, bao nhiêu thú chạy xuống phương nam tránh lạnh, đi săn đã lâu chỉ được mấy con chó sói, mấy con cheo chứ không được thú lớn.

Gia Luật Hồng Cơ vốn rất thích săn bắn liền nói: -Vậy mình xuống phía nam xem sao!

Tiêu Phong đáp: -Ngoại thành phía nam tiếp giáp với Nam triều, thần sợ làm mất hòa khí giữa hai nước nên nghiêm cấm hạ thuộc săn bắn nơi đây.
Gia Luật Hồng Cơ hơi nhíu mày hỏi lại: -Thế thì còn đi “gặt lúa” thì làm sao?
Tiêu Phong đáp: -Thần cũng cấm tuyệt rồi.

Gia Luật Hồng Cơ nói: -Hôm nay anh em mình gặp nhau, phá lệ một chuyến, có được không?
Tiêu Phong đáp: -Vâng!
Tiếng tù và thổi u u, Gia Luật Hồng Cơ và Tiêu Phong hai người cưỡi ngựa chạy song song, vòng qua thành Nam Kinh đi thẳng về phương nam. Ba nghìn giáp binh tùy tòng cũng chạy theo. Chạy được chừng hai chục dặm, các giáp binh cùng reo hò, chia ra hai bên đông tây thành hình cánh quạt vây lại. Chỉ nghe tiếng ngựa hí chó sủa rầm rĩ, bốn phía thắt vòng vây, trong đám cỏ có mấy con thỏ, con chồn chạy ra.

Gia Luật Hồng Cơ không muốn bắn thú nhỏ, đợi một lúc lâu, vẫn không thấy những loại gấu hay hổ nào chạy ra, còn đang bẽ bàng bỗng nghe tiếng người kêu la, từ phía đông nam chừng mươi hán tử chạy đến, nhìn y phục ra vẻ tiều phu thợ săn Nam triều. Liêu binh không đuổi được dã thú, biết rằng hoàng thượng mất vui, liền đi kiếm mấy kẻ nam nhân vây lại, hò hét xua đuổi, dồn họ đến trước ngựa của hoàng đế.
Gia Luật Hồng Cơ cười nói: -Thật tốt quá!

Y liền cởi chiếc cung nạm vàng khảm ngọc, lắp lang nha tiễn lông điêu, liên tiếp bắn ra, vèo vèo vèo mấy tiếng, không mũi tên nào trật, trúng sáu Nam nhân. Những người còn lại sợ đến mất hết hồn vía, quay mình bỏ chạy nhưng lại bị lính Liêu dùng mâu chặn đuổi trở lại.
Tiêu Phong thấy vậy hết sức bất nhẫn, kêu lên: -Bệ hạ!

Gia Luật Hồng Cơ cười nói: -Những kẻ còn lại để cho ngươi, để ta xem thần tiễn của huynh đệ thế nào!
Tiêu Phong lắc đầu: -Những người này có tội gì đâu, tha cho họ đi.
Gia Luật Hồng Cơ cười: -Người nam nhiều quá, cần phải giết sạch thì thiên hạ mới thái bình. Bọn chúng đầu thai lầm chỗ làm người phương nam, thế là có tội rồi.
Nói xong lại liên tiếp bắn ra, mỗi mũi tên là một người, túi đựng tên bắn đến một nửa hơn chục người Hán không ai thoát được, kẻ thì chết ngay, kẻ thì trúng bụng chưa tắt thở nằm gục xuống rên la. Đám quân Liêu reo hò ầm ỹ cùng hô: -Vạn tuế!
Tiêu Phong lúc ấy nếu như ra tay ngăn cản thì thừa sức đánh giạt những vũ

tiễn của Liêu đế nhưng công nhiên làm mất mặt nhà vua trước mắt quân lính thì quả là đại nghịch bất đạo, nhưng vẻ khó chịu không thể không tỏ ra nét mặt. Gia Luật Hồng Cơ cười hỏi: -Sao thế?

Y đang định cất cung đi, bỗng thấy một con ngựa vượt vòng săn, chạy vùn vụt tới. Gia Luật Hồng Cơ thấy người ngồi trên ngựa ăn vận theo kiểu Hán nhân, không cần hỏi han, tra tên vào loan cung bắn vụt ra phía người kia. Người kia giơ hai ngón tay kẹp được ngay mũi tên. Ngay khi đó mũi tên thứ hai của Gia Luật Hồng Cơ cũng đã bắn tới, tay trái người kia lại thò ra, kẹp được ngay. Thế nhưng con ngựa không chậm lại, vẫn băng băng chạy về phía Liêu chúa. Gia Luật Hồng Cơ tên bắn liên tiếp, hết mũi nọ đến mũi kia tưởng chừng như đầu tên nọ nối đuôi mũi tên kia.

Thế nhưng y bắn đã nhanh mà đối phương bắt tên lại còn nhanh hơn, chỉ trong khoảnh khắc, người bắn ra bảy mũi tên thì người kia bắt đủ bảy.
Liêu binh bảo vệ hoàng đế liền la ó, cùng giơ trường mâu ra chặn ngang trước mặt Gia Luật Hồng Cơ, en ngại kẻ kia phạm giá. Khi đó hai bên còn cách nhau chẳng bao xa, Tiêu Phong nhì rõ được mặt người kia rồi, giật mình kinh hãi kêu lên: -A Tử, ngươi đấy ư? Không được vô lễ với hoàng thượng.

Người trên ngựa cười khanh khách, ném bảy mũi tên bắt được cho bọn vệ binh, nhảy xuống ngựa, quay sang Gia Luật Hồng Cơ quì xuống hành lễ nói: – Hoàng thượng, tiểu nữ bắt tên của hoàng thượng, xin đừng trách. Gia Luật Hồng Cơ cười đáp: -Hảo thân thủ! Hảo bản sự!
A Tử đứng thẳng dậy kêu lên: -Tỉ phu ra đón tiểu muội đấy ư?

Hai chân nàng nhún một cái nhảy ngay tới trước mặt con ngựa Tiêu Phong đang cưỡi. Tiêu Phong thấy hai mắt cô gái lóng lánh có thần, vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ kêu lên: -A Tử, sao mắt cô sáng lại rồi?
A Tử cười đáp: -Đó là nhị đệ của tỉ phu chữa cho em đó, anh thử nghĩ có giỏi không?
Tiêu Phong lại chăm chú nhìn cô gái, đột nhiên rùng mình một cái, dường như trong ánh mắt A Tử có điều gì hết sức u uẩn thương tâm. Nói cho đúng ra mắt nàng đã khỏi, lại gặp lại mình thì phải mười phần hoan hỉ mới phải, vậy mà sao lại toát ra một vẻ buồn khổ như thế? Chỉ có tiếng cười của nàng là đầy vẻ sung sướng mà thôi. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chắc là trên đường đi tiểu A Tử gặp nhiều điều khốn khó”.

Đột nhiên A Tử kêu rú lên một tiếng, vọt lên phía trước. Tiêu Phong cũng cảm thấy có người ở sau lưng mình đột nhiên ra tay ám toán, lập tức quay lại, thấy một cái chĩa ba dùng để đi săn đang lao về mình. A Tử thò tay ra chộp lấy, thuận tay ném lại, chiếc đinh ba liền đâm thẳng vào ngực một người đang nằm dưới đất. Người đó là một thợ săn Hán nhân, bị Gia Luật Hồng Cơ bắn

trúng nhưng chưa chết, thu hết tàn lực, phóng chiếc đinh ba vào lưng Tiêu Phong. Y thấy Tiêu Phong ăn mặc theo lối cao quan nước Liêu, chỉ mong giết được ông để rửa mối thù bị người ta sát hại.

A Tử chỉ vào cái xác gã thợ săn chửi: -Đồ chó lợn không biết lượng sức mình kia, sao dám tính chuyện ám hại tỉ phu ta?
Gia Luật Hồng Cơ thấy A Tử phóng chiếc chĩa ba giết gã thợ săn, trong bụng mừng rỡ nói: -Hảo cô nương, cô thân thủ nhanh nhẹn, quả là tài giỏi thật. Mũi xoa đó dĩ nhiên không thể nào làm gì được Nam Viện Đại Vương, nhưng nếu như vì thế mà bị thương nhẹ thì không khỏi làm hỏng đại sự của trẫm. Hảo cô nương, cô muốn ta thưởng gì đây?

A Tử đáp: -Hoàng thượng phong cho tỉ phu của tiểu nữ làm quan to, cũng cho tiểu nữ một chức quan đi nhé? Chẳng cần phải to như của tỉ phu nhưng cũng đừng nhỏ quá để người ta coi thường thiếp.
Gia Luật Hồng Cơ cười đáp: -Bên nước Liêu nữ nhân chỉ làm việc nhà chứ không làm quan. Nếu đã thế, ngươi vốn đã là quận chúa rồi, ta thăng ngươi lên một cấp, phong ngươi làm công chúa, gọi là công chúa gì đây nhỉ? Được rồi, gọi là Bình Nam công chúa.
A Tử dẩu miệng nói: -Công chúa thì không làm.
Gia Luật Hồng Cơ ngạc nhiên: -Sao lại không làm?

A Tử đáp: -Hoàng thượng kết nghĩa anh em với tỉ phu thiếp, nếu phong cho tiểu nữ làm công chúa thì có khác gì con gái của hoàng thượng, như vậy hóa ra bị tụt một vai hay sao?
Gia Luật Hồng Cơ thấy A Tử đối với Tiêu Phong thần tình thân thiết mà Tiêu Phong lại không gần nữ sắc, cứ theo tục thường của người Liêu, làm quan to như thế, chẳng nói tam thê tứ thiếp mà đến ba chục vợ bốn chục nàng hầu cũng còn được, ắt hẳn cũng có tình ý với A Tử, nhưng vì chưng nàng còn nhỏ tuổi nên không tiện thành thân. Y bèn cười đáp: -Công chúa của ngươi đây là trưởng công chúa, ngang vai với em gái ta, chứ không phải ngang với con gái ta. Chẳng những ta phong ngươi làm Bình Nam công chúa mà cả tâm nguyện của ngươi ta cũng sẽ thành toàn cho, vậy đã được chưa?

Khuôn mặt xinh xắn của A Tử hơi ửng hồng nói: -Tiểu nữ có tâm nguyện gì đâu? Làm sao bệ hạ biết được? Bệ hạ là thân hoàng đế sao cũng lại bạ đâu nói đấy như thế?
Nàng xưa nay chẳng sợ trời sợ đất, không biết kiêng nể ai đối với Gia Luật Hồng Cơ cũng chẳng giữ lễ quân thần. Nước Liêu lễ pháp vốn còn thô sơ, Tiêu Phong lại là quí nhân được Gia Luật Hồng Cơ cực kỳ sủng tín, A Tử nói thế mà y chỉ cười khì khì nói:
-Nếu chức Bình Nam công chúa ngươi còn không chịu thì ta đành chịu thôi.

Một, hai, ba, có chịu hay không thì bảo?

A Tử khoan thai lạy phục xuống, nói nhỏ: -A Tử tạ ân.
Tiêu Phong cũng khom lưng hành lễ nói: -Tạ bệ hạ ân điển.
Ông coi A Tử chẳng khác gì em gái mình, nàng được Liêu đế phong thưởng, Tiêu Phong cũng phải cảm ơn. Gia Luật Hồng Cơ áng chừng mình đoán không sai nghĩ thầm: “Để ta tổ chức cho y một lễ cưới thật long trọng, sau đó mới sai đi đánh Tống, lúc đó ắt sẽ tận lực mà làm”. Còn Tiêu Phong trong bụng cũng tự hỏi: “Hoàng thượng phen này xuôi nam là có dụng ý gì? Sao lại phong cho A Tử cái danh hiệu Bình Nam công chúa? Bình Nam, chẳng lẽ hoàng thượng muốn động đao binh với Nam triều chăng?”. Gia Luật Hồng Cơ nắm tay Tiêu Phong nói: -Huynh đệ, anh em ta lâu ngày không gặp, phải tâm tình với nhau một lúc.

Hai người cưỡi ngựa cùng chạy về hướng nam, ngựa hay, đường lại phẳng nên chỉ chốc lát đã ra ngoài chục dặm. Cả một cánh đồng mênh mông bỏ hoang, trên ruộng mọc đầy gai góc cỏ dại. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người Tống sợ ta xua quân ra “đi gặt”, đến nỗi cả chục vạn mẫu ruộng tốt thế này mà không ai cày cấy”.

Gia Luật Hồng Cơ giục ngựa chạy lên trên một cái gò nhỏ, ghìm cương đứng trên đỉnh đồi, nhìn quanh quất đầy vẻ tự hào. Tiêu Phong cũng lên theo, đưa mắt nhìn về phương nam, chỉ thấy núi non trùng điệp, không biết đến đâu là bến bờ.

Gia Luật Hồng Cơ giơ roi chỉ xuống nói: -Huynh đệ, nhớ lại hơn ba mươi năm trước, phụ hoàng cũng đã từng dắt ta đến đây, chỉ về phương nam cho ta thấy giang sơn của người Tống quả là gấm vóc. Tiêu Phong đáp: -Quả đúng vậy!

Gia Luật Hồng Cơ nói: -Ngươi tự nhỏ lớn lên ở đất nam man, hiểu biết nhiều sơn xuyên nhân vật, ở phương nam hẳn là thoải mái hơn chúng ta phương bắc lạnh ngắt chứ gì?
Tiêu Phong đáp: -Địa phương ở nơi nào thì cũng vậy. Nói đến “thoải mái” thì chỉ cần không phải lo lắng, trong lòng vui sướng là được rồi. Người phương bắc không quen ở phương nam, người phương nam cũng không quen ở phương bắc. Ông trời đã sắp đặt như thế rồi, nêá nhất định đổi chỗ cho nhau thì chỉ thêm phiền não.

Gia Luật Hồng Cơ nói: -Ngươi là người Bắc nhưng cư ngụ ở phương nam, lâu quá hóa quen rôài, nay phải di cư lên phía bắc, không thấy bực bội hay sao? Tiêu Phong đáp: -Thâàn là kẻ lãng đãng giang hồ, bốn bể đâu cũng là nhà, không phải như bọn nhà nông hay kẻ chăn nuôi. Thần được bệ hạ ban cho nơi ăn chốn ở, cao quan hậu lộc vẫn hằng thâm cảm ân đức, còn có gì đâu mà

phiền não?

Gia Luật Hồng Cơ quay lại, nhìn chăm chăm vào mặt ông. Tiêu Phong không tiện bốn mắt nhìn nhau, mỉm cười rồi đưa mắt sang chỗ khác. Gia Luật Hồng Cơ chậm rãi nói: -Huynh đệ, ngươi với ta tuy kẻ chúa người tôi, nhưng là anh em kết nghĩa, lâu ngày không gặp nhau sao có vẻ hờ hững thế?

Tiêu Phong đáp: -Trước đây vi thần không biết bệ hạ là thiên tử nước Liêu này, nên đã không khỏi mạo muội, ngạo mạn vói cao, nhưng sau này biết rồi, lẽ nào còn dám coi như huynh đệ kết nghĩa?
Gia Luật Hồng Cơ thở dài: -Làm hoàng đế hóa ra chẳng có thể kết giao được với vài người tâm phúc, nghĩa khí thâm trọng hay sao? Huynh đệ, ví như ta theo ngươi hành tẩu giang hồ, không gì câu thúc, có khi lại sung sướng hơn!
Tiêu Phong mừng rỡ đáp: -Bệ hạ nếu thích có bạn bè, cũng đâu có khó gì. Thần có hai người anh em kết nghĩa ở Trung Nguyên, một người là Hư Trúc Tử
ở cung Linh Thứu, một người là Đại Lý Đoàn Dự, đều là những người nhiệt tình can đảm. Nếu như bệ hạ bằng lòng gặp họ, thần sẽ mời đến thăm Liêu quốc một chuyến.
Ông từ khi trở lại Nam Kinh, ngày ngày chung sống với đám thuộc hạ lính tráng, ngôn ngữ tính nết đều không hợp nhau, nên càng thêm nhớ nhung Hư Trúc, Đoàn Dự, chỉ mong hai người đến đây hàn huyên một phen.
Gia Luật Hồng Cơ mừng rỡ đáp: -Nếu đã là anh em kết nghĩa của huynh đệ, thì cũng là anh em của ta. Ngươi mau mau sai người đưa thư, bảo hai người đó đến Liêu quốc, trẫm sẽ phong quan chức to cho họ.
Tiêu Phong mỉm cười nói: -Mời họ qua đây chơi thì không khó nhưng bảo qua đây làm quan thì chắc họ không đi đâu.
Gia Luật Hồng Cơ trầm ngâm một chút rồi nói: -Huynh đệ, ta xem thần tình ngôn ngữ nhà ngươi, trong lòng dường như có điều gì rầu rĩ không vui. Ta có cả thiên hạ, đưa binh đi bốn bể chỗ nào chả được, có chuyẹân gì lo cho ngươi mà không xong? Sao hiền đệ không nói cho người anh này biết?
Tiêu Phong trong lòng cảm động nói: -Không dám giấu bệ hạ, chuyện này là mối hận bình sinh của thần, đã gây ra một sai lầm rất lớn, không thể nào vãn hồi được.
Nói rồi ông đem chuyện ngộ sát A Châu kể lại qua loa. Gia Luật Hồng Cơ vỗ đùi một cái lớn tiếng nói: -Thảo nào huynh đệ đã ngoài ba mươi mà không lấy vợ, thì ra chỉ vì không quên được người cũ. Huynh đệ, ngươi sở dĩ gây ra cái sai lầm đó, chẳng qua cũng bởi bọn nam man người Hán tệ bạc, thêm bọn ăn mày người Hán vong ân phụ nghĩa.
Chú mày không việc gì phải buồn rầu, ta lập tức hưng binh, đánh cho bọn nam man một trận, bắt sạch bọn võ lâm Trung Nguyên, luôn cả bọn Cái Bang đem

giết hết, để cho hả cái thù chết mẹ của huynh đệ nơi Nhạn Môn Quan, và cái hận bị vây khốn nơi Tụ Hiền Trang. Nếu chú mày thích gái đẹp người nam, ta sẽ chọn cho một nghìn đứa, hai nghìn đứa đến hầu hạ, có gì khó đâu?

Tiêu Phong trên mặt thoáng hiện vẻ gượng gạo, nghĩ thầm: “Ta đã giết lầm A Châu, kiếp này còn lấy ai nữa? A Châu là A Châu, tứ hải liệt quốc, thiên thu vạn tải cũng chỉ có một nàng A Châu mà thôi. Dù cho một nghìn, một vạn mỹ nữ người Hán cũng đâu có thể thay thế nàng? Hoàng thượng quen với cảnh hậu cung hàng trăm hàng nghìn cung nga phi tần, đâu có biết “tình” là thế nào?”. Ông bèn nói: -Đa tạ hậu ân của bệ hạ, nhưng cừu oán của thần với võ lâm Trung Nguyên đã một bút sổ toẹt rồi. Dưới tay vi thần đã giết không ít người trong võ lâm Trung Nguyên, lấy oán báo oán, quả là vô cùng vô tận. Chiến tranh xảy ra, liên miên không dứt, họa nọ tiếp họa kia, sự việc không biết sẽ đến chừng nào.

Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả nói: -Người Tống văn nhược, chỉ giỏi ăn to nói lớn, đến khi ra trận chưa đánh đã thua. Huynh đệ anh hùng vô địch, thống suất binh mã nam chinh, chỉ vài ngày là định được đất nam man, làm gì có chuyện binh liên họa kết? Huynh đệ, ca ca lần này xuống miền nam, ngươi có biết tại vì cớ gì không?
Tiêu Phong đáp: -Cũng đang mong được bệ hạ chỉ thị cho rõ ràng.

Gia Luật Hồng Cơ cười nói: -Chuyện thứ nhất là muốn được cùng hiền đệ gặp nhau cho bõ những ngày xa cách. Hiền đệ mới rồi đi qua phương tây, nước Tây Hạ hình thế khó hay dễ, binh mã yếu hay mạnh, ắt đã ghi nhớ trong lòng rồi. Theo ý kiến của hiền đệ, liệu có thu được Tây Hạ hay không?

Tiêu Phong bàng hoàng, nghĩ thầm: “Hoàng thượng đồ mưu quả không phải nhỏ, đã có bụng nam chiến Đại Tống, lại còn tính cả tây thu Tây Hạ”. Ông liền đáp: -Thần tử chuyến vừa qua tây du, chỉ định xem trò náo nhiệt công chúa Tây Hạ chiêu thân, đâu có nghĩ gì đến chiến trận công thủ. Bệ hạ minh giám, thần tử qua lại giang hồ lâu năm, cận chiến quyền cước thì cũng có chút kinh nghiệm, còn hành binh bố trận, thật chẳng biết tí gì.

Gia Luật Hồng Cơ cười đáp: -Hiền đệ việc gì phải khiêm tốn quá như thế? Quốc vương Tây Hạ kỳ này đánh trống khua chiêng tuyển phò mã, ai ngờ đầu voi đuôi chuột, không đâu vào đâu, thật chẳng bõ cười. Biết vậy kỳ đó hiền đệ dẫn theo mười vạn tinh binh, lấy quách cô công chúa Tây Hạ đem về Nam Kinh, thế mới thật là hay đấy.

Tiêu Phong mỉm cười, nghĩ thầm: “Hoàng thượng cứ nghĩ binh hùng tướng mạnh trong tay là muốn gì được nấy”. Gia Luật Hồng Cơ nói tiếp: -Ca ca sở dĩ lần này xuống đây, ấy là để thăng tước thăng quan cho hiền đệ. Hiền đệ nghe đây.

Tiêu Phong đáp: -Vi thần thụ ân như thế đã quá nhiều, không dám vọng tưởng …

Gia Luật Hồng Cơ lớn tiếng nói: -Nam Viện Đại Vương Tiêu Phong nghe đây! Tiêu Phong chỉ đành nhảy xuống ngựa, quì phục xuống đất. Gia Luật Hồng Cơ nói:
Nam Viện Đại Vương Tiêu Phong tận trung thể quốc, phò tá trẫm như tay
chân, nay thăng tước lên Tống Vương, Bình Nam đại nguyên soái, thống suất
ba quân.
Khâm thử.

Tiêu Phong trong bụng ngần ngừ, không biết phải làm sao, nói: -Vi thần không có công lao gì, thực không dám nhận trọng ân như thế.
Gia Luật Hồng Cơ lạnh lùng hỏi: -Sao thế? Ngươi cự mệnh không nhận chăng? Tiêu Phong thấy giọng y có vẻ gay gắt, biết rằng không thể nào từ chối, chỉ đành khấu đầu nói: -Thần Tiêu Phong tạ ân.
Hồng Cơ cười ha hả nói: -Có thế mới là hảo huynh đệ của ta chứ.

Y đưa tay đỡ Tiêu Phong dậy nói: -Huynh đệ, ta lần này xuống nam không phải chỉ đến Nam Kinh mà còn muốn ngự giá đến tận Biện Lương.
Tiêu Phong lại càng kinh hãi, run run hỏi: -Bệ hạ muốn đến Biện Lương? Chẳng … chẳng phải là …
Gia Luật Hồng Cơ cười nói: -Huynh đệ là Bình Nam đại nguyên soái thống suất ba quân, vì ta đi trước, chúng mình đánh thẳng tới Biện Lương. Sau này hoàng cung của thằng nhãi Triệu Hú kia sẽ là phủ Tống Vương của hiền đệ. Tiêu Phong hỏi lại: -Thế có nghĩa là bệ hạ định khai chiến với Nam triều ư?

Hồng Cơ đáp: -Không phải là ta muốn gây sự với Nam triều mà là bọn Nam man muốn cùng ta so tài cao thấp. Thời con mụ già thái hoàng thái hậu của Nam triều còn chấp chính, mọi việc chuyện gì đâu ra đó, ta tuy có bụng nam chinh nhưng không chắc ăn. Bây giờ bà lão đó chết rồi, thằng nhãi Triệu Hú miệng còn hôi sữa kia lại cho người sang dò thám phương bắc, huấn luyện quân đội, chiêu binh mãi mã, tích thảo đồn lương, ha ha, thằng nhãi đó không phải muốn đối phó ta thì còn ai nữa?

Tiêu Phong đáp: -Nam triều huấn luyện sĩ tốt mình cũng chẳng cần phải để ý làm gì. Mấy năm qua Tống Liêu không giao tranh, hai nước thái bình, Triệu Hú đến xâm phạm thì mình sẽ đánh cho chúng một trận tan tành. Còn như nếu y sợ thanh uy của bệ hạ, không dám vọng động khinh suất thì mình cũng chẳng cần chấp nhất tên tiểu tử đó làm chi.

Gia Luật Hồng Cơ nói: -Huynh đệ có chỗ chưa am tường, Nam triều đất rộng người đông, sản vật phong phú, nếu như có được một minh chúa, nhất định đối phó với Đại Liêu thì chúng ta không thể nào địch nổi. May sao gã Triệu Hú

kia hành động càn rỡ, biếm trục trung thần, đến cả gã râu rậm họ Tô cũng bị đuổi rồi. Lúc này vua tôi không hòa thuận, lòng người không theo, quả đúng là cái cơ hội nghìn năm một thuở. Lúc này không khởi sự thì còn chờ đến bao giờ?

Tiêu Phong đưa mắt nhìn xuống phương nam, trước mắt như hiện ra một cảnh tượng huyễn ảo: Hàng nghìn hàng vạn quân Liêu đang ào ào tiến xuống, nhà cửa cháy ngút trời, bao nhiêu là nam phụ lão ấu rên xiết dưới vó ngựa, tên bay khắp nơi, binh lính Tống Liêu chém giết, xác người rơi từ trên mình ngựa xuống, máu hòa lẫn với nước sông cuốn đi, xương trắng đầy đồng …
Gia Luật Hồng Cơ lớn tiếng nói: -Liệt tổ tông người Khất Đan chúng ta ai ai cũng mong thu đất Nam triều vào bản đồ, nhưng mấy lần đều thất bại. Hôm nay mệnh trời đã đến, đại công sẽ thành ở trong tay ta. Hảo huynh đệ, tên vua tôi hai chúng ta sẽ mãi mãi ghi trong thanh sử, chẳng phải là chuyện hay lắm sao?

Tiêu Phong quì phục xuống, liên tiếp khấu đầu nói: -Bệ hạ, vi thần có một việc khẩn cầu.
Gia Luật Hồng Cơ hơi kinh ngạc hỏi: -Ngươi muốn điều chi? Nếu ca ca có thể làm được thì không chối từ một chuyện gì hết.
Tiêu Phong đáp: -Xin bệ hạ vì muôn vạn sinh linh hai nước Tống Liêu, thu hồi thánh ý Nam chinh. Người Khất Đan chúng ta xưa nay sinh sống bằng đường du mục, dẫu có lấy được đất của Nam triều cũng chẳng làm gì. Huống chi binh đao là chuyện hung hiểm, chiến tranh là chỗ nguy nan đâu có nhất định chắc thắng, nếu như thất bại, lại khiến cho tổn thương đến uy danh của bệ hạ.
Gia Luật Hồng Cơ nghe giọng điệu của Tiêu Phong từ đầu chí cuối không muốn nam chinh, nghĩ đến vương công quí nhân, tướng soái đại thần Khất Đan trước nay hễ nghe đến “nam chinh” thì ai nấy nhảy cỡn lên reo hò, sao chỉ riêng Tiêu Phong lại ngăn trở? Y liếc nhìn Tiêu Phong thấy ông lông mày nhíu lại tỏ vẻ lo lắng nghĩ thầm: “Ta phong y làm Tống Vương, Bình Nam đại nguyên soái, ở Đại Liêu là một cao quan, chỉ dưới một người, ở trên vạn người, sao y lại không thấy vui là thế nào? Đúng rồi, y tuy là người Liêu nhưng từ bé được giống Nam man nuôi nấng lớn khôn, có thể nói một nửa là giống Nam man. Đại Tống là phụ mẫu chi bang của y, nghe ta phát binh chinh phạt nên vội vàng hết sức ngăn trở. Xem như thế này, nếu ta miễn cưỡng ép y cầm binh tiến về nam, chỉ sợ y không tận lực”. Y bèn nói: -Ý định nam chinh của ta đã quyết rồi, huynh đệ không nên nhiều lời.

Tiêu Phong đáp: -Chinh chiến là đại sự của quốc gia, xin bệ hạ suy nghĩ cho kỹ. Nếu như hoàng thượng nhất quyết nam chinh xin giao cho người hiền năng thì hơn. Để thần thống lãnh đại binh, e rằng làm hỏng việc của bệ hạ.

Phen này Gia Luật Hồng Cơ hùng hùng hổ hổ xuống phương nam, phong thưởng quyền cao tước trọng cho Tiêu Phong, sai ông thống suất hùng binh, ấy là nghĩ đến tình anh em kết nghĩa, ban cho Tiêu Phong một ân điển cực lớn, vẫn tưởng chắc ông sẽ sung sướng lắm, nào ngờ ông nói như thế chẳng khác nào đổ một thùng nước lạnh vào mặt mình, lại không chịu nhận chức Bình Nam đại nguyên soái, trong lòng hết sức bất mãn, lạnh lùng nói: -Trong lòng ngươi Nam triều coi hơn cả nước Liêu ư? Ngươi thà trung với Nam triều chứ không chịu trung với Đại Liêu chăng?

Tiêu Phong lạy phục xuống nói: -Bệ hạ minh giám. Tiêu Phong là người Khất Đan, dĩ nhiên phải trung với Đại Liêu rồi. Đại Liêu nếu gặp nguy nan, Tiêu Phong này dù phải nhảy vào nước sôi, xông vào lửa cháy, tận trung báo quốc, vạn tử bất từ.

Gia Luật Hồng Cơ hỏi: -Thằng nhãi con Triệu Hú đã có bụng thôn tính lãnh thổ Đại Liêu. Người đời thường bảo: Tiên hạ thủ vi cường, hậu hạ thủ tao ương. Nếu chúng ta không tiên phát chế nhân, không chừng có cái họa vong quốc diệt chủng. Ngươi bảo là tận trung báo quốc, vạn tử bất từ, vậy sao ta bảo ngươi vì nước thống lĩnh hùng binh, ngươi lại không phụng mệnh?

Tiêu Phong đáp: -Thần bình sinh giết người đã nhiều, thật không muốn hai tay dính thêm máu tanh nữa, xin bệ hạ bằng lòng cho thần từ quan, ẩn cư nơi rừng sâu núi thẳm.
Gia Luật Hồng Cơ nghe ông đòi từ quan, lại càng phẫn nộ, bụng nảy ra sát ý, tay liền để lên cán đao, muốn rút phắt ra chém đầu Tiêu Phong nhưng lập tức nghĩ lại: “Người này võ công ghê gớm, ta chém y một cái không chết thể nào cũng bị y làm hại. Huống chi trước đây y có công lớn dẹp loạn, lại cùng ta kết nghĩa anh em, bây giờ một lời không hợp đã giết công thần, như thế làm tổn đến ân đức”. Y bèn thở dài một tiếng, buông cán đao ra nói: -Ngươi với ta sở kiến không giống nhau, nhất thời không thể miễn cưỡng. Thôi ngươi quay về suy nghĩ lại cho kỹ, mong sẽ hồi tâm chuyển ý, nhận lệnh nam chinh.
Tiêu Phong tuy bái phục trên mặt đất nhưng người ở bên cạnh dù chỉ nhướng mày, giơ một ngón tay ông cũng đã cảnh giác ngay, huống chi Gia Luật Hồng Cơ tay để lên cán đao, trong lòng nổi ý định giết người thì làm gì ông không biết? Ông biết rằng nếu như mình còn nói thêm nữa, càng nói thì càng thêm hục hặc, e sẽ nghịch nhau bèn đáp: -Tuân chỉ.

Ông liền đứng lên, dắt con ngựa của Gia Luật Hồng Cơ lại. Gia Luật Hồng Cơ không nói một lời, nhảy lên ngựa, phóng vụt đi. Lúc trước xuôi nam, hai người quân thần cưỡi ngựa song song nay trở về bắc người sau kẻ trước, cách nhau cả dặm. Tiêu Phong biết Gia Luật Hồng Cơ đã có bụng nghi mình, nếu đi quá gần không khỏi khiến y bất an mà lỡ đề cập đến chuyện nam chinh, không lẽ

không trả lời nên chỉ theo ở xa xa.

Về đến thành Nam Kinh, Tiêu Phong mời Liêu đế vào ở trong vương phủ Nam Viện Đại Vương, Gia Luật Hồng Cơ cười đáp: -Ta không đến làm phiền ngươi đâu, để ngươi bình tĩnh lại, suy nghĩ cho kỹ họa phúc lợi hại, ta quay về ngự doanh nghỉ được rồi.

Tiêu Phong liền cung kính tiễn Gia Luật Hồng Cơ trở về ngự doanh. Gia Luật Hồng Cơ đem từ Thượng Kinh rất nhiều bảo đao lợi kiếm, tuấn mã mỹ nữ ban thưởng cho ông, Tiêu Phong tạ ơn đem cả về vương phủ.
Tiêu Phong bình thời rất ít khi đích thân giải quyết chính vụ, các loại văn vật thư tịch không màng đến, thành ra vương phủ không có thư phòng. Ông chỉ thường cùng chư tướng ngồi bệt xuống trong đại sảnh, gọi đem rượu ra uống, cắt lấy thịt mà ăn, không mất cái phong vị hào sảng trước đây khi ở cùng bọn Cái Bang. Người Khất Đan sinh sống trong sa mạc, nơi trướng phủ cũng đều như thế, thấy đại vương cũng hòa hợp với mình, đối xử thân thiết nên ai nấy đều hoan hỉ.

Lúc Tiêu Phong từ ngự doanh trở về thì trời đã tối, vừa bước chân vào đại sảnh, đã thấy dưới ánh đuốc mỡ bò bập bùng, một thiếu nữ áo tím nằm phục trên tấm da hổ, chính là A Tử.
Nàng nghe tiếng chân người vội vàng nhỏm dậy, nhào tới ôm cổ Tiêu Phong, nhìn vào mắt ông hỏi: -Em trở về tỉ phu có mừng không? Sao mặt mày lại có vẻ khó chịu như thế?
Tiêu Phong lắc đầu nói: -Ta buồn là vì chuyện khác. A Tử, ngươi trở về, ta mừng lắm chứ. Ở trên đời này, ta chỉ còn khắc khoải một mình cô thôi, sợ không biết cô có gặp chuyện gì nguy hiểm không? Ngươi trở lại ở bên cạnh ta, mắt lại chữa khỏi rồi, chẳng còn gì phải lo lắng.

A Tử cười nói: -Tỉ phu, không những mắt em khỏi rồi mà hoàng thượng lại còn phong em làm công chúa, anh có thấy vui không?
Tiêu Phong đáp: -Có phong công chúa hay không thì tiểu A Tử vẫn là tiểu A Tử. Hoàng thượng cũng vừa thăng quan cho ta, ôi!
Ông vừa nói vừa thở dài sườn sượt, nhắc một chiếc túi da bò đựng đầy rượu lên, mở nắp tu một hơi. Trong đại sảnh chỗ nào cũng để toàn là túi rượu, mỗi khi Tiêu Phong thèm là uống, chẳng cần ai phục dịch. A Tử cười nói: -Chúc mừng tỉ phu được thăng quan.

Tiêu Phong lắc đầu nói: -Hoàng thượng phong ta làm Tống Vương, Bình Nam đại nguyên soái, sai ta đem binh đi công đả Nam triều. Ngươi thử nghĩ xem, một khi chinh chiến thì biết bao nhiêu quan quân bách tính sẽ phải chết? Ta không chịu bái mệnh, thành thử hoàng thượng bực tức lắm.

A Tử đáp: -Tỉ phu quả là quái lạ. Tiểu muội nghe nói ở Tụ Hiền Trang tỉ phu đã

từng giết vô số hào kiệt Trung Nguyên, chẳng thấy thở dài chút nào. Bọn man tử võ lâm Trung Nguyên ức hiếp anh đến thế, hôm nay được hoàng thượng cho thổ khí dương mi, sai suất lãnh đại quân về giết sạch sành sanh bọn khốn kiếp đó, đại ca lại không vui là sao?

Tiêu Phong giơ chiếc bao da lên uống một ngụm lớn, lại thở dài một tiếng nói: -Hôm đó ta và tỉ tỉ ngươi bị họ vây đánh, nếu không hết sức chiến đấu thì sẽ bị loạn đao phân thi, đó là thế chẳng đặng đừng. Hôm đó những người bị ta giết có vô số bạn cũ của ta, sau này nghĩ lại trong lòng hết sức xót xa.

A Tử kêu lên một tiếng: -Ồ, tiểu muội biết rồi, năm xưa tỉ phu vì chị A Châu nên mới đành lòng giết người. Thế như bây giờ tiểu muội năn nỉ tỉ phu đi giết bọn man tử Nam triều, liệu có được không?
Tiêu Phong lườm cô ả, gắt lên: -Mạng người là chuyện lớn, vậy mà ngươi nói ra tưởng như giết bò giết cừu không bằng. Cha ngươi tuy là người Đại Lý nhưng mẹ ngươi cũng là người nước Tống Nam triều.
A Tử bĩu môi quay mặt đi nói: -Tiểu muội đã biết trong lòng tỉ phu, dù một nghìn em cũng chẳng bằng được chị ấy, một vạn A Tử sống cũng chẳng bằng được một A Châu đã qua đời. Xem ra chỉ có nước em chết quách cho xong, lúc đó anh mới mủi lòng được một chút. Giá biết thế … em … em chẳng hơi đâu phải đường sá xa xôi lặn lội đi tìm anh. Anh … anh có bao giờ coi ai ra gì đâu?
Tiêu Phong nghe nàng nói giọng lưỡi ra chiều u oán, không khỏi bàng hoàng, nhớ đến khi trước cô ta phát xạ độc châm ám toán mình, cũng chỉ cốt để mình mãi mãi ở bên cạnh nàng, bèn đáp: -A Tử, ngươi còn nhỏ, chỉ được cái bướng bỉnh ngang ngược, không hiểu chuyện người lớn …

A Tử cướp lời: -Cái gì mà người lớn với chẳng trẻ con? Em không còn là con nít nữa. Tỉ phu đã nhận lời tỉ tỉ lo liệu cho em, anh … anh chỉ lo cho em cơm ăn, áo mặc, chứ có … chứ có bao giờ lo đến lòng dạ em đâu? Anh có bao giờ hỏi đến tâm sự em thế nào đâu?

Tiêu Phong càng nghe càng thêm kinh hoảng, không dám tiếp lời. A Tử quay lưng lại, nói tiếp: -Khi mắt em bị mù, em biết là tỉ phu sẽ chẳng bao giờ thích em nên có dám gần gũi đâu? Bây giờ mắt em sáng lại rồi, anh cũng chẳng thèm ngó ngàng gì đến, em … em có chỗ nào không bằng A Châu? Mặt mũi không xinh đẹp ư? Hay là không thông minh bằng? Cũng bởi vì chị ấy chết rồi nên anh mới ngày đêm khắc khoải. Em … em … tiếc thay hôm đó không bị anh một chưởng đánh chết, như thế anh sẽ mãi mãi nhớ đến em như nhớ A Châu …

Nàng nói đến tâm sự đau lòng đó, đột nhiên quay lại sà vào lòng Tiêu Phong, khóc nức nở. Tiêu Phong lúng túng, không biết phải nói thế nào cho phải.
A Tử thút thít một hồi rồi nói: -Thế tiểu muội còn trẻ con ở chỗ nào? Hôm ở

bên chiếc cầu đêm mưa bão sấm sét, thấy anh đánh chết chị em rồi, khóc lóc thật não lòng, em cảm thấy thương mến không biết chừng nào. Em tự nhủ: “Đại ca chẳng nên khổ sở như thế. Không có A Châu thì em sẽ là A Châu, hết lòng hết dạ yêu thương anh”. Em đã nhất định rồi, nguyện sẽ suốt đời ở bên anh. Thế nhưng đại ca lại cứ duỗi ra khiến tiểu muội phải tự nói với mình: “Giỏi nhỉ, anh không cho tôi đi theo, đã thế tôi sẽ làm cho anh tàn phế, mọi việc sẽ phải tùy thuộc vào tôi, sẽ phải theo tôi mãi mãi”.
Tiêu Phong lắc đầu: -Chuyện cũ không cần phải nhắc lại nữa.

A Tử gắt lên: -Sao lại là chuyện cũ? Trong lòng em thì lúc nào nó cũng như mới ngày hôm nay. Em không nói với tỉ phu nữa, xưa nay anh vẫn nào có coi em ra gì đâu?
Tiêu Phong nhẹ nhàng vuốt mái tóc mềm mại của cô gái nói khẽ: -A Tử, tuổi của ta hơn gấp đôi tuổi cô, lo liệu cho cô như chú như anh. Trong đời ta chỉ yêu thương có một người con gái, đó là chị cô thôi. Mãi mãi sẽ không có người đàn bà nào thay thế cho A Châu được, ta cũng quyết không yêu thương một người thứ hai nào. Hoàng thượng ban cho ta hơn một trăm mỹ nữ, đến nay ta cũng chưa nhìn thẳng vào mặt người nào. Ta lo lắng cho cô cũng chỉ vì A Châu mà thôi.

A Tử tức tối, đột nhiên giơ tay tát bốp một cái lên mặt Tiêu Phong. Tiêu Phong nếu như muốn tránh thì chưởng đó làm sao trúng mặt được? Chỉ vì ông thấy A Tử tức giận đến mặt tái nhợt, trong ánh mắt đầy vẻ thê lương, càng nhìn càng thấy xót xa nên không tránh né để nàng tát một cái cho hả dạ.
A Tử đánh được một cái lại đâm hối hận, kêu lên: -Tỉ phu, em quả là tệ hại, anh … anh đánh lại đi, đánh lại đi!
Tiêu Phong nói: -Thế chẳng phải tính trẻ con thì là gì? A Tử, trên đời này có chuyện gì gọi là lớn đâu, cũng chẳng phải đau lòng đến thế. Sao ánh mắt ngươi lại có vẻ bi thương như vậy? Tỉ phu là một hán tử thô lỗ, ngươi quả như muốn bầu bạn với ta thì chỉ thêm bực mình.

A Tử đáp: -Có thực mắt em tỏa ra vẻ bi thương đau đớn hay chăng? Ôi, cũng tại cái tên xú bát quái đó làm khổ em.
Tiêu Phong hỏi lại: -Cái gì mà bảo tên xú bát quái đó làm khổ ngươi?
A Tử đáp: -Đôi mắt của em đây, chính là của tên đầu sắt xấu như ma cho em đó.
Tiêu Phong nhất thời chưa rõ nàng nói chuyện gì nên nhắc lại: -Tên đầu sắt?
Xấu như ma?

A Tử đáp: -Cái gã bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền, tỉ phu có biết đó là ai không? Nói ra quả khiến người ta cười đến vỡ bụng, y chính là kẻ em đã đeo cho một cái mặt nạ sắt Du Thản Chi. Y chính là con của nhị trang chủ Tụ Hiền

Trang Du Câu, đã từng dùng vôi bột ném vào anh đó. Cũng chẳng biết y học ở đâu được môn võ công cổ quái cứ lẽo đẽo theo em, cố hết sức làm cho em vui lòng. Em bị y đánh lừa thật khổ quá, khi đó mắt em mù, cũng chẳng ai săn sóc nên cứ một Trang công tử ơi, hai Trang công tử hỡi. Bây giờ nghĩ lại thật là mắc cở.

Tiêu Phong lạ lùng: -Thì ra gã Trang bang chủ của Cái Bang chính là người bị ngươi bắt làm Thiết Sửu, thảo nào mặt mày đầy sẹo, chắc là lúc y gỡ chiếc mặt nạ ra nên mới bị thương. Gã hề sắt đó là Du Thản Chi đấy sao? Ôi, ngươi quả thực tai quái hết cỡ, hành hạ người ta đến mức ấy. Gã đó không thù ngươi, lại chăm lo săn sóc ngươi, quả là hiếm có.

A Tử cười khẩy đáp: -Hứ, cái gì mà hiếm có? Y có tốt lành gì đâu? Y chỉ muốn em lấy y đấy thôi.
Tiêu Phong nhớ lại tình cảnh ánh mắt Du Thản Chi nhìn A Tử trên núi Thiếu Thất quả là đầy mối thâm tình, có điều khi ấy ông không chú ý bèn nói: -Ngươi biết rõ mọi sự rồi, tức quá liền giết y đi rồi móc hai mắt y chứ gì?
A Tử lắc đầu: -Không phải, em nào có giết y, đôi mắt này do y tự nguyện cho em đó.
Tiêu Phong lại càng không hiểu: -Vì cớ gì y lại bằng lòng móc mắt mình ra đem cho ngươi?
A Tử đáp: -Quả thực chưa thấy ai ngu như gã này. Tiểu muội cùng y đến Phiêu Miểu Phong cung Linh Thứu rồi, tìm được nghĩa đệ của tỉ phu là Hư Trúc Tử, nhờ ông ta chữa mắt. Hư Trúc Tử lục sách thuốc đọc thật kỹ, nói là phải kiếm cho được mắt người sống còn tươi thay vào mới được.

Trên cung Linh Thứu ai ai cũng là hạ thuộc của Hư Trúc Tử, em có cầu y chữa, y cũng chẳng bằng lòng móc mắt họ ra. Em lại bảo Du Thản Chi xuống dưới núi bắt một người nào đó đem lên thì gã liền khóc lóc, bảo là sau khi em chữa khỏi mắt rồi, nhìn rõ bộ mặt của hắn sẽ không còn ngó ngàng gì đến y nữa. Em bảo em sẽ không bỏ y, y không tin.

Có ngờ đâu y kiếm một con dao đến tìm Hư Trúc Tử nguyện ý tặng đôi mắt cho em. Hư Trúc Tử nhất định không chịu, gã đầu sắt liền lấy dao rạch ngang vạch dọc mấy đường trên người, trên mặt mình bảo là nếu Hư Trúc Tử không bằng lòng y sẽ tự sát ngay. Hư Trúc Tử không biết làm sao, chỉ đành lấy đôi mắt y thay vào cho em.

Nàng kể có vẻ giản dị tưởng như một chuyện thật bình thường nhưng Tiêu Phong nghe rồi hết sức kinh hãi, những chuyện hung hiểm kinh tâm động phách ông từng trải cũng không sao hơn được. Hai tay ông run run, bịch một tiếng vứt túi ruợu trên tay xuống nói: -A Tử, có thật Du Thản Chi cam tâm tình nguyện đem đôi mắt thay cho ngươi hay chăng?

A Tử đáp: -Đúng vậy.

Tiêu Phong nói: -Ngươi … ngươi quả là lòng lim dạ đá, người ta đem đôi mắt cho ngươi mà ngươi cũng nhận hay sao?
A Tử nghe ông nói có vẻ gay gắt, mắt chớp chớp, lại muốn khóc, đột nhiên nói: -Tỉ phu, nếu như mắt anh bị mù thì em cũng cam tâm tình nguyện đem mắt tặng cho anh ngay.
Tiêu Phong nghe nàng nói thật hết sức sắt đá, không phải chuyện đùa, trong lòng hết sức cảm động, dịu dàng nói: -A Tử, vị Du quân đó đối với ngươi một mối thâm tình, ngươi quả là có phúc mà không biết hưởng. Ngoài y ra trên đời này kiếm đâu ra được một tình lang như thế nữa? Hiện giờ y đang ở đâu?
A Tử đáp: -Hẳn y vẫn còn ở cung Linh Thứu. Y không có mắt, ngọn Phiêu Miểu hiểm trở như thế làm sao xuống được?
Tiêu Phong nói: -Ồ, không chừng nhị đệ đã kiếm được mắt của một tử tù nào thay mắt cho y rồi.
A Tử đáp: -Không thể được, chú tiểu đó …ấy quên, Hư Trúc Tử có nói, mắt của tiểu muội chỉ bị lão tặc Đinh Xuân Thu làm hỏng giác mạc nhưng cân mạch không sao thành ra mới thay được. Thiết Sửu thì mắt bị móc ra rồi, gân mạch đứt hết, không thể nào thay được nữa.

Tiêu Phong nói: -Vậy ngươi mau mau trở lại bầu bạn với y, từ nay không bao giờ rời xa y nữa.
A Tử lắc đầu: -Tiểu muội không đi, em chỉ đi theo tỉ phu thôi, cái thứ người xấu như yêu quái kia, trông thấy đã buồn nôn, ai lại ở với hạng người như thế bao giờ?
Tiêu Phong giận dữ nói: -Người ta mặt mũi tuy xấu nhưng lòng dạ còn đẹp gấp trăm lần ngươi. Ta không cần ngươi phải ở với ta, không muốn thấy mặt ngươi nữa.
A Tử dậm châm khóc òa lên: -Em … em …

Chỉ nghe ngoài cửa có tiếng chân người, hai tên vệ sĩ cùng hô lớn: -Thánh chỉ đến!
Sau đó sảnh môn mở ra, Tiêu Phong và A Tử cùng quay lại, thấy một sứ giả của hoàng đế đang tiến vào. Lễ nghi triều đình nước Liêu không phiền phức như của Đại Tống, thần tử trông thấy sứ giả của nhà vua, chỉ cần đứng thẳng nghe đọc thánh chỉ, không phải chạy đi thay triều phục, bày hương án, quì xuống tiếp chỉ. Gã sứ giả lớn tiếng đọc: -Hoàng thượng cho gọi Bình Nam công chúa kiến giá.
A Tử đáp: -Vâng!

Nàng vội vàng quệt nước mắt, theo sứ giả đi ra. Tiêu Phong nhìn theo sau lưng A Tử, nghĩ thầm: “Gã Du Thản Chi đối với cô nàng tình ái thâm trọng,

trên đời xưa nay hiếm có. Chỉ vì ta đối với A Tử là mối tình đầu, lại ở bên cạnh ngày đêm không rời, sau khi nàng trọng thương, chẳng tị hiềm nam nữ, hết sức chiếu liệu, thành thử cô ả mới nảy sinh ra một tình quyến luyến thật trẻ con. Ta phải làm thế nào khuyên A Tử quay trở lại bên cạnh Du quân chứ người ta đối với cô nàng như thế, một người đã móc mắt tặng cho mình bây giờ bỏ rơi thì trời đất còn dung sao được”.

Tiếng chân của sứ giả và A Tử xa dần, sau cùng không còn nghe thấy nữa, lại nhớ đến chỉ ý của Gia Luật Hồng Cơ sai mình đi chinh phạt Tống triều: “Hoàng thượng gọi A Tử có chuyện gì thế nhỉ? Chắc là bảo nàng khuyên ta nhận lời chinh phạt nhà Tống. Nếu như ta nhất quyết không phụng chiếu thì còn gì là quốc pháp nữa? Vừa rồi ở nam giao tranh chấp, hoàng thượng để tay lên cán đao, đã toan giết ta, có lẽ còn nghĩ tình quân thần, nghĩa huynh đệ mà phải cố khắc chế. Nếu như ta phụng mệnh phạt Tống, đem binh sang giết hàng nghìn hàng vạn người thì sao đành lòng? Huống chi cha ta đang xuất gia ở chùa Thiếu Lâm, nghe tin ta đem quân xuống phương nam, ắt sẽ thất vọng lắm. Ôi, nếu ta kháng lại mệnh vua thì là kẻ bất trung, không coi tình kim lan vào đâu thì là bất nghĩa, còn như tấn công xuống phương nam, tàn sát bách tính thì lại là kẻ bất nhân, vi phạm vào chí hướng của cha thì là kẻ bất hiếu. Trung hiếu nan toàn, nhân nghĩa không thể hai bề vẹn cả, bây giờ mình phải làm sao? Bỏ, bỏ, bỏ đi thôi! Cái chức Nam Viện Đại Vương này ta không thèm làm nữa, chi bằng treo ấn đóng kho, không từ biệt hoàng thượng mà đi là xong. Thế nhưng đi đâu bây giờ? Trời đất mang mang, sao lại không có chỗ cho Tiêu Phong này dung thân?”.

Ông cầm chiếc túi rượu lên tu hai ngụm, nghĩ thầm: “Thôi mình đợi A Tử về, cùng nàng đi lên Phiêu Miểu Phong, một là đưa nàng đến gặp Du quân, hai là cùng nhị đệ hàn huyên một chuyến, sau đó tính lại”.
A Tử theo sứ giả đi tới ngự doanh, vừa gặp Gia Luật Hồng Cơ đã lanh chanh nói ngay: -Hoàng thượng, cái tước Bình Nam công chúa ban cho tiểu nữ, tiểu nữ không nhận đâu.
Gia Luật Hồng Cơ cho đòi A Tử đến quả đúng như Tiêu Phong dự liệu, chính là để bảo nàng khuyên Tiêu Phong phụng chỉ nam chinh, gặp nàng chưa gì đã nói phủ đầu như thế không khỏi nhíu mày, hậm hực nói: -Triều đình phong thưởng là chuyện quốc gia đại sự, chứ có phải trò đùa của trẻ con đâu mà để ngươi thích thì lấy, không thích thì thôi.

Ông vốn dĩ nghĩ đến cái tình với Tiêu Phong, yêu ai yêu cả đường đi, thành thử đối với A Tử luôn luôn dịu ngọt, bây giờ nói thế là nặng lắm rồi. A Tử oa lên một tiếng khóc hu hu. Gia Luật Hồng Cơ giậm chân quát: -Quá lắm rồi! Quá lắm rồi! Chẳng ra thể thống gì cả.

Bỗng nghe từ sau trướng có tiếng đàn bà yểu điệu nói: -Hoàng thượng, sao lại giận thế? Lẽ nào lại dọa một cô bé con đến khóc òa lên thế kia?

Kế đó nghe tiếng vòng kêu leng keng, một phụ nữ sang trọng đủng đỉnh đi ra. Người đàn bà đó đôi mắt long lanh, vừa chải đầu vừa cười nửa miệng, A Tử nhận ra đó chính là Mục quí phi, người được hoàng thượng sủng ái nhất, liền sụt sùi nói: -Mục quí phi, tỉ tỉ lại đây xem thử có công bình không nào? Tiểu muội chỉ nói là không nhận chức Bình Nam công chúa, thế mà hoàng thượng liền la tiểu muội ngay.

Mục quí phi thấy nàng khóc lóc thật đáng thương, hai người đã lâu không gặp, thân hình A Tử đã cao lớn hơn nhiều, mặt mày cũng thêm xinh đẹp, bèn nháy mắt cho Gia Luật Hồng Cơ, nhếch mép cười nói: -Hoàng thượng, nếu cô ấy không chịu làm Bình Nam công chúa thì hoàng thượng phong cho cô ấy làm Bình Nam quí phi đi.

Gia Luật Hồng Cơ vỗ đùi quát: -Chỉ nói xàm! Ta phong cho đứa bé này là vì Tiêu Phong huynh đệ, một người là Bình Nam đại nguyên soái, một người là Bình Nam công chúa để cho hai người nở mày nở mặt mà thành hôn. Có ngờ đâu Tiêu Phong không chịu làm Bình Nam đại nguyên soái, còn cô nhỏ này thì không chịu làm Bình Nam công chúa. Phải rồi, ngươi là người nam man nên không chịu vì ta mà bình nam, phải vậy không?

Trong giọng nói có ẩn ý uy hiếp. A Tử đáp: -Tiểu nữ chẳng cần biết bình nam hay không bình nam! Bệ hạ bình đông cũng được, bình tây cũng được, tiểu nữ chẳng cần biết đến. Có điều tỉ phu của tiểu nữ … tỉ phu lại ép tiểu nữ lấy một gã mù hai mắt xấu như ma.

Hồng Cơ và Mục quí phi hai người nghe thế hết sức lạ lùng, cùng hỏi: -Sao thế?
A Tử không muốn nói rõ đầu đuôi, chỉ đáp: -Tỉ phu không thích tiểu nữ nên ép lấy người khác.
Ngay khi đó, ngoài trướng có người gọi nhỏ: -Hoàng thượng!
Gia Luật Hồng Cơ đi ra thấy tên vệ sĩ thân tín của Tiêu Phong, gã kia nói nhỏ: – Khải bẩm hoàng thượng: Tiêu đại vương dán một bao thư bên ngoài kho, còn chiếc ấn vàng dùng vải bao lại treo tại xà nhà, xem như thế, chắc … chắc là có ý bỏ đi không từ biệt rồi.

Gia Luật Hồng Cơ nghe thế, lập tức nổi cơn thịnh nộ kêu lên: -Phản rồi, phản rồi! Y có còn coi ta là hoàng đế nữa hay thôi?
Y suy nghĩ rồi nói: -Mau triệu Đô Chỉ Huy ngự doanh lại đây.
Chỉ giây lát Đô Chỉ Huy ngự doanh đã đến nơi. Gia Luật Hồng Cơ nói: -Ngươi dẫn binh mã, vây bốn phía Nam Viện vương phủ lại cho ta.
Y lại hạ chỉ: -Truyền lệnh đóng chặt cửa thành, không cho bất cứ ai xuất nhập.

Y lại sợ Tiêu Phong dẫn binh làm phản nên không ngớt ra lệnh, truyền cho các đại tướng bộ hạ của Nam Viện đại vương đến chầu. Mục quí phi ở trong trướng nghe thấy tiếng tù và bên ngoài từng hồi nổi lên không dứt, tiếng vó ngựa lộp cộp, hiển nhiên đang có biến cố. Người Khất Đan giới hạn nam nữ rất nhẹ nên bà ta liền đi ra ngoài hỏi nhỏ Gia Luật Hồng Cơ: -Bệ hạ, có chuyện gì thế? Làm gì mà nộ khí xung thiên như vậy?

Gia Luật Hồng Cơ giận dữ đáp: -Gã Tiêu Phong không biết phải quấy, toan tính phản ta bỏ đi. Gã này lòng vẫn hướng về Nam triều, chắc hẳn định báo cho bọn Nam man. Y biết nhiều chuyện quân quốc bí mật của Đại Liêu, nếu sang Tống triều sẽ trở thành mối lo trong gan ruột.

Mục quí phi trầm ngâm nói: -Từng nghe bệ hạ nói rằng, người đó võ công ghê gớm lắm, nếu như không bắt được, để y thoát vòng vây thì quả là mầm họa lớn.
Gia Luật Hồng Cơ đáp: -Chính thế.

Y quay sang nói với vệ sĩ: -Truyền lệnh Phi Long Doanh, Phi Hổ Doanh, Phi Báo Doanh, hỏa tốc đến tăng viện cho Nam Viện Đại Vương phủ.
Ngự doanh vệ sĩ nghe lệnh vội vàng truyền xuống. Mục quí phi lại nói: -Bệ hạ, thiếp có một kế.
Bà ta ghé tai Gia Luật Hồng Cơ nói một hồi. Gia Luật Hồng Cơ gật gù: -Sử dụng được đấy. Nếu việc này xong, trẫm sẽ trọng thưởng.
Mục quí phi mỉm cười nói: -Chỉ cần bệ hạ vui lòng, đó là trọng thưởng rồi. Bệ hạ đãi thiếp như thế này còn mong mỏi gì hơn nữa?
Việc điều động binh mã ngự doanh bên ngoài tuy A Tử ngồi trong trướng nhưng chẳng thèm để ý. Người Khất Đan hò hét chạy qua chạy lại xưa nay nàng nghe đã nhiều, mỗi khi ra ngoài đi săn cũng đã rầm rĩ lên rồi, có biết đâu là Gia Luật Hồng Cơ đang chỉ huy lùng bắt Tiêu Phong. Nàng ngồi trên một chiếc yên lạc đà, bụng dạ rối bời: “Lòng ta đối với tỉ phu đâu phải là anh ta không biết, chỉ có điều … có điều y không để ý đến ta đấy thôi, lại bảo ta đi bầu bạn với tên người không ra người, ngợm không ra ngợm kia. Ta … ta thà chết còn hơn chứ nhất định không chịu, không chịu, muôn vạn lần không chịu”. Trong bụng nàng nghĩ như thế, bàn chân không ngớt đá vào hình đầu con hổ dệt trên tấm thảm lót dưới sàn.

Đột nhiên có một bàn tay nhẹ nhàng để lên vai nàng, A Tử hoảng hốt ngẩng đầu lên, nhận ra đôi mắt dịu dàng thân mật của Mục quí phi, nghe bà ta cười hỏi: -Tiểu muội muội nghĩ ngợi gì mà thẫn thờ như thế? Lại nghĩ đến tỉ phu có phải không?

A Tử nghe nhắc đến tâm sự của mình, tự nhiên bẽn lẽn cúi đầu không nói. Mục quí phi ngồi xuống ngang với nàng, cầm bàn tay nhẹ nhàng vuốt ve, nhỏ

nhẹ nói: -Tiểu muội muội, đàn ông người nào cũng thô lỗ nóng nảy, hoàng thượng đây cũng như Nam Viện Đại Vương, hai người đều là anh hùng hảo hán đương thế, muốn thu phục họ quả không dễ chút nào.

A Tử gật đầu thấy bà ta nói quả là hữu lý. Mục quí phi lại tiếp: -Đàn bà trong cung hàng trăm hàng nghìn, thiếu gì kẻ đẹp hơn chị, chiều chuộng hoàng thượng hơn chị. Thế nhưng hoàng thượng sủng ái chị hơn cả, tuy một phần cũng là duyên phận nhưng một phần cũng là do vị lão hòa thượng chùa Thánh Đức ở Thượng Kinh chiếu cố. Tiểu muội tử, hiện giờ lòng của tỉ phu không quyến luyến em thì cũng chẳng nên rầu rĩ. Đợi khi về Thượng Kinh rồi, em đi với chị đến chùa Thánh Đức xin với vị cao tăng kia may ra ngài có giúp được chăng?
A Tử lạ lùng hỏi: -Thế lão hòa thượng kia có cách gì thế?

Mục quí phi đáp: -Việc này chị nói riêng với em, em không được nói cho một người thứ hai nào biết. Em phải thề độc quyết không tiết lộ bí mật mới được. A Tử liền nói: -Nếu tôi đem bí mật của Mục quí phi nói cho ai nghe thì sẽ bị loạn đao phân thi, chết không yên lành.

Mục quí phi trầm ngâm rồi nói: -Không phải chị không tin em có điều việc này liên hệ rất lớn, em phải thề độc một lần nữa.
A Tử lại nói: -Được, nếu như em tiết lộ việc bí mật chị nói cho em hay, thì em..
thì em sẽ bị tỉ phu một chưởng đánh chết tươi.

Nàng nói tới đây, trong lòng vừa ngọt ngào lại vừa chua chát. Mục quí phi gật đầu nói: -Bị một người mình thương yêu một chưởng đánh chết còn thê thảm gấp trăm lần loạn đao phân thi. Vậy thì chị tin em rồi. Hảo muội tử, vị cao tăng đó Phật pháp vô biên, thần thông quảng đại, sau khi ta quì xuống khẩn cầu, ông ta cho chị hai lọ nước thánh, bảo chị thành tâm khấn vái cầu xin, len lén cho người mình thương yêu uống một bình. Người đàn ông đó từ nay sẽ mãi mãi thương yêu, đến chết cũng không thay đổi. Ta đã cho hoàng thượng uống một lọ rồi, nay còn lại một bình.

Bà ta nói xong lấy trong túi ra một cái bình sứ màu hồng, nắm chặt trong tay, dường như sợ mất. Thực ra dưới sàn trải thảm thật dày, dẫu có rơi cũng chẳng hề chi. A Tử vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, cầu khẩn: -Hảo tỉ tỉ, chị cho em xem đi.

Nàng từ nhỏ đã làm môn hạ phái Tinh Tú những loại bùa mê thuốc lú hớp hồn người ta nàng vốn tin sẵn từ lâu. Mục quí phi nói: -Xem thì được nhưng đừng làm đổ đấy nhé.
Hai tay cầm chặt, trịnh trọng đưa ra. A Tử cầm lấy, mở nắp ra đưa lên mũi ngửi, thấy có mùi thơm nhè nhẹ. Mục quí phi vội đưa tay lấy lại, đóng nắp, vặn kỹ mấy lần, dường như sợ dược tính bay mất nói: -Thực ra chị có chia cho em

cũng chẳng hề chi. Có điều chị sợ nếu như hoàng thượng thay lòng đổi dạ thì phải dùng đến thứ nước thánh này.

A Tử nói: -Chị đã bảo hoàng thượng uống một lọ rồi thì vĩnh viễn không thay đổi mà?
Mục quí phi mỉm cười đáp: -Nói thì thế nhưng làm sao biết được thứ nước thánh này có hiệu quả bao lâu, nếu không vị thánh tăng kia sao lại cho chị đến hai lọ? Chị cũng sợ nếu như nước thánh lạc vào tay một phi tần khác, họ lại len lén cho hoàng thượng uống, hoàng thượng đối với chị dẫu không đổi dạ nhưng e lại hai lòng …

Vừa nói tới đây bỗng có tiếng Gia Luật Hồng Cơ ở ngoài trướng gọi lớn: -A Mục, nàng ra đây. Ta có chuyện muốn nói. Mục quí phi liền đáp: -Thiếp ra đây.
Bà ta lật đật đi ra, cạch một tiếng nhẹ, chiếc bình sứ từ trong bọc rơi ra, nhưng nào có biết gì đâu. A Tử mừng rỡ, đợi cho bà ta ra khỏi trướng, vội vàng nhỏm dậy nhặt chiếc bình lên, bỏ luôn vào túi nghĩ bụng: “Mình mau mau cho tỉ phu uống, sau đó lấy nước lạnh đổ vào, trả lại cho Mục quí phi. Thực ra hoàng thượng đã sủng ái bà ta lắm rồi, thứ nước thánh này đâu có còn cần nữa”. Nàng nghĩ vậy rồi mở phía sau len lén bò ra, chạy vụt trở về Nam Viện Đại Vương phủ.

Chỉ thấy xung quanh vương phủ sĩ tốt tràn ngập tưởng chừng Nam Viện Đại Vương đang điều động binh mã. A Tử vào đến đại sảnh đã thấy Tiêu Phong chắp tay sau lưng, đang đi qua đi lại trước hàng hiên, ra vẻ sốt ruột lắm. Ông vừa trông thấy A Tử mừng rỡ kêu lên: -A Tử, ngươi đã trở về, thật tốt quá. Ta chỉ sợ ngươi bị hoàng thượng bắt giữ rồi không chạy thoát được. Mình phải đi ngay, nếu chậm trễ e không kịp.

A Tử ngạc nhiên hỏi: -Đi đâu bây giờ? Sao lạ sợ trễ thì không kịp? Vì cớ gì mà hoàng thượng lại bắt em?
Tiêu Phong đáp: -Ngươi nghe thì biết.
Hai người yên lặng lắng tai thấy chung quanh vương phủ tiếng vó ngựa rầm rập, rồi tiếng áo giáp loảng xoảng, binh khí leng keng, bốn bề đông nam tây bắc chỗ nào cũng có. A Tử hỏi: -Sao thế? Tỉ phu định đem quân đi đánh trận hay sao?
Tiêu Phong gượng cười: -Những binh lính này đâu phải do ta điều động đâu.
Hoàng thượng có ý nghi ta nên sai người đến bắt đó.

A Tử reo lên: -Hay lắm! Mình lâu ngày không đánh nhau, hai người mình xung sát vượt vòng vây nhé.
Tiêu Phong lắc đầu: -Hoàng thượng đãi ta ân đức không phải nhỏ, phong làm Nam Viện Đại Vương, lần này lại đích thân đến đây để thăng quan tiến tước

cho ta, bây giờ sở dĩ nghi ngờ, cũng bởi vì ta nhất quyết không chịu nam chinh. Nếu ta sát hại bộ thuộc của y thì làm mất đi tình huynh đệ khiến cho anh hùng thiên hạ chê cười, bảo Tiêu Phong này vong ân phụ nghĩa, đối xử không ra gì. A Tử, thôi mình đành đi vậy, len lén bất biệt nhi hành, để y khỏi bắt được ta thế cũng xong thôi.
A Tử đáp: -Ừ đi thì đi. Tỉ phu, thế mình đi đâu đây?

Tiêu Phong đáp: -Sự tình khẩn cấp, có đến được Phiêu Miểu Phong hay không, phải qua khỏi nơi hiểm địa rồi mới biết được.
A Tử nghĩ thầm: “Thì ra anh chàng định đưa mình đến ngọn Phiêu Miểu, đủ biết chẳng coi ta vào đâu, vậy mình phải cho y uống nước thánh mới xong. Chỉ cần làm sao cho anh ta thương yêu mình, nghe lời mình là được. Nếu còn chần chừ, e rằng Mục quí phi đến lấy lại mất”. Nàng bèn nói: -Cũng được, để em đi lấy mấy bộ quần áo.

Nói xong nàng lật đật đi vào hậu đường, lấy một chiếc chén, đổ nước thánh trong chiếc lọ ra, rồi rót thêm rượu vào cho đầy, trong bụng khấn nguyện: “Xin Bồ Tát linh thiêng phù hộ cho Tiêu Phong sau khi uống nước thánh rồi, hết lòng hết dạ yêu thương A Tử, lấy thiếp làm vợ, không còn nhớ gì đến A Châu tỉ tỉ nữa”. Nàng quay lại đại sảnh nói: -Tỉ phu uống chút rượu cho lên tinh thần. Lần này mình đi sẽ không bao giờ còn quay trở lại nữa.

Tiêu Phong cầm lấy bát rượu, dưới ánh đuốc thấy bàn tay A Tử run run, ánh mắt lộ vẻ khác thường, mặt mày lại ra chiều phấn khởi, đầy vẻ ôn nhu, trong lòng không khỏi xúc động: “Năm xưa A Châu đối với ta hết lòng thương mến, vẻ mặt cũng như thế này. Ôi, xem ra A Tử quả thực hết dạ say mê ta rồi”. Ông liền cầm bát rượu lên uống một hơi cạn sạch hỏi thêm: -Ngươi đã lấy đủ quần áo chưa?

A Tử thấy Tiêu Phong đã uống hết thánh thủy, trong bụng mừng rỡ nói: -Thôi chẳng cần lấy quần áo, mình đi được rồi.
Tiêu Phong đeo một cái bao lên lưng, trong túi chỉ có vài bộ quần áo, ít tiền bạc, nói nhỏ: -Bọn họ sợ ta chạy xuống miền nam, chi bằng mình chạy lên miền bắc.
Ông nắm tay A Tử, nhẹ nhàng mở cửa hông, thò đầu ra ngoài thám thính,
thấy hai vệ sĩ sóng vai đi tuần qua. Tiêu Phong nấp vào sau cửa, tằng hắng
một cái, hai tên vệ sĩ vội vàng chạy đến xem xét. Tiêu Phong giơ ngón tay

điểm cho hai người ngã xuống kéo luôn vào trong bụi rậm, nói nhỏ: -Mau thay
đổi khôi giáp của hai người này.
A Tử mừng rỡ: -Hay lắm!

Hai người liền lột mũ áo của hai vệ sĩ ra mặc vào người, tay cầm trường mâu, song song đi tuần. A Tử kép chiếc mũ sụp xuống che lông mày, len lén nhìn

Tiêu Phong, thấy ông rụt người lại mà đi không khỏi tức cười. Hai người đi được chừng hai chục bước thì thấy một tên thập phu trưởng ở soái doanh dẫn mươi tên lính đi tuần ngang. Tiêu Phong và A Tử vội đứng nép sang một bên giơ giáo lên chào kính.

Gã thập phu trưởng gật đầu, đi ngang qua, dưới ánh lửa bập bùng, thấy A Tử áo quần lê thê quét đất, chẳng vừa vặn chút nào, không khỏi đưa mắt nhìn nàng, lại thấy yêu đao trễ xuống, tức giận giơ tay đấm vào vai cô gái, quát lên: -Ngươi ăn mặc quần áo kiểu gì thế này?
A Tử lại tưởng hành tung đã bị lộ, vòng tay móc một cái, chộp trúng cổ tay,

chân đá bật lên trúng ngay hông y. Tên thập phu trưởng chỉ kêu lên được một
tiếng đã văng ra tận đằng xa.
Tiêu Phong nói: -Chạy mau!

Ông nắm tay A Tử xông lên. Mười tên thân binh cùng la ó om xòm: -Có thích khách! Có gian tế!
Họ vẫn không biết hai người chính là Tiêu Phong và A Tử. Hai người chạy được một quãng thì thấy từ phía trước có độ mươi kỵ binh chạy đến, Tiêu Phong giơ trường mâu lên quét ngang một cái, những người ngồi trên lưng ngựa lịch bịch ngã xuống, tay phải hất mạnh, ném A Tử lên trên yên, chính mình cũng nhảy lên một con, gò cương quay lại chạy thẳng về phía cửa bắc.

Khi đó tướng sĩ trong Nam Viện Đại Vương phủ đã nghe được tin nên từ bốn phía vây lại. Tiêu Phong giục ngựa chạy nhanh, quả nhiên đúng như ông dự liệu, quân lính mười phần đến tám dồn xuống phía nam đề phòng ông chạy về Nam triều, phía bắc chỉ lưa thưa có mấy người. Bọn đó bụng vốn đã khiếp tuy phải theo quân lệnh tiến ra ngăn trở nghe Tiêu Phong quát lên một tiếng thì liền dạt cả ra, chỉ từ xa xa hô hoán rượt đuổi, đến khi Ngự Doanh Đô Chỉ Huy tăng viện người tới, Tiêu Phong và A Tử đã chạy xa rồi.

Tiêu Phong giục ngựa chạy đến cửa bắc, thấy cửa thành đóng chặt, đằng trước lố nhố đến hơn trăm tên lính, ai nấy cầm trường mâu chặn đường. Nếu như Tiêu Phong xung sát tiến qua, một trăm tên lính làm sao chặn nổi ông thế nhưng chỉ cầu thoát thân, thực không muốn sát hại quân sĩ bản quốc, lập tức vòng tay qua ôm lấy A Tử, chân phải điểm lên bàn đạp, hai chân đã đứng sừng sững trên lưng ngựa, hít một hơi, nhảy ngay lên trên đầu thành. Nhảy một cái vốn không thể lên cao như thế được nhưng ông đã dự bị từ trước, khi thân hình vừa hơi trầm xuống, trường mâu bên phải đã chống vào tường, tá lực hất một cái người vọt lên trên.

Ông nhìn ra ngoài thấy tối đen như mực không một ánh lửa, quả không ai ngờ ông chạy ra cửa bắc nên không có binh sĩ thủ ngự. Tiêu Phong hú lên một tiếng dài quay lại nói với người trong thành: -Các ngươi quay về bẩm với

hoàng thượng là Tiêu Phong đắc tội với đấng chí tôn, không dám gặp để từ biệt. Đại ân đại đức của hoàng thượng, Tiêu Phong này mãi mãi không quên. Ông nắm ngang hông A Tử, quay người lại chỉ cần nhảy xuống khỏi thành thì chim sổ lồng đã tìm về trời cao, cá thoát lưới đã ra được bể rộng, không còn gì câu thúc nữa.Ông lòng mừng thầm, đang định nhún mình đột nhiên thấy bụng đau quặn lên, hai cánh tay mềm nhũn, tay cầm ngang lưng A Tử lỏng ra, rồi hai đầu gối sụm xuống, ngồi bệt dưới đất, tưởng chừng có hàng nghìn hàng vạn lưỡi dao nhỏ đang đậm chém trong người, nhịn không nổi kêu ối lên một tiếng. A Tử kinh hãi, kêu lên: -Tỉ phu sao thế?
Tiêu Phong toàn thân co quắp, hai hàm răng đập vào nhau, hổn hển nói: -Ta
… ta … ta trúng … chất kịch độc … Đợi ta … vận khí … vận khí đẩy chất độc

Ông lập tức vận khí vào đan điền, toan trục chất độc trong bụng ra. Ngờ đâu không vận khí thì còn đỡ, vừa mới đề khí thì tứ chi luôn cả toàn thân đau nhói lên, nội tức trong đan điền chỉ đưa lên được vài tấc, lại tụt ngay xuống. Tiêu Phong nghe tiếng vó ngựa dồn dập, mấy nghìn kỵ binh từ phía nam chạy lên, lại cố gắng đề khí một lần nữa, thấy chân tay tê dại không còn biết gì, biết mình trúng phải chất độc cực kỳ lợi hại, không thể nào dùng nội lực tống ra được liền nói: -A Tử, em mau mau chạy đi. Anh … anh không thể nào đi cùng với cô được nữa rồi.

A Tử chỉ suy nghĩ qua liền hiểu ngay đã trúng phải ngụy kế của Mục quí phi, nước thánh bà ta đánh lừa mình đem cho Tiêu Phong uống nào phải bùa bả gì đâu mà là thuốc độc. Nàng vừa kinh hoàng vừa hối hận, ôm chặt lấy cổ Tiêu Phong, khóc nức nở: -Tỉ phu, … em hại anh rồi, chất độc đó chính là em đã cho anh uống.

Tiêu Phong hoang mang không hiểu cô ta nói gì hỏi lại: -Vì cớ gì mà cô lại muốn giết ta?
A Tử khóc òa lên: -Không! Không! Mục quí phi đưa cho em một lọ nước, bảo là nếu anh uống thì sẽ mãi mãi thương yêu em, sẽ … sẽ lấy em làm vợ. Em sao ngu ngơ quá, tỉ phu ơi, thôi em cùng chết với anh, từ nay hai đứa mình không còn rời xa nhau nữa.

Nói xong nàng rút phắt yêu đao, định đưa lên cứa ngang cổ mình. Tiêu Phong vội ngăn lại: -Khoan … khoan đã!
Ông toàn thân như đang chìm trong bể lửa, lại như đang có muôn ngàn lưỡi dao xẻ da lóc thịt, cả ngoài lẫn trong cực kỳ đau đớn, không còn tính toán gì được nhưng chỉ suy nghĩ qua đã hiểu ngay tâm tư của A Tử liền nói: -Ta không đến nỗi nào đâu, cô chớ có tìm cái chết.

Chỉ nghe tiếng kẹt kẹt hai cánh cửa nặng của bắc môn mở toang, mấy trăm kỵ

mã chạy ra xí xố bày trận, rồi từng đội từng đội từ phía nam tiếp ứng đi ra khỏi thành. Tiêu Phong ngồi trên đầu thành nhìn về phương bắc thấy ánh lửa dài đến mấy dặm như những con rồng đang ngoằn ngoèo bò lên, nhìn lại phương nam đến non nửa thành đều có ánh đuốc bập bùng, nghĩ thầm: “Hoàng thượng đem bao nhiêu binh mã ngự doanh điều động ra cả, chỉ cốt bắt được một mình ta”. Chỉ nghe bên trong bên ngoài thành tướng sĩ hô lớn: -Phản tặc Tiêu Phong, mau mau đầu hàng.

Tiêu Phong lại thấy trong bụng đau nhói, nói nhỏ: -A Tử, cô tìm cách chạy đi thôi.
A Tử đáp: -Chính tay em hạ độc giết anh, làm sao sống một mình cho được? E.m … em … em nguyện cùng chết ở bên anh.
Tiêu Phong gượng gạo nở một nụ cười: -Đây không phải là độc dược giết người mà chỉ làm cho người ta bị trọng thương, không thể cử động thôi. A Tử mừng rỡ hỏi: -Thật không?
Cô gái quay lại kéo Tiêu Phong nằm phục lên lưng mình. Thế nhưng nàng thân hình mảnh khảnh, Tiêu Phong lại cực kỳ cao to, A Tử cõng ông đứng lên, hai chân Tiêu Phong vẫn còn lệt sệt dưới đất. Ngay lúc đó, hơn chục tên võ sĩ Khất Đan đã trèo được lên đầu thành, kẻ thì cầm đao, kẻ thì cầm đuốc giơ lên nhưng vẫn sợ Tiêu Phong không dám đến gần. Tiêu Phong nói: -Kháng cự vô ích, thôi để bọn chúng bắt mình đi.

A Tử nức nở: -Không, không đâu! Ai đụng đến một sợi lông của anh, em sẽ giết nó ngay.
Tiêu Phong đáp: -Đừng để vì ta mà phải giết người. Nếu như ta chịu giết người thì đã phụng chỉ lãnh binh nam chinh cho xong, việc gì mà phải náo loạn để gây ra nông nỗi này.
Ông cao giọng quát: -Làm gì mà thập thà thập thò như thế, còn đâu khí độ nam nhi Khất Đan? Tất cả theo ta đi yết kiến hoàng thượng.
Chúng võ sĩ ngạc nhiên, cùng khom lưng cung kính đáp: -Tuân lệnh! Chúng tôi phụng chỉ sai khiến nên vô lễ với đại vương, xin đại vương miễn trách.
Tiêu Phong làm Nam Viện Đại Vương không lâu nhưng hậu đãi bộ thuộc, uy vọng bao trùm phương bắc, tướng sĩ Khất Đan rất là kính phục. Trong đám người những kẻ trước đây phụ họa “phản tặc Tiêu Phong” bây giờ ai nấy ngượng ngập, sinh lòng sợ sệt không ai còn dám vô lễ.

Tiêu Phong vịn vào vai A Tử, cố gượng đứng lên, lục phủ ngũ tạng tưởng như bị ai xoắn lại cắn xé, các binh sĩ đứng cách xa cả trượng tra đao vào vỏ, nhìn theo ông từng bậc, từng bậc xuống thành. Các tướng sĩ thấy Tiêu Phong hạ thành rồi, ai nấy vội vàng xuống ngựa, hàng nghìn hàng vạn người đột nhiên im phăng phắc.

Trong ánh lửa lập lòe, Tiêu Phong nhìn những khuôn mặt chất phác nghiêm cẩn kia, trong lòng nổi lên một tình cảm ấm áp: “Nếu như ta nam chinh thì hơn một vạn tướng sĩ nơi đây, chẳng biết có được tới một nửa quay về Bắc quốc hay không? Nếu như ta thực sự cứu được bấy nhiêu sinh linh thì dù hoàng thượng đem ra xử tử cũng không có gì hối hận. Chỉ sợ rằng hoàng thượng giết ta xong lại sai người khác lãnh binh xuống phương nam thôi”. Nghĩ đến đó, ngực lại đau nhói lên thân hình dường như sắp sửa gục xuống.

Một viên tướng dắt ngay con ngựa mình đang cưỡi tới, đỡ cho Tiêu Phong lên yên. A Tử cũng cưỡi một con đi theo sau. Một đoàn người tiền hô hậu ủng, quay về vương phủ. Các tướng sĩ tuy bắt được Tiêu Phong, đúng ra là lập đại công nhưng chẳng một ai ra chiều vui vẻ. Chỉ nghe thấy tiếng giáp sắt loảng xoảng, hàng vạn con ngựa chạy lộp cộp trên đường lát đá nhộn nhịp cả lên nhưng tuyệt nhiên không một ai cất tiếng reo hò.

Đoàn người đi qua con đường cái ở cửa bắc, đến bên cầu Bạch Mã, Tiêu Phong giục ngựa lên cầu. A Tử đột nhiên nhảy vọt lên, hai chân nhún vào yên nghe tùm một tiếng đã nhảy xuống sông.
Tiêu Phong thấy vậy thật ngoài dự liệu, không khỏi kinh hãi nhưng lập tức lại mừng thầm, nhớ lại lần đầu tiên gặp cô bé bướng bỉnh này, nàng đã lặn xuống dưới Tiểu Kính Hồ giả chết, bơi lội giỏi như thế trên đời hiếm có, đến cả cha mẹ cô ta cũng còn mắc lừa, bây giờ nếu như cô ta theo dòng nước mà trốn đi thì còn gì hơn, có điều từ nay trở đi e rằng khó có ngày gặp lại, trong lòng không khỏi bùi ngùi, lớn tiếng nói: -A Tử, cô việc gì phải nông cạn thế? Hoàng thượng có làm khó gì em đâu, hà tất phải nhẩy xuống sông tự tận?
Chúng tướng sĩ nghe Tiêu Phong nói thế, đợi một hồi thấy A Tử không trồi lên, tin tưởng rằng nàng quả thực trầm mình rồi. Hoàng đế chỉ hạ chỉ bắt Tiêu Phong, A Tử có chết cũng vậy, có chạy cũng vậy không một ai thèm để tâm, đứng trên cầu trông ngóng một lúc thấy dòng sông không động tĩnh gì bèn cùng Tiêu Phong đi tiếp.
Chú thích:

1 Sử gọi là vua Triết Tông. Đoạn này mâu thuẫn với những chi tiết ở trước. Đoàn Dự sinh năm 1083, tới lúc này khoảng trên dưới 20, vậy phải vào năm 1102 tức là đời vua Huy Tông (lên ngôi 1101) . Vua Triết Tông lên ngôi từ 1086 lúc 10 tuổi, bà Thái hậu Cao thị nhiếp chính, khi Cao thị mất (1093) thì Đoàn Dự chỉ mới 10. (Xin xem thêm Hậu Cảnh Thiên Long Bát Bộ của Nguyễn Duy Chính)
2 bà nội, tiếng gọi thân mật và kính trọng

3 thùy liêm (thính chính) là buông rèm xuông ngồi đằng sau nhà vua nhắc việc nước

4 tức Tô Đông Pha

5 1041-1098
6 (1035-1105) được Vương An Thạch dùng làm Tam Ti Sứ (quan trông coi việc tài chánh, thuế má và khai thác các mỏ), là một nhân vật trong yếu trong việc thi hành Tân Pháp. 7 Thẩm Khởi muốn tâng công với Vương An Thạch dâng sớ xin đánh Giao Châu (tức nước ta) để thị uy chư hầu. Triều đình nhà Tống sai Lưu Gi chuẩn bị, đặt ra nhiều lề luật sách nhiễu nước nam nên vua Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt và Tôn Đảng đánh sang tận châu Khâm, châu Liêm. 8 (1031-1095) là một nhà bác học lỗi lạc của Trung Hoa tác giả bộ Mộng Khê Bút Đàm không biết có phải Thẩm Quát này không? Người dịch chưa tìm ra ông sai lầm gì trong việc thi hành chính sách mà bị chỉ trích ở đây. Đoạn này chỉ tạm dịch theo nguyên văn, khi nào tìm thấy thêm chi tiết mới chúng tôi sẽ bổ cứu.

9 quân du: nhà nước mua những chỗ có hàng hóa dư, đem phân phối chỗ thiếu cho khỏi bị đầu cơ tích trữ làm giá của con buôn (xem thêm Hậu Cảnh TLBB, biên khảo của Nguyễn Duy Chính)


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.