THIÊN LONG BÁT BỘ
31. Thâu doanh thành bại, hựu tranh do nhân toán
Thành bại hơn thua cũng bởi trời,
Cuộc đời nghĩ lại tưởng như chơi.
Trăm sự chẳng qua do mạng số,
Phúc phận cho mình được đấy thôi.
¤
Xe đi lộc cộc ngày đêm không nghỉ. Huyền Nạn, Đặng Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng cả bọn đều là những nhân vật có bản lãnh trong võ lâm, lúc này võ công đều mất hết, trở thành những người tù tùy thuộc vào tay người khác bảo sao chịu vậy. Mọi người chỉ đoán chừng đoàn xe đang đi về hướng đông nam.
Cứ như thế đi tám ngày liền, đến ngày thứ chín, mới sáng sớm đã đi lên một sơn đạo. Đến trưa hôm đó, địa thế càng lúc càng cao, đến sau xe lớn không thể lên nổi. Bọn đệ tử phái Tinh Tú gọi bọn Huyền Nạn ra khỏi xe, đi bộ chừng hơn nửa giờ đến một nơi thấy trúc mọc dầy đặc, cảnh sắc thanh nhã, bên giòng suối là một tòa lương đình dựng toàn bằng tre lớn, cấu trúc tinh nhã thật là khéo léo, trúc là đình, đình là trúc khiến thoạt vừa trông không biết đó là rừng trúc hay đình viện. Phùng A Tam tấm tắc khen ngợi, nhìn ngang nhìn ngửa trong lòng bán tín bán nghi. Mọi người liền vào trong đình ngồi nghỉ, từ sơn đạo có bốn người rảo bước đi xuống. Hai người đi trước là đệ tử của Đinh Xuân Thu, chắc là khi xe vừa dừng bánh đã lên núi thám thính hoặc báo tin. Đi sau là hai thanh niên ăn mặc theo lối nhà nông, đến trước mặt Đinh Xuân Thu khom lưng hành lễ, trình lên một phong thư.
Đinh Xuân Thu mở ra xem qua, cười khẩy nói: -Hay lắm! Hay lắm! Ngươi vẫn chưa thoái chí đòi quyết một trận sinh tử, ta sẽ bồi tiếp.
Người thanh niên lấy trong túi ra một cái pháo hiệu, đốt lửa châm, nghe bùng một tiếng, chiếc pháo đã bay vọt lên không. Những pháo bình thường nổ một tiếng bay lên rồi sẽ nổ bạch một tiếng vỡ tung ra, còn chiếc pháo hiệu này lên trên trời nổ bạch bạch bạch liên tiếp ba tiếng.
Phùng A Tam ghé tai Khang Quảng Lăng nói: -Đại ca, pháo này do bản môn chế tạo.
Không bao lâu từ sơn đạo một đoàn người đi xuống, tổng cộng phải đến hơn ba chục người, đều mặc theo lối nhà quê, tay cầm binh khí dài. Đến gần hơn mới thấy đây không phải là binh khí mà là đòn gánh, cứ hai chiếc đòn gánh lại có mắc một chiếc võng để cho người ngồi. Đinh Xuân Thu cười nhạt: -Chủ nhân chiều khách, các ngươi không phải khách sáo, lên võng đi thôi.
Bọn Huyền Nạn các người liền lên cáng, những thanh niên đó hai người khiêng
một người, bước đi nhanh nhẹn chạy thẳng lên núi. Đinh Xuân Thu tay áo rộng phất phới, đi trước. Y đi không có vẻ gì gấp gáp nhưng cứ theo sơn đạo khúc khuỷu mà vùn vụt như cưỡi gió lướt đi, chân không chạm đất, chỉ một thoáng đã biến mất trong khu rừng trúc.
Bọn Đặng Bách Xuyên bị trúng Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu đều phẫn nộ cho rằng mình bị yêu pháp làm hại, chưa đánh đã thua bây giờ thấy khinh công của y cao siêu như thế, bản lãnh đó không thể đánh lừa được, ai nấy thán phục nghĩ thầm: “Nếu y không sử dụng công phu yêu quái chăng nữa thì mình cũng chẳng phải là đối thủ”. Phong Ba Ác khen ngợi: -Lão yêu này khinh công cao siêu quá, quả thật bội phục hết sức.
Y vừa mở miệng tán thưởng, bọn đệ tử phái Tinh Tú lập tức ùa theo xưng tụng, nói là võ công Đinh Xuân Thu đương thế không ai sánh kịp đã đành mà các võ học đại sư từ xưa đến nay, dù cho Đại Ma lão tổ … cũng chẳng bằng, toàn những lời nịnh hót chưa ai từng nghe bao giờ. Bao Bất Đồng nói: -Này các vị lão huynh, công phu của phái Tinh Tú quả thực hơn hẳn các môn phái khác, quả đúng là “tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả”.
Bọn đệ tử ai nấy mừng rơn, một người liền hỏi lại: -Theo ý của huynh đài, công phu ghê gớm nhất của môn phái chúng tôi là công phu gì thế? Bao Bất Đồng đáp: -Nào phải chỉ một môn, ít ra cũng phải ba môn.
Bọn đệ tử càng thêm phấn khởi, nhao nhao hỏi: -Ba môn nào?
Bao Bất Đồng nói: -Môn thứ nhất là Mã Thí Công1. Công phu này luyện không tinh, e rằng không sống nổi trong quí phái được một ngày một buổi. Môn thứ hai là Pháp Loa Công2, nếu không thổi phồng tài ba đức hạnh của quí môn lên rõ to thì chẳng những bị sư phụ ghét bỏ mà ngay cả đồng môn cũng chèn ép, không còn đường nào mà ngóc đầu lên. Còn môn công phu thứ ba là Hậu Nhan Công3. Nếu không biết táng tận lương tâm, mặt dày mày dạn thì làm sao luyện cho thành được Mã Thí và Pháp Loa hai đại kỳ công?
Y nói ra rồi, tưởng rằng quần đệ tử phái Tinh Tú sẽ nổi giận đùng đùng, xông lại tẩn cho một trận, nhưng mấy câu đó đã lên đến cổ, không nói không chịu được, ngờ đâu bọn kia nghe xong, ai nấy lặng lẽ gật gù.
Một người nói: -Lão huynh quả thực thông minh, biết rất rõ những kỳ công của bản phái. Có điều ba môn kỳ công Mã Thí, Pháp Loa, Hậu Nhan tu tập cực kỳ khó khăn. Những người tầm thường bị nhiễm thói của thế tục, luôn luôn nghĩ đến tốt, xấu giữ trong lòng cái thói hủ lậu phân biệt thiện ác, chia ra thị phi thì khi tu tập môn Hậu Nhan Công, cố gắng nhiều, thành tựu chẳng bao nhiêu, lúc nào cũng thắc thỏm, công phu sẽ kém đi một mức. Bao Bất Đồng ra lời châm chích, nào có ngờ được bọn này lại thản nhiên như không, chẳng nghi ngờ gì cả, không khỏi kinh ngạc, cười nói: -Thần công của quí phái thâm
áo không đâu sánh kịp, tiểu tử vốn thầm ngưỡng mộ, mong được đại tiên mở đường khai lối.
Gã kia nghe Bao Bất Đồng gọi mình là “đại tiên”, mặt liền câng câng đắc ý nói: -Ngươi không phải là người trong bản môn, cái bí áo của thần công ta không thể nào truyền thụ cho ngươi được. Thế nhưng cái đạo lý thô thiển mặt ngoài có nói cho ngươi biết cũng không sao. Bí quyết trọng yếu hơn cả là phải coi sư phụ không khác gì thần minh, dù cho lão nhân gia có đánh rắm …
Bao Bất Đồng liền cướp lời: -Đương nhiên phải khen thơm rồi. Lại phải hít lấy hít để, ca ngợi hết lời …
Gã kia chặn lại: -Lời của ngươi nói chung thì đúng nhưng vào chi tiết cũng có khuyết điểm, không phải là “hít lấy hít để” mà phải là “hít rõ mạnh, thở thật êm”.
Bao Bất Đồng khen rối rít: -Đúng quá! Đúng quá! Đại tiên chỉ điểm thật phải, nếu như thở phào ra thì có phải đã coi rắm của sư phụ … không … không thơm lắm hay sao.
Người kia gật đầu nói: -Đúng đó, thiên tư của ngươi cực tốt, nếu như đầu nhập bản phái thì cũng có triển vọng, tiếc rằng lầm đường lạc lối tả đạo bàng môn. Công phu bản môn biến hóa vô cùng nhưng công quyết cơ bản thì cũng không phức tạp lắm đâu chỉ cần nhớ kỹ bốn chữ “rũ sạch lương tâm” là làm gì cũng không sai sẩy nhiều.
Bao Bất Đồng gật gù liên tiếp nói: -Quả đúng là:
Nghe ngài nói chuyện một đêm,
Còn hơn đọc sách mười năm dùi mài.4
Tại hạ trong lòng từng ngưỡng mộ quí phái từ lâu, tiếc thay không được đầu nhập làm môn hạ, không biết đại tiên có vui lòng tiến dẫn chăng?
Gã kia mặt nhơn nhơn, mỉm cười đáp: -Gia nhập bản môn nào phải chuyện đùa, phải qua bao nhiêu khảo nghiệm cực kỳ khó khăn năm này tháng nọ, chỉ sợ ngươi không chịu nổi mà thôi.
Một tên khác liền chặn lại: -Nơi đây tai mắt lắm người, không nên nói chuyện nhiều. Họ Bao kia, nếu ngươi quả có lòng muốn xin vào bản môn, đợi khi nào sư phụ ta trong lòng khoan khoái, ta sẽ nhân đó nói tốt cho ngươi vài câu. Bản phái thu nhận đồ đệ rất đông, ta xem ngươi căn cốt cũng không đến nỗi tệ, nếu được sư phụ mở lòng từ bi, nhận ngươi làm học trò, may ra mai sau cũng nở mày nở mặt.
Bao Bất Đồng mặt nghiêm lại đáp: -Đa tạ! Đa tạ! Ân đức của đại tiên, Bao mỗ quyết không bao giờ quên được.
Bọn Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can nghe Bao Bất Đồng phỉnh nịnh bọn đệ tử phái Tinh Tú, trong bụng không khỏi vừa tức cười, vừa lộn ruột nghĩ thầm:
“Trên đời này sao lại có những kẻ hèn mạt vô sỉ đến thế, lấy trò bốc thơm, bợ đít làm vinh, quả thực chưa từng nghe đến”.
Trong khi nói chuyện, đoàn người đã đi vào một sơn cốc, bên trong thung lũng toàn là cây tùng, gió núi thổi đến tiếng reo dạt dào như sóng vỗ. Đi thêm chừng một dặm nữa thì đến ba gian nhà gỗ. Trước nhà là một cây cổ thụ bên dưới hai người ngồi đối diện nhau. Người phía bên trái có ba người đứng sau lưng. Đinh Xuân Thu đứng xa xa, ngẩng đầu nhìn trời, thần tình cực kỳ ngạo mạn.
Đoàn người đến gần, Bao Bất Đồng nghe thấy Lý Khổi Lỗi ở cáng phía sau ồ lên một tiếng, dường như định nói gì nhưng lại cố nén lại. Bao Bất Đồng quay đầu lại nhìn, thấy mặt y tái nhợt, thần tình cực kỳ hoảng hốt. Bao Bất Đồng hỏi: -Ngươi làm sao thế? Trông thấy ma à? Làm gì mà sợ vậy?
Lý Khổi Lỗi không trả lời, làm như không nghe thấy y nói gì. Đến gần hơn nữa, thấy giữa hai người ngồi là một phiến đá lớn, bên trên có một bàn cờ, hai người đang đánh. Người ngồi bên phải là một ông già nhỏ bé gầy gò, còn phía bên trái là một thanh niên công tử. Bao Bất Đồng nhận ra thanh niên đó chính là Đoàn Dự, trong lòng chán ngắt, nghĩ thầm: “Ta đối với tiểu tử này cực kỳ vô lễ, hôm nay y thấy mình thân tàn ma dại thế này, gã thể nào chẳng buông lời nhạo báng”.
Chỉ thấy bàn cờ được khắc vào một phiến đá xanh lớn, quân trắng quân đen đều bóng lộn, hai bên đã để được đến trên trăm quân. Đinh Xuân Thu chậm rãi đến gần xem hai người, ông già thấp bé cầm một quân đen để xuống, đột nhiên đôi lông mày nhướng lên, dường như trông thấy cuộc cờ đi vào chỗ biến hóa kỳ diệu. Đoàn Dự cầm một quân cờ trắng, trầm ngâm chưa đặt xuống. Bao Bất Đồng kêu lên: -Này, tiểu tử họ Đoàn kia, ngươi hỏng rồi, cờ vào thế tiến cũng dở ở không xong chịu thua quách đi thôi.
Ba người đứng sau lưng Đoàn Dự liền quay lại hầm hầm nhìn y, chính là bọn Chu Đan Thần ba người hộ vệ. Bất thình lình, Khang Quảng Lăng, Phạm Bách Linh cả bọn Hàm Cốc bát hữu người nào cũng từ trên cáng gắng gượng nhảy xuống, đi đến cách bàn cờ bằng đá xanh chừng một trượng, cùng quì cả xuống. Bao Bất Đồng kinh ngạc nói: -Làm trò quỉ gì đây?
Vừa mới nói ra khỏi miệng lập tức hiểu ngay, ông già mình hạc xác ve kia chính là Lung Á lão nhân Thông Biện tiên sinh, sư phụ của Hàm Cốc bát hữu. Thế nhưng ông ta cũng là kẻ tử đối đầu của Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu, kẻ đại thù trước mặt sao vẫn còn nhàn hạ ngồi đánh cờ? Đối thủ của ông ta lại chẳng phải là một nhân vật trọng yếu mà chỉ là một anh đồ gàn không biết võ công?
Khang Quảng Lăng nói: -Lão nhân gia xem chừng còn khang kiện hơn xưa,
bọn hậu bối tám người chúng tôi mừng không sao kể xiết.
Hàm Cốc bát hữu đã bị Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà đuổi khỏi sư môn nên không dám gọi ông bằng thầy. Phạm Bách Linh nói: -Huyền Nạn đại sư của phái Thiếu Lâm đến thăm lão nhân gia đó.
Tô Tinh Hà đứng bật dậy, quay về mọi người vái một cái thập sâu nói: -Huyền Nạn đại sư giá lâm, lão hủ Tô Tinh Hà không kịp nghinh tiếp, thật đáng trách lắm.
Ông ta chỉ liếc ngang mọi người một cái rồi lại quay ngay trở lại bàn cờ. Mọi người đã nghe Tiết Mộ Hoa kể rõ nguyên nhân tại sao sư phụ ông ta bị ép phải giả như câm như điếc, lúc này ông ngang nhiên mở miệng nói năng, xem ra đã quyết cùng Đinh Xuân Thu một mất một còn.
Khang Quảng Lăng, Tiết Mộ Hoa cả bọn không thể không liếc qua nhìn Đinh
Xuân Thu một cái, trong lòng vừa phấn khởi, vừa âu lo.
Huyền Nạn nói: -Không dám! Không dám!
Ông thấy Tô Tinh Hà coi bàn cờ trọng như thế nghĩ thầm: “Người này tạp vụ quá nhiều, thư họa cầm kỳ, không môn gì không tinh thông, thảo nào võ công không bằng sư đệ”.
Trong khi không ai nói một tiếng nào, bỗng dưng Đoàn Dự cất tiếng: -Được rồi, đi vào đây.
Chàng vừa nói vừa đặt một quân cờ trắng xuống bàn cờ. Tô Tinh Hà mặt lộ vẻ vui mừng, gật đầu, dường như đã hiểu tay đặt một quân cờ đen khác. Đoàn Dự đã nghĩ xong được mươi nước trước, liền hạ thêm một quân trắng khác, Tô Tinh Hà lại để một quân cờ đen.
Hai người đặt được hơn mươi quân rồi, Đoàn Dự thở dài một tiếng, lắc đầu nói: -Lão tiên sinh bày bàn cờ Trân Lung này quả là thâm áo xảo diệu, vãn sinh không phá giải nổi.
Xem ra Tô Tinh Hà đã thắng, tuy nhiên mặt ông ta lại lộ vẻ thất vọng nói: -Kỳ tứ của công tử quả là tinh mật, mười nước vừa đi thật cao, nhưng chưa nghĩ được sâu thêm một chút, thật là đáng tiếc! Đáng tiếc thay! Ôi, thật đáng tiếc thay, đáng tiếc lắm thay!
Ông ta liên tiếp chép miệng, miệng nói bốn lần “đáng tiếc” quả thực biết bao ngậm ngùi. Đoàn Dự nhặt mười quân cờ trắng mình vừa đi lên, bỏ trở lại vào hộp, Tô Tinh Hà cũng lấy mười viên cờ đen của mình mới bỏ xuống, bàn cờ trở lại trận thế như lúc đầu.
Đoàn Dự lùi lại đứng qua một bên, nhìn bàn cờ ngẩn ngơ suy nghĩ:
“Thế cờ Trân Lung này chính là bàn cờ hôm trước ta đã thấy trong thạch động núi Vô Lượng. Vị Thông Biện tiên sinh này và thần tiên tỉ tỉ trong động ắt có uyên nguyên, đợi khi nào thuận tiện ta sẽ len lén hỏi ông ta nhưng không thể
để cho người ngoài hay biết. Nếu không mọi người sẽ tìm đến để nhìn thần tiên tỉ tỉ, chẳng phải khinh mạn nàng lắm hay sao?”.
Người thứ hai trong Hàm Cốc bát hữu là Phạm Bách Linh cũng là một người mê đánh cờ, từ xa đứng nhìn kỳ cục, biết rằng không phải sư phụ cùng thanh niên kia đánh cờ mà là sư phụ bố trí bàn cờ Trân Lung, còn thanh niên kia thử vào phá giải nhưng giải không được. Y quì dưới đất nên nhìn không rõ, đầu gối lập tức nhấc lên, vươn dài cổ định nhìn cho rõ.
Tô Tinh Hà nói: -Tất cả các ngươi mau đứng dậy! Bách Linh, thế cờ Trân Lung này có ảnh hưởng rất lớn, ngươi lại đây xem thử, nếu như phá giải được thì thật hay không đâu cho hết.
Phạm Bách Linh mừng rỡ vội đáp: -Vâng!
Y liền đứng lên, đi đến bên cạnh bàn cờ, ngưng thần xem xét. Đặng Bách Xuyên hỏi nhỏ: -Nhị đệ, sao lại gọi là Trân Lung?
Công Dã Can cũng thì thầm trả lời: -Trân Lung tức là nạn đề của môn cờ vây. Đó là cờ thế do người ta cố ý bày chứ không phải do hai người đánh cờ mà thành, do đó hoặc sinh, hoặc kiếp nước nào cũng thật khó mà đoán được.
Những thế Trân Lung tầm thường, ít thì mươi quân, nhiều có khi lên đến bốn năm chục quân, thế nhưng bàn cờ này có đến hơn hai trăm, gần như kín cả bàn cờ rồi. Công Dã Can cũng không hiểu biết bao nhiêu, xem một hồi chẳng hiểu gì cả nên không coi nữa.
Phạm Bách Linh chuyên tâm nghiên cứu cờ vây mấy chục năm qua, quả đã là một cao thủ về môn này, thấy trên bàn cờ trong kiếp có kiếp, lại có cộng hoạt, lại thêm trường sinh, hoặc phản phác, hoặc thu khí, tụm năm tụm ba mỗi chỗ một nhóm thật là phức tạp. Y cảm thấy tinh thần phấn khởi, xem thêm một lúc, tự nhiên cảm thấy đầu óc quay cuồng, chỉ mới suy nghĩ về quân trắng một góc bên phải thắng bại ra sao, đã thấy khí huyết trong ngực nhộn nhạo.
Y cố gắng định thần, tính lại lần thứ hai mới thấy rằng lúc trước vẫn tưởng bên trắng ở nơi đó đã hỏng, bây giờ mới hay cũng vẫn còn đường sống, thế nhưng muốn giết nhóm quân đen ở bên cạnh thì thể nào cũng dứt dây động rừng, bèn tính toán thêm nữa, đột nhiên mắt tối sầm, cổ họng mằn mặn, ọc ra một ngụm máu tươi.
Tô Tinh Hà lãnh đạm nhìn y nói: -Thế cờ này rất ư là khó, ngươi thiên tư có hạn, tuy kỳ lực chẳng dở nhưng xem chừng giải không nổi đâu, huống chi có thêm tên ác tặc Đinh Xuân Thu đứng bên cạnh thi triển tà thuật, làm điên đảo hồn vía, quả thực hung hiểm, ngươi có còn muốn giải nữa hay thôi?
Phạm Bách Linh đáp: -Sinh tử hữu mệnh, đệ … tại hạ … tại hạ … quyết ý tận tâm tận lực.
Tô Tinh Hà gật đầu nói: -Vậy ngươi cứ thư thả mà suy nghĩ.
Phạm Bách Linh chăm chú vào cuộc cờ, thân hình lảo đảo, lại phun ra thêm một ngụm máu nữa. Đinh Xuân Thu cười gằn nói: -Chỉ bỏ mạng toi, sao việc gì phải khổ sở thế? Lão tặc đó bố trí cơ quan, cốt là để hành hạ, giết người, Phạm Bách Linh, ngươi đúng là chui đầu vào rọ.
Tô Tinh Hà đưa mắt hầm hầm nhìn y, hỏi: -Ngươi gọi sư phụ là gì thế?
Đinh Xuân Thu đáp: -Y là lão tặc nên ta gọi là lão tặc.
Tô Tinh Hà nói: -Lung Á lão nhân hôm nay không còn câm điếc, chắc ngươi đã biết lý do tại sao rồi?
Đinh Xuân Thu đáp: -Hay lắm! Ngươi tự ý phá lời thề, ấy là tự mình đi tìm cái chết, đừng trách ta nhé.
Tô Tinh Hà tiện tay nhắc một phiến đá ở bên cạnh, đặt xuống bên cạnh Huyền Nạn nói: -Mời đại sư ngồi.
Huyền Nạn thấy tảng đá đó không thể nào dưới hai trăm cân, một ông lão gầy gò nhỏ thó như Tô Tinh Hà, cả người không đến tám chục cân, vậy mà làm như trò trẻ, không phí một chút sức lực đã nhắc được cục đá lên, công lực thực là ghê gớm. Ông nghĩ chính mình khi võ công chưa mất, muốn nhắc một tảng đá như thế thật không khó khăn gì, nhưng làm một cách nhẹ nhàng như thế cũng chưa chắc được, bèn chắp tay nói: -Đa tạ!
sau đó ngồi xuống. Tô Tinh Hà lại tiếp: -Thế cờ Trân Lung này là do tiên sư tạo thành. Năm xưa tiên sư phải mất ba năm tâm huyết mới sắp đặt xong, chỉ mong trên đời có người hiểu lòng mình mà phá giải. Tại hạ trong ba mươi năm qua khổ công nghiên cứu, vậy mà vẫn chưa giải được.
Ông ta nói đến đây, ông đưa mắt quét qua cả bọn Huyền Nạn, Đoàn Dự, Phạm Bách Linh rồi tiếp: -Huyền Nạn đại sư tinh thông thiền lý, hiểu được yếu chỉ Thiền tông là ở chỗ đốn ngộ. Khổ công năm này tháng khác, chưa chắc đã bằng được người đầy đủ căn cốt, huệ tâm vừa thấy đã thông hiểu ngay. Đánh cờ cũng vậy thôi, đứa trẻ tám chín tuổi có tài trí đầy đủ, đánh cờ vẫn có thể thắng được hạng nhất lưu cao thủ. Mặc dầu tại hạ nghiên cứu mãi không ra, nhưng kẻ tài giỏi trong thiên hạ rất nhiều, không phải là không thể giải được.
Tiên sư năm xưa để lại thế cờ này, nếu như có người hoàn thành được tâm nguyện của lão nhân gia thì tiên sư tuy không còn tại nhân gian, dưới cửu tuyền nếu biết được cũng thật là an ủi.
Huyền Nạn nghĩ thầm: “Sư phụ đồ đệ của vị Thông Biện tiên sinh này cùng một nguồn gốc, những trò chơi cầm kỳ thi họa đều lôi kéo con người đi vào ma chướng, đem hết cả cái thông minh tài trí một đời tiêu vào cái việc đâu đâu khiến cho Đinh Xuân Thu ở trong môn phái hoành hành không còn úy kỵ gì nữa, không ai chế ngự nổi y, cũng thật đáng buồn”. Lại nghe Tô Tinh Hà tiếp tục: -Gã sư đệ của ta …
Ông vừa nói vừa chỉ vào Đinh Xuân Thu: -… năm xưa phản bội sư môn, khiến cho tiên sư ẩm hận tạ thế, lại đánh ta không còn đường nào chống đỡ. Tại hạ vốn dĩ đã mong đem cái chết để đền ơn thầy, nhưng nghĩ lại cái tâm nguyện của sư phụ chưa hoàn tất, nếu chưa đi tìm người phá giải thì ở dưới suối vàng còn mặt mũi nào mà nhìn sư phụ, nên đành cố chịu kiếp sống thừa cho đến ngày nay. Trong bao nhiêu năm qua, tại hạ tuân thủ ước định với sư đệ, không nói một lời, tự cho mình danh xưng Lung Á lão nhân, ngay cả môn hạ đệ tử mới thu, cũng ép phải thành người câm điếc. Than ôi, ba mươi năm qua chẳng thành tựu được chuyện gì, thế cờ này đến nay vẫn chưa ai phá giải được. Vị Đoàn công tử đây tuy anh tuấn tiêu sái …
Bao Bất Đồng lại chen vào: -Vị Đoàn công tử đây chắc gì đã anh tuấn, còn tiêu sái thì nhất định chẳng có chút nào, huống chi bề ngoài anh tuấn tiêu sái với đánh cờ có gì liên quan đâu, không thông ơi là không thông! Tô Tinh Hà đáp: -Có liên hệ lắm chứ! Thật nhiều là khác!
Bao Bất Đồng đáp: -Vẻ người lão tiên sinh, ha ha, có thấy chút nào anh tuấn tiêu sái đâu!
Tô Tinh Hà quay sang chăm chăm nhìn y một hồi, miệng hơi mỉm cười. Bao Bất Đồng nói: -Chắc tiền bối định nói Bao Bất Đồng so với lão tiên sinh hình dung cổ quái xấu xí …
Tô Tinh Hà không nhìn nhõi gì đến y nữa, tiếp tục: -Đoàn công tử đi mười bước đầu quả thực cực kỳ tinh diệu khiến cho lão phu thật là kỳ vọng, có ngờ đâu lỡ mất một nước nên mấy nước sau đành chịu thua.
Đoàn Dự vẻ mặt sượng sùng nói: -Tại hạ tư chất ngu độn làm phụ lòng nhã ái của lão trượng, thật đáng hổ thẹn …
Lời nói chưa dứt, bỗng nghe Phạm Bách Linh kêu to một tiếng, máu từ miệng tuôn ra ồng ộc, ngã lật về sau. Tô Tinh Hà hơi nhắc tay trái lên, soẹt soẹt soẹt, ba quân cờ ném ra đánh trúng ba huyệt đạo trên ngực y lúc đó mới ngưng thổ huyết.
Mọi người còn đang kinh ngạc bỗng nghe cạch một tiếng, từ trên không một vật gì trăng trắng bay xuống, trúng ngay bàn cờ. Tô Tinh Hà nhìn lại, hóa ra một mẩu gỗ tùng còn tươi ai đó mới móc ra, khéo làm sao trúng ngay khứ vị ở điểm thất cửu, chính là một nước phá giải thế cờ Trân Lung. Ông ngửng đầu lên thấy trên cây tùng phía bên trái cách chừng năm sáu trượng, thấp thoáng một tà trường bào màu vàng nhạt, hiển nhiên có người ẩn nơi đó.
Tô Tinh Hà vừa kinh ngạc vừa vui mừng nói: -Lại có thêm một vị cao nhân nào giá lâm, lão hủ thật vui mừng khôn xiết.
Ông đang định đi một quân cờ đen, đột nhiên bên tai một tiếng gió nhẹ vụt qua, một vật gì đen sì từ sau lưng bay đến, rơi ngay vào khứ vị ở điểm bát bát,
đúng ngay vào nơi Tô Tinh Hà vừa định hạ xuống.
Mọi người ồ lên một tiếng, quay đầu lại nhưng không thấy bóng dáng ai. Những cây tùng ở phía bên phải không cây nào cao to, nếu trên cây có người ngồi đó thì thấy ngay, không biết kẻ kia ẩn náu nơi nào. Tô Tinh Hà nhìn vật đen sì kia chính là một miếng vỏ cây tùng nho nhỏ, điểm rơi xuống thật chính xác, trong bụng cũng hơi kinh hãi. Quân đen kia vừa hạ xuống, từ cây tùng bên trái lại đi một mẩu gỗ tùng thay quân trắng vào khứ vị ngũ lục.
Vèo một tiếng, một vật đen đen bắn thẳng lên trời, rơi thẳng xuống, không nghiêng không lệch đúng ngay khứ vị tứ ngũ. Quân cờ đen đó khi lên thì quay vòng vòng như trôn ốc, phát xuất từ đâu thật khó mà nhìn ra được, ngoằn ngoèo một hồi vậy mà rơi xuống chính xác như thế, công phu ném ám khí đó đủ đã kinh người. Người đứng chung quanh ai nấy bội phục, cùng suýt xoa reo hò.
Tiếng khen chưa dứt bỗng nghe một giọng vang vang từ trên cành cây truyền xuống: -Mộ Dung công tử đến phá giải thế Trân Lung, tiểu tăng thay người đi giùm hai nước xin đừng trách tội mạo muội.
Cành lá hơi rung động, nghe tiếng gió thoảng qua, bên cạnh bàn cờ đã xuất hiện thêm một nhà sư nữa. Hòa thượng đó mặc tăng bào màu xám tro, thần thái sáng láng, bảo tướng trang nghiêm, trên mặt ẩn một nụ cười.
Đoàn Dự giật mình kinh hãi nghĩ thầm: “Tên ma đầu Cưu Ma Trí lại đến rồi”. Chàng lại bụng bảo dạ: “Không lẽ quân cờ trắng kia là do Mộ Dung công tử đi hay sao? Vị Mộ Dung công tử này rồi đến hôm nay ta cũng sẽ gặp”.
Chỉ thấy Cưu Ma Trí chắp hai tay, quay sang Tô Tinh Hà, Đinh Xuân Thu và Huyền Nạn hành lễ nói: -Tiểu tăng trên đường nhận được Kỳ Hội Thiếp của Thông Biện tiên sinh, không tự lượng sức mình nên vội tới gặp mặt thiên hạ cao nhân.
Y lại tiếp: -Mộ Dung công tử xin cũng hiện thân đi thôi.
Chỉ nghe một tiếng cười trong trẻo, từ sau một cây tùng hai người bước ra. Đoàn Dự chỉ thấy mắt tối sầm, tai ù đi, miệng đắng ngắt, người nóng bừng. Người đó uyển chuyển chậm rãi bước tới, chính là giai nhân mà chàng đêm mong ngày nhớ, không lúc nào quên Vương Ngữ Yên. Nàng mặt đầy vẻ say mê lưu luyến, ngẩn ngơ nhìn thanh niên công tử đi bên cạnh. Đoàn Dự theo ánh mắt nàng nhìn theo, thấy người đó chừng hăm bảy, hăm tám, mặc áo lụa mỏng màu vàng nhạt, trường kiếm đeo ngang hông, diện mục tuấn tú, đi đứng nhẹ nhàng đầy vẻ tiêu sái nhàn nhã.
Đoàn Dự vừa trông thấy y lập tức nửa người chết cứng, rưng rưng dường như muốn rơi nước mắt, nghĩ thầm: “Người ta vẫn thường bảo Mộ Dung công tử là rồng phượng trong loài người, quả nhiên không phải nói ngoa. Vương Ngữ Yên
đối với y ái mộ như thế cũng chẳng trách nàng được”.
Chàng chỉ biết tự oán mình, than thân trách phận, chẳng muốn ngẩng lên nhìn Vương Ngữ Yên nhưng rồi không cưỡng nổi cũng len lén liếc nàng một cái. Chỉ thấy người đẹp mặt mày rạng rỡ, tưởng như toàn thân chỗ nào cũng đầy hỉ khí, từ khi biết nhau đến nay, chưa từng thấy nàng vui vẻ đến thế bao giờ.
Hai người đến gần hơn nhưng Vương Ngữ Yên gặp Đoàn Dự mà dường như thị nhi bất kiến5 cũng chẳng gọi lấy một câu. Đoàn Dự tự nhủ:
“Trong lòng nàng trước nay có bao giờ để ý đến ta đâu, khi ở bên cạnh mình cũng chĩ nghĩ tới biểu ca mà thôi”.
Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác tiến ra nghinh tiếp. Công Dã Can hướng về Mộ Dung Phục hạ giọng bẩm báo lai lịch Tô Tinh Hà, Đinh Xuân Thu, Huyền Nạn mọi người. Bao Bất Đồng nói: -Gã họ Đoàn kia là một tên đồ gàn, không biết võ công, mới rồi đã đánh cờ thua một trận rồi.
Mộ Dung Phục liền cùng mọi người hành lễ tương kiến, ngôn ngữ khiêm hòa ra vẻ muốn làm quen. Cô Tô Mộ Dung danh chấn thiên hạ, có ai ngờ đâu lại là một thanh niên công tử hình dáng tuấn nhã, điệu bộ thanh quí, nên người nào cũng nói vài lời ngưỡng mộ, ngay cả Đinh Xuân Thu cũng khách sáo đôi câu. Người sau cùng Mộ Dung Phục chào là Đoàn Dự: -Đoàn huynh khỏe chứ?
Đoàn Dự thần tình ủ rũ, lắc đầu: -Các hạ khỏe chứ ta … ta … chẳng khỏe chút nào.
Vương Ngữ Yên ồ một tiếng nói: -Đoàn công tử hóa ra cũng ở nơi đây.
Đoàn Dự ấp úng: -Chính … chính … tôi đây.
Mộ Dung Phục trừng mắt nhìn chàng mấy bận, không thèm nói đến nữa, đi đến bên cạnh bàn cờ cầm một quân cờ trắng đặt xuống. Cưu Ma Trí mỉm cười nói: -Mộ Dung công tử võ công cao cường, nhưng môn cờ vây e rằng cũng chỉ bình thường.
Nói xong cũng đặt một quân cờ đen. Mộ Dung Phục nói: -Chưa chắc thua đại sư đâu.
Nói xong cũng hạ một quân cờ đen, Cưu Ma Trí cũng theo đó mà đi thêm một nước. Mộ Dung Phục đã xem bàn cờ này rất lâu, tự tin rằng mình đã tìm được giải pháp, ngờ đâu nước cờ của Cưu Ma Trí lại hoàn toàn ngoài dự tính của y, bao nhiêu những tính toán trong đầu trôi theo giòng nước, lại phải tính lại từ đầu, một lúc lâu sau mới đi thêm được một nước.
Cưu Ma Trí suy nghĩ cực nhanh, đặt liền một quân nữa. Hai người một chậm một nhanh, đi đến hơn hai chục quân, Cưu Ma Trí đột nhiên cười ha hả nói: – Mộ Dung công tử, chúng mình kẻ nọ bó chân bó cẳng người kia.
Mộ Dung Phục giận dữ đáp: -Ngươi đặt cờ loạn xạ, bây giờ có giỏi thì phá giải
đi.
Cưu Ma Trí cười đáp: -Thế cờ này vốn dĩ trên đời không ai giải được, chẳng qua chỉ bày ra để trêu ngươi. Tiểu tăng biết thân biết phận nên chẳng muốn hao tâm huyết suy nghĩ những chuyện không đâu. Mộ Dung công tử, đến ta ở một góc trời kia ngươi còn chưa đụng đến được, vậy mà dám mơ chuyện đuổi hươu ở Trung Nguyên sao?
Mộ Dung Phục giật mình, trong một thoáng trăm ngàn mối vấn vương, trăn qua trở lại chĩ nghĩ đến câu Cưu Ma Trí vừa nói: “Đến ta ở một góc trời kia ngươi còn chưa đụng đến được, vậy mà dám mơ chuyện đuổi hươu ở Trung Nguyên sao?”.
Trước mắt y chỉ thấy mờ dần, quân trắng quân đen trên bàn cờ nay biến thành quan quân sĩ tốt, tây một thế trận, ta vây ngươi, ngươi vây ta, hai bên lẫn lộn chém giết nhau. Mộ Dung Phục trừng trừng nhìn vào, bên mình cờ trắng giáp trắng bị quân cờ đen, giáp đen vây chặt, tả xông hữu đột vẫn không sao ra khỏi trùng vi, trong bụng càng lúc càng thêm bồn chồn: “Họ Mộ Dung ta thiên mệnh đã hết rồi, bao nhiêu tâm cơ nay đành uổng phí. Ta một đời tận tâm tận lực, nhưng rồi cũng chỉ là một giấc mộng ảo mà thôi! Thời là thế, mệnh là thế, còn nói năng gì nữa?”.
Y đột nhiên hét lên một tiếng, rút phắt trường kiếm đưa lên cổ cứa ngang. Trong khi Mộ Dung Phục thần sắc bất định, đứng ngơ ngẩn không nói năng, Vương Ngữ Yên, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can cả bọn chăm chăm nhìn y. Đến khi Mộ Dung Phục đột nhiên rút kiếm tự vẫn, không ai có thể ngờ tới, cả bọn liền xông lên giải cứu nhưng công lực hoàn toàn mất hết rồi, thành ra vẫn chậm một bước. Đoàn Dự vung tay điểm ra kêu lên: -Không được làm thế!
Chỉ nghe soẹt một tiếng, trường kiếm trong tay Mộ Dung Phục giật bắn lên, nghe keng một tiếng đã rơi xuống đất. Cưu Ma Trí cười nói: -Đoàn công tử, chiêu Lục Mạch Thần Kiếm quả hay thật.
Mộ Dung Phục trường kiếm rời khỏi tay còn đang kinh hãi, từ trong mơ mơ màng màng tỉnh lại. Vương Ngữ Yên cầm tay y, liên tiếp vừa lắc vừa kêu: -Biểu ca, không giải được thế cờ thì có đáng gì đâu? sao lại nỡ nào tự tận?
Nàng nói rồi nước mắt chảy dàn dụa trên má. Mộ Dung Phục bàng hoàng kêu lên: -Ta sao thế?
Vương Ngữ Yên đáp: -Cũng may Đoàn công tử đánh rơi thanh trường kiếm trong tay biểu ca, nếu không … nếu không …
Công Dã Can khuyên nhủ: -Công tử, bàn cờ này làm mê hoặc lòng người, xem ra bên trong có cả huyễn thuật, công tử đừng hao phí tâm tư thêm nữa làm gì.
Mộ Dung Phục quay lại nhìn Đoàn Dự nói: -Kiếm chiêu mới rồi của các hạ có
phải thực là Lục Mạch Thần Kiếm chăng? Tiếc thay tại hạ không được xem, các hạ có thể thử thêm lần nữa để cho bỉ nhân được dịp mở mắt.
Đoàn Dự quay sang nhìn Cưu Ma Trí, e ngại y thấy mình sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm rồi sẽ lại bắt mình lần nữa. Lộ kiếm pháp đó khi thì linh, khi thì không, nếu như tên ác hòa thượng này ra tay, thực khó mà chống trả, trong bụng sợ hãi, tránh ra ba bước cho cách xa Cưu Ma Trí, có bọn Chu Đan Thần ba người xen vào giữa, lúc đó mới đáp: -Ta … ta trong cơn gấp gáp, chó ngáp phải ruồi, muốn sử thêm một chiêu nữa quả thật khó khăn. Có thực ngươi không nhìn thấy hay chăng?
Mộ Dung Phục vẻ mặt ngượng ngập nói: -Tại hạ nhất thời tâm thần mê loạn chẳng khác gì ma nhập.
Bao Bất Đồng lớn tiếng kêu lên: -Đúng đó, hẳn là Tinh Tú Lão Quái đứng bên cạnh thi triển tà pháp, công tử phải hết sức cẩn thận.
Mộ Dung Phục lườm Đinh Xuân Thu, nói với Đoàn Dự: -Tại hạ chẳng may trúng phải tà thuật, may được các hạ cứu viện, trong lòng thật là cảm kích. Đoàn huynh biết được tuyệt kỹ Lục Mạch Thần Kiếm, có phải là người trong Đoàn gia Đại Lý hay không?
Đột nhiên từ đằng xa một giọng nói văng vẳng truyền đến: -Có một tên họ Đoàn Đại Lý ở đó hay sao? Có phải Đoàn Chính Thuần không?
Chính là thanh âm của Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh. Bọn Chu Đan Thần lập tức biến sắc. Lại nghe một giọng oang oang sắc cạnh như kim loại chạm nhau: -Lão đại của anh em ta mới đích thực là họ Đoàn Đại Lý, còn ngoài ra đều là đồ giả.
Đoàn Dự cười thầm nghĩ bụng: “Tên học trò của ta cũng đến nữa đây”. Tiếng kêu của Nam Hải Ngạc Thần chưa dứt, từ dưới núi chạy lên một người, thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn, chính là Vân Trung Hạc, miệng kêu: -Thiên hạ Tứ Đại Ác Nhân đúng theo ước hẹn cuộc cờ đến bái phỏng Thông Biện tiên sinh. Tô Tinh Hà đáp: -Hết sức hoan nghênh.
Bốn chữ đó vừa ra khỏi miệng, Vân Trung Hạc đã phiêu phiêu đi đến trước mặt mọi người. Một lát sau, Đoàn Diên Khánh, Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần ba người cũng sánh vai tới nơi. Nam Hải Ngạc Thần lớn tiếng nói: -Lão đại chúng ta xem thiếp mời, cực kỳ hoan hỉ, mọi chuyện khác gác sang một bên đến đây đánh cờ. Lão đại ta võ công thiên hạ vô địch, so với Nhạc lão nhị này còn ghê gớm hơn. Kẻ nào không phục cứ lên đánh thử với y ba ván. Các ngươi muốn một chọi một cũng tốt, mà tất cả xông lên cũng được. sao không thấy binh khí đâu cả là sao?
Diệp Nhị Nương vội chặn lại: -Lão tam chớ có nói năng lếu láo. Đánh cờ nào phải là đánh nhau, có cần gì binh khí?
Nam Hải Ngạc Thần đáp: -Có mụ nói lếu láo thì có. Không đánh nhau thì lão đại lật đật đến đây làm gì?
Đoàn Diên Khánh mắt đăm đăm nhìn bàn cờ, ngưng thần suy nghĩ, qua một hồi thật lâu, thiết trượng bên trái điểm vào trong hộp quân, đầu trượng dường như có sức hút, dính chặt một quân cờ trắng, đặt lên trên bàn cờ. Huyền Nạn khen ngợi: -Họ Đoàn Đại Lý võ công độc bộ trời nam, quả là không phải chỉ có hư danh.
Đoàn Dự từng chứng kiến Đoàn Diên Khánh đánh cờ với Hoàng Mi tăng, biết ông ta không những nội lực thâm hậu mà kỳ lực cũng thật cao, có thể phá giải thế cờ Trân Lung không chừng. Chu Đan Thần ghé tai chàng nói nhỏ: -Công tử, mình đi thôi! Đừng để lỡ cơ hội.
Thế nhưng Đoàn Dự một mặt muốn xem Đoàn Diên Khánh làm thế nào phá giải ván cờ này, lại thêm dễ dầu gì gặp được Vương Ngữ Yên, nên dù trời sập chăng nữa cũng chưa chắc khiến cho chàng bỏ nàng mà đi khỏi, thành thử chỉ ậm ừ mấy tiếng nhưng chân lại nhích dần về chỗ bàn cờ.
Bàn cờ này thiên biến vạn hóa, bao nhiêu nước Tô Tinh Hà đều đã thuộc nằm lòng, lập tức đặt ngay một quân đen xuống. Đoàn Diên Khánh suy nghĩ thêm một lát, lại đặt một quân. Tô Tinh Hà nói: -Các hạ đi nước này quả là cao minh, để xem có thể phá được cửa quan tìm ra một lối thoát không nào.
Ông ta đặt một quân đen, chặn ngay đường lại, Đoàn Diên Khánh lại đi một quân nữa. Hư Trúc bỗng nói: -Nước cờ đó xem ra không ổn.
Y mới rồi thấy Mộ Dung Phục đã đi quân đó, đi tiếp thêm mấy nước đột nhiên rút kiếm tự vẫn, sợ rằng Đoàn Diên Khánh cũng rơi vào vết xe đổ, trong lòng bất nhẫn nên lên tiếng nhắc. Nam Hải Ngạc Thần cực kỳ giận dữ, quát lớn: – Cái thứ chú tiểu như ngươi mà dám nói lão đại ta ổn hay không ổn hay sao?
Y vừa nói vừa chộp vào lưng Hư Trúc, nhắc lên. Đoàn Dự nói: -Hảo đồ nhi, không được đả thương tiểu sư phụ.
Nam Hải Ngạc Thần khi vừa đến đã trông thấy Đoàn Dự, trong bụng ngượng ngập, tốt nhất là chàng chẳng nói năng gì, ngờ đâu lại ra lệnh cho y, bèn hầm hầm nói: -Không đả thương thì thôi, đã làm sao nào.
Y bèn để Hư Trúc xuống. Mọi người thấy một gã ngang ngược hung ác như Nam Hải Ngạc Thần lại nghe lời Đoàn Dự, gọi y là “đồ nhi” mà không thấy cãi lại đều cảm thấy lạ lùng. Chỉ có bọn Chu Đan Thần hiểu được nguyên do, trong bụng cười thầm.
Hư Trúc ngồi xuống trong lòng suy nghĩ: “Sư phụ ta vẫn thường dạy rằng Phật tổ truyền xuống bao gồm giới, định, huệ ba tu chứng pháp môn. Kinh Lăng Nghiêm có viết: “Nhiếp tâm vi giới, nhân giới sinh định, nhân định sinh huệ 6”. Con người chúng ta căn cốt ngu độn, khó lòng nhiếp tâm để giữ mình, thành
thử Đạt Ma tổ sư mới truyền cho phương tiện pháp môn, dạy chúng ta học võ để nhiếp tâm, mà đánh cờ cũng có thể nhiếp tâm. Học võ tính chuyện hơn thua, đánh cờ cũng là chuyện thua được cũng đều ngược lại với thiền lý thành ra dù học võ hay đánh cờ cũng phải cố giữ cái tâm vô thắng bại. Khi tụng kinh, ăn cơm, đi đường thì vô thắng bại tâm rất là dễ, còn như tỉ võ, đánh cờ mà đạt được vô thắng bại tâm thì thật khó thay. Nếu như khi tỉ võ, đánh cờ mà không còn cái tâm thắng bại thì đã là gần được đạo rồi. Kinh Pháp cú có viết: Thắng ắt bị người ta oán hận, thua sẽ tự cho mình là thấp hèn. Bỏ được cái tâm thắng bại, không tranh giành thì lòng mới yên.7 Ta võ công kém cỏi, kỳ thuật tầm thường, cùng sư huynh đệ tỉ võ, đánh cờ bao giờ cũng thua nhiều thắng ít, vậy mà sư phụ ngược lại khen ta giữ được không giận không oán, coi chuyện thắng bại nhẹ như bông. Vậy mà sao hôm nay khi ta thấy vị Đoàn thí chủ này đi sai nước cờ, lại lo cho y lạc bại nên ra lời chỉ điểm? Huống chi cứ kỳ thuật như ta thì còn chỉ điểm cho ai được nữa? Y đi nước cờ tuy tương đồng với Mộ Dung công tử nhưng về sau ắt sẽ khác đi, chính ta không giải được, sao lại dám mở lời “xem ra không ổn”, chẳng hóa ra mang cái tâm tự cao tự mãn hay sao?”.
Đoàn Diên Khánh cứ đi một nước lại suy nghĩ một hồi, từng quân từng quân càng lúc càng lâu, đặt đến hơn hai chục quân thì mặt trời đã ngả về tây. Huyền Nạn đột nhiên nói: -Đoàn thí chủ, mười nước đầu thí chủ đi theo đường chính nhưng từ thứ mười một trở đi lại vào bàng môn, càng lúc càng sâu, để đến lúc không còn cứu được nữa rồi.
Các bắp thịt trên mặt Đoàn Diên Khánh đã cứng không tỏ ra có ý gì nhưng từ cổ họng phát ra thanh âm nói: -Phái Thiếu Lâm là danh môn chính tông, theo như chính đạo của các ông thì giải pháp thế nào?
Huyền Nạn thở dài một tiếng nói: -Bàn cờ này tưởng như chính mà không phải chính, giống như tà mà không phải tà, dùng chính đạo mà giải cũng không xong nhưng đi vào con đường vạy thì cũng không được.
Cây gậy trúc nơi tay trái của Đoàn Diên Khánh ngừng lại giữa lưng chừng, hơi run run, thủy chung không điểm xuống, qua một hồi lâu mới nói: -Đằng trước đã nghẽn lối rồi, đằng sau lại có truy binh, chính cũng không mà tà cũng không, thật là khó lòng.
Võ công gia truyền của y vốn là chính tông Đoàn gia Đại Lý, nhưng về sau đi vào đường tà, mấy câu nói của Huyền Nạn khiến y phải chạnh lòng, cũng chẳng khác gì Mộ Dung công tử dần dần đi vào ma đạo.
Bàn cờ Trân Lung đó biến chuyển hàng trăm lối, tùy theo người mà thành, kẻ tham tài thì vì tiền bạc mà thất cơ, kẻ nóng tính thì vì sân hận mà hỏng việc. Đoàn Dự thất bại vì ái tâm quá nặng, không dám bỏ quân; Mộ Dung Phục
thua, chỉ vì chấp trước quyền uy, tuy dám thí quân nhưng không chịu thất thế. Còn Đoàn Diên Khánh thì mối hận to lớn nhất trên đời là sau khi tàn phế, đã bỏ võ công chính tông của bản môn, chuyển sang tập luyện bàng môn tà thuật, đến lúc toàn tâm toàn ý tập trung vào đó thì ngoại ma xâm nhập, để đến tâm thần hoang mang không còn tự chế được nữa.
Đinh Xuân Thu cười khì khì tiếp lời: -Đúng đó! Con người từ chính chuyển sang tà thì dễ, cải tà qui chánh mới thật gay go, một đời của ngươi thôi đành xôi hỏng bỏng không, bỏ đi, bỏ đi thật rồi! Ôi, thật là đáng tiếc, một bước sa chân khiến cho nghìn đời ôm hận, kịp lúc quay đầu mới hay muôn sự lỡ làng.
Lời của y đầy vẻ xót thương. Thế nhưng những đại cao thủ ai ai cũng biết Tinh Tú Lão Quái nào có ý tốt, chỉ nhân cháy nhà hôi của, định dẫn Đoàn Diên Khánh vào chỗ tẩu hỏa nhập ma để trừ khử một kẻ đối đầu lợi hại.
Quả nhiên Đoàn Diên Khánh lặng người thảm thiết nói: -Ta vốn ở ngôi vị tôn quí hoàng tử nước Đại Lý, hôm nay lưu lạc giang hồ để tang thương thế này, quả đáng hổ thẹn cùng liệt tổ liệt tông.
Đinh Xuân Thu nói: -Ngươi chết xuống dưới suối vàng, còn mặt mũi nào mà gặp lại tiên nhân họ Đoàn, nếu biết xấu hổ, sao không tự tận, cũng còn coi là một hành vi anh hùng hảo hán, thôi thôi, chi bằng tự tận cho xong, chi bằng tự tận cho xong!
Giọng nói nhu hòa dễ nghe, những người công lực hơi yếu, nghe mơ mơ màng màng tưởng như muốn gục xuống. Đoàn Diên Khánh lẩm bẩm nói một mình: – Thôi! Chi bằng tự tận cho xong!
Y nhắc thiết trượng lên, chầm chậm nhắm ngay ngực mình điểm vào. Thế nhưng vốn dĩ y tu tập rất cao siêu, mang máng cảm thấy dường như có gì không phải, từ nơi đáy lòng có tiếng gọi giật lại: -Không nên! Không nên! Điểm xuống là hỏng đó.
Thế nhưng đầu trượng vẫn từng tấc từng tấc tiến vào ngực. Y năm xưa mất nước lưu vong, thân bị trọng thương rồi đã từng có ý định tự tận, chỉ vì một cơ duyên đặc biệt mà phấn chấn trở lại, đến giờ sức tự chế giảm đi, cái ý niệm muốn tìm cái chết ẩn giấu trong tim lại hiện đến.
Trong các đại cao thủ đứng chung quanh, Huyền Nạn bụng dạ từ bi, có ý muốn lên tiếng cảnh tỉnh nhưng muốn dùng “đương đầu bổng hát” 8 cần phải có nội công tương đương với Đoàn Diên Khánh mới có thể làm cho y ù tai, còn không thì chẳng đi đến đâu, ngược lại còn mang họa nên tuy nôn nóng cũng đành bó tay. Còn Tô Tinh Hà thì phải tuân theo qui củ của sư phụ đặt ra năm xưa, không thể cứu viện. Mộ Dung Phục biết Đoàn Diên Khánh không phải là người tốt, nếu y bị tẩu hỏa nhập ma mà chết, trong thiên hạ bớt đi một mối hại thì còn gì hơn. Cưu Ma Trí hạnh tai lạc họa, cười hề hề tụ thủ bàng quan.
Đoàn Dự và Du Thản Chi tuy công lực thâm hậu nhưng không biết Đoàn Diên Khánh đang làm trò gì. Vương Ngữ Yên tuy hiểu biết về võ học các môn phái rộng rãi thật nhưng thuật dẫn dụ của Đinh Xuân Thu là tà thuật bàng môn, không phải võ học thành thử nàng cũng chẳng biết gì cả. Còn Diệp Nhị Nương trước nay vốn bị Đoàn Diên Khánh đè đầu cưỡi cổ, bình thời hống hách, cực kỳ ngang ngược nên trong bụng vẫn oán giận ngầm nay thấy y sắp tự tận cũng chẳng muốn cứu làm gì. Còn bọn Đặng Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng không những công lực mất hết, lại cũng chẳng muốn dính vào việc tranh chấp giữa Tinh Tú Lão Quái và Đệ Nhất Ác Nhân.
Trong đám đó chỉ có mình Nam Hải Ngạc Thần là bồn chồn hơn cả, thấy đầu trượng chỉ còn cách ngực Đoàn Diên Khánh chừng vài tấc, nếu nhích thêm chút nữa sẽ điểm ngay vào tử huyệt, thuận tay chộp luôn Hư Trúc, kêu lên: – Lão đại, bắt lấy nhà sư này.
Vừa nói y vừa ném luôn vào người Đoàn Diên Khánh. Đinh Xuân Thu đánh ra một chưởng quát: -Cút ngay! Đừng có phá đám.
Cái ném đó của Nam Hải Ngạc Thần cực kỳ hồn hậu, Hư Trúc theo kình phong bay tới bị Đinh Xuân Thu đánh nhẹ một cái lập tức bay ngược trở ra lao thẳng vào Nam Hải Ngạc Thần.
Nam Hải Ngạc Thần hai tay đỡ lấy, đang toan vứt trở vào Đoàn Diên Khánh lần nữa, ngờ đâu trong chưởng lực của Đinh Xuân Thu, còn có dấu ba luồng hậu kình, Nam Hải Ngạc Thần mắt trợn tròn, lịch bịch lùi lại ba bước, vừa toan gượng lại, luồng kình lực thứ hai đã đến nơi, hai đầu gối khuỵu xuống, ngồi phịch ngay trên mặt đất, tưởng đã yên, ngờ đâu bấy giờ luồng kình lực thứ ba mới ập đến. Y không tự chủ được lộn mèo một vòng, hai tay vẫn còn nắm chặt Hư Trúc, lại đè nhà sư xuống lộn thêm một vòng nữa. Y sợ chưởng lực của Đinh Xuân Thu còn một luồng kình đạo thứ tư, vội xô Hư Trúc tới trước để đỡ đòn, nhưng may không còn, Nam Hải Ngạc Thần liền trợn mắt chửi: -Con bà ngươi gì mà mạnh thế.
Y liền cầm Hư Trúc vứt xuống đất. Đinh Xuân Thu phát ra chưởng đó rồi tâm lực hơi nhãng ra, thành thử trượng của Đoàn Diên Khánh ngừng lại lưng chừng, không di động nữa. Đinh Xuân Thu nói: -Không kịp nữa rồi! Không kịp nữa rồi! Này Đoàn Diên Khánh, ta khuyên ngươi nên tự tận cho xong, tự tận cho xong!
Đoàn Diên Khánh thở dài: -Phải rồi! Sống ở trên đời, có còn ý nghĩa gì đâu? Chi bằng chết cho xong.
Trong khi y nói thì đầu trượng đã tiến sâu thêm hai tấc nữa. Lòng từ bi của Hư Trúc nổi lên mãnh liệt, biết rằng muốn giải trừ ma chướng cho Đoàn Diên Khánh thì phải xen vào bàn cờ, có điều kỳ nghệ của y thấp kém, muốn giải
nạn đề vô cùng phức tạp khó khăn kia, thật không dám nghĩ đến, thấy trước mắt Đoàn Diên Khánh đang chết sững nhìn bàn cờ, nguy cơ trong khoảnh khắc, đột nhiên linh cơ nhất động: “Ta không giải được thế cờ này thật, nhưng quấy phá loạn lên thì thật dễ dàng, chỉ miễn sao tâm thần y nhãng ra là có cơ cứu được. Đã không có bàn cờ thì đâu còn gì thắng hay bại?”. Hư Trúc liền nói: -Để cho tiểu tăng giải bàn cờ này.
Y nhanh nhẹn tiến tới gần bên, lấy trong hộp ra một quân cờ trắng, nhắm mắt lại để bừa xuống bàn cờ.
Y chưa kịp mở mắt ra đã nghe tiếng Tô Tinh Hà quát lớn: -Chỉ giỏi quấy hôi bôi nhọ! Đi quân bậy bạ, ai đời tự mình giết quân mình, làm gì có phép đánh cờ nào như thế?
Hư Trúc mở mắt ra nhìn, không khỏi đỏ mặt. Thì ra khi y nhắm mắt để đại xuống một quân, sao lại trúng ngay một đám quân trắng đang bị quân đen bao vây không còn hở chỗ nào lọt ra được. Đám quân trắng đó vốn dĩ còn một nước nữa, quân đen lúc nào đặt xuống cũng ăn sạch, nhưng nếu như đối phương không rảnh rỗi để hạ kỳ thì cũng còn có đường sống, mà bên trắng cố gắng vùng vẫy cũng chỉ ở một nước đó mà thôi. Thế nhưng lúc này y lại đem quân mình ăn quân mình, trong phép chơi cờ chưa từng có ai đi lối tự sát như thế. Quân trắng chết rồi, phe mình coi như tan rã. Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Dự trông thấy thế không khỏi cười ha hả. Huyền Nạn lắc đầu ái ngại, Phạm Bách Linh tuy đang sống dở chết dở cũng phải thốt lên: -Đi nước đó thực đúng là làm trò cười.
Tô Tinh Hà nói: -Tiên sư có di mệnh, bàn cờ này dù lài ai chăng nữa cũng có thể nhập cuộc. Tiểu sư phụ đi nước đó quả khác thường không ai nghĩ ra được, nhưng cũng là đi một nước.
Ông giơ tay lấy những quân cờ bị Hư Trúc tự giết chết bỏ ra ngoài, kế đó đi một quân đen. Đoàn Diên Khánh kêu lên một tiếng, từ trong huyễn mộng bừng tỉnh lại, đưa mắt nhìn Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: “Tinh Tú Lão Quái, ngươi thừa gió bẻ măng, ám thi độc thủ, chuyện này ta nhất định không bỏ qua đâu”.
Đinh Xuân Thu liếc Hư Trúc, ánh mắt đầy oán độc, chửi: -Giặc trọc con.
Đoàn Diên Khánh thấy nước cờ đã biến hóa, biết mình vừa chết đi sống lại, cũng là nhờ có Hư Trúc cứu viện, trong lòng dâng lên một niềm cảm kích, sợ rằng Đinh Xuân Thu sẽ ra tay giết Hư Trúc trả thù nên nghĩ thầm: “Có cao tăng chùa Thiếu Lâm là Huyền Nạn ở đây, chắc Tinh Tú Lão Quái không dám gây chuyện với đồ tử đồ tôn của ông ta, thế nhưng nếu như lão hủ Huyền Nạn tầm thường không bảo vệ được chu đáo, ta sẽ không để cho tiểu hòa thượng này phải chết vì ta”.
Tô Tinh Hà nói với Hư Trúc: -Tiểu sư phụ, ngươi giết một số quân của mình, quân đen càng thúc ép thêm nữa, ngươi ứng phó ra sao?
Hư Trúc cười gượng đáp: -Tiểu tăng kỳ nghệ kém cỏi, đi đại một quân chẳng qua chỉ vì muốn cứu người. Bàn cờ này tiểu tăng không biết đánh, xin lão tiền bối tha thứ cho.
Tô Tinh Hà sầm mặt xuống, gằn giọng: -Tiên sư sắp đặt ván cờ này cung thỉnh cao nhân thiên hạ đến phá giải. Nếu như phá giải không được thì cũng không sao, còn gặp tai ương xảy tới, cũng là do mình thu lấy. Thế nhưng nếu người nào đến chỉ để phá rối bàn cờ, khinh mạn tâm huyết một đời của tiên sư, thì dẫu có người đông thế mạnh, ha ha, lão phu mặc dầu vừa câm vừa điếc, cũng vẫn nhất định sẽ đi tới cùng.
Y tên gọi Lung Á lão nhân, thực ra nào có điếc có câm gì đâu, hiện giờ vểnh tai nghe, mở mồm nói, vậy mà vẫn tự cho mình “vừa câm vừa điếc”, có điều trong khi nói, mày râu dựng ngược, thần tình cực kỳ hung mãnh nên không ai dám mở miệng cười.
Hư Trúc chắp tay hành lễ thật sâu nói: -Lão tiền bối …
Tô Tinh Hà quát lớn: -Đánh cờ là đánh cờ, nói nhiều có ích gì đâu? Sư phụ ta có phải để cho ngươi đến phá quấy tiêu khiển chăng?
Ông ta vừa nói vừa vung tay lên đánh ra một chưởng, nghe bình một tiếng, bụi bay mù mịt, trước mặt Hư Trúc lập tức hiện ra một cái hố lớn. Chưởng đó mãnh liệt không gì sánh kịp, nếu chỉ nhích lên chừng một thước thì Hư Trúc đã gân cốt nát nhừ, chết tươi ngay.
Hư Trúc sợ đến tim đập thình thình, đưa mắt nhìn Huyền Nạn, mong sư bá tổ đứng ra cứu y khỏi cảnh ngộ khó khăn này. Huyền Nạn nước cờ đã không cao, võ công lại mất hết, làm gì còn cách gì bây giờ? Trong tình cảnh đó ông chỉ còn một cách là muối mặt xin Tô Tinh Hà nhẹ tay, bỗng thấy Hư Trúc thò tay vào hộp, lấy ra một quân cờ trắng, đặt lên bàn cờ. Nơi y để quân, chính là nơi những quân trắng mới mất đi còn bỏ trống. Nước cờ đó quả là rất cao. Trong ba mươi năm qua, Tô Tinh Hà đã suy nghĩ tất cả những thiên biến vạn hóa của thế cờ này, sách giải thuộc nằm lòng, dẫu đối phương đi nước nào cũng không qua khỏi những gì ông ta đã nghĩ tới. Thế nhưng Hư Trúc thoạt đầu nhắm mắt đặt bừa một quân, tự mình giết chết một đám quân mình vi phạm phép đánh cờ rất nặng, dù người chỉ hơi biết đánh cờ cũng không ai lại làm thế.
Cái cách đó chẳng khác gì tự mình giơ kiếm vung đao lên cứa cổ mình. Ngờ đâu sau khi y nhắm mắt đặt một quân giết của mình một khối lớn rồi, cục diện lại thấy thông tỏ hơn, bên quân đen tuy có lợi lớn nhưng quân trắng lúc này cũng còn có cơ chống đỡ, không phải như trước bó chân bó tay, được chỗ nọ
mất chỗ kia. Cục diện mới này Tô Tinh Hà dù có nằm mơ cũng không sao nghĩ tới được. Ông ta ngạc nhiên, suy nghĩ một lúc lâu, lúc đó mới đi một quân đen.
Thì ra khi Hư Trúc trông thấy Tô Tinh Hà đánh ra một chưởng uy hiếp, sư bá tổ cũng không lên tiếng giải vây cho mình, còn đang bàng hoàng lo lắng, bỗng nghe một tiếng nói nho nhỏ truyền vào trong tai: -Để vào bình vị ở nước tam cửu.
Hư Trúc chẳng cần biết ai là người chỉ điểm mình, cũng không cần biết đúng hay sai, cầm ngay quân trắng, theo đúng lời dặn hạ vào bình vị tam cửu. Đến khi Tô Tinh Hà đi một quân đen nữa rồi, giọng nói đó lại truyền vào tai Hư Trúc: -Bình vị nhị bát.
Hư Trúc lại đặt một quân trắng xuống nước bình vị nhị bát. Quân cờ đi rồi, chỉ nghe Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Dự cả bọn đều ồ lên một tiếng. Hư Trúc ngẩng đầu lên, thấy mọi người ai nấy tỏ vẻ ngạc nhiên, đồng thời khâm phục đủ biết nước đi của mình thật tinh diệu, lại thấy vẻ mặt Tô Tinh Hà vừa mừng rỡ sung sướng nhưng cũng nóng nảy bồn chồn, đôi lông mày dài không ngớt nhô lên hụp xuống.
Hư Trúc trong bụng khởi nghi: “sao ông ta đột nhiên lại cao hứng thế? Không lẽ nước cờ mình đi sai rồi chăng?”. Thế nhưng lại lập tức nghĩ ngay: “Không cần biết đi đúng hay sai, chỉ cần mình đi được mười nước trở lên, đủ để biết rằng mình cũng có đường đi nước bước, không phải đến quấy rối làm loạn nước cờ, hối nhục tiên sư của ông ta, lúc đó sẽ không trách mình được nữa”. Đến khi Tô Tinh Hà đi một quân đen nữa, y lại theo đúng người nào đó ám trung tương trợ chỉ điểm, hạ một quân trắng. Hư Trúc một mặt hạ kỳ, một mặt chú tâm quan sát, có phải sư bá tổ bí mật giúp đỡ mình hay không, nhưng thấy Huyền Nạn thần tình ra chiều nóng ruột, xem ra không phải, huống chi trước sau ông ta không mở miệng nói câu nào.
Người đưa tiếng nói truyền vào tai y nội lực phải cực kỳ thâm hậu, hiển nhiên là “truyền âm nhập mật” dùng thượng thừa nội công truyền lời nói thẳng vào tai y, người khác dù có đứng ngay bên cạnh cũng không nghe thấy gì cả.
Thế nhưng dù tiếng nói có nhỏ tới mực nào thì miệng vẫn phải mấp máy, Hư Trúc lén quan sát môi mọi người, không thấy người nào động đậy, vậy mà câu: “Để xuống vị trí ngũ lục” vẫn vào tai y thật rõ ràng. Hư Trúc đúng theo đó mà đi, nghĩ thầm: “Dạy ta ngoài sư bá tổ ra thì còn ai nữa. Những người khác với mình vô thân vô cố, việc gì phải giúp mình? Trong những cao thủ ở đây, chỉ có mình sư bá tổ chưa đánh cờ, còn ai cũng đã thử qua và cũng đã thua rồi. Sư bá tổ thần công phi phàm, thành ra không mấp máy môi vẫn có thể “truyền âm nhập mật”, ta không biết đến bao giờ mới tu luyện được đến mức đó”.
Y có biết đâu người chỉ cho y lại chính là thiên hạ đệ nhất ác nhân có cái ngoại hiệu Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh. Vừa rồi Đoàn Diên Khánh chìm sâu mê mẩn vào cuộc cờ, bị Đinh Xuân Thu thừa cơ dậu đổ bìm leo, định đẩy y vào chỗ tẩu hỏa nhập ma, tự sát thân vong, cũng may Hư Trúc làm loạn nước cờ mới cứu mạng cho y được. Y thấy Tô Tinh Hà nặng lời trách mắng Hư Trúc, có ý muốn giết chú tiểu này nên buông lời chỉ điểm, cố ý giải vây, để cho nhà sư có dịp thoái lui. Y giỏi về thuật phúc ngữ, khi nói không cần phải mấp máy môi, lại thêm nội công thâm hậu nên biết cách “truyền âm nhập mật”, tuy bên cạnh có mấy cao thủ hạng nhất nhưng vẫn không ai khám phá ra.
Thế nhưng sau mấy nước, cuộc diện lại biến hóa mãnh liệt, Đoàn Diên Khánh nắm ngay được cái bí áo của bàn cờ Trân Lung này. Đó là bên trắng phải tự giết một số quân của mình trước, sau đó những chỗ kỳ diệu mới liên tục sinh ra. Trong phép đánh cờ có những nước phản phác, đảo thoát ngoa, tự mình cố
ý đi vào chỗ chết để nhử cho đối phương ăn quân, sau đó sẽ lật ngược thế cờ nhưng có chết nhiều lắm cũng chỉ tám chín quân, chứ đời nào lại nhường đến mấy chục quân bao giờ. Phép “tự mình giết mình” quả là trong môn cờ vây nghìn năm chưa ai thấy, dù cho loại cao thủ đến mức thần thánh cũng không ai dám nghĩ đến một nước cờ như vậy. Ai ai cũng chỉ nghĩ đến làm sao thoát khỏi khốn cảnh để tìm đường sống, chứ có ai lại nghĩ đến nước đi vào cửa tử để tìm đường ra, nếu không phải Hư Trúc nhắm mắt, thuận tay đặt bừa một nước cực kỳ ngốc nghếch đó, e rằng một nghìn năm sau, ván cờ Trân Lung này cũng không ai giải được.
Kỳ thuật của Đoàn Diên Khánh vốn đã cực cao minh, hôm xưa đánh cờ với Hoàng Mi tăng nước Đại Lý đã làm cho nhà sư này không còn đường chống đỡ, lúc này bên trắng đã mất đi một mảng lớn, thế đánh bỗng rộng rãi ra nhiều, chẳng nghĩ tới đám quân mình vừa mất, cũng không nghĩ tới cục diện bó chân bó cẳng mới rồi, tự nhiên thoải mái mà đi quân không phải vào cảnh tiến thoái lưỡng nan như trước.
Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục đâu có biết Đoàn Diên Khánh đứng ngoài chỉ điểm, chỉ thấy Hư Trúc nước nào ra nước nấy, ăn luôn hai khối cờ đen, nhịn không nổi phải tấm tắc khen ngợi.
Huyền Nạn lẩm bẩm nói một mình: -Cuộc cờ này vốn quấn quít trong trường thắng bại đắc thất, cho nên không thể nào phá giải được. Nước cờ của Hư Trúc không còn màng sinh tử, cũng không chấp trước được thua, hóa ra vượt ra khỏi vòng sống chết, đạt tới giải thoát …
Ông mang máng thấy có chỗ sở ngộ, nhưng lại chưa nắm được, biết mình cả đời chuyên lo võ học, khiếm khuyết công phu thiền môn, bỗng nghĩ ra: “Lung Á tiên sinh và Hàm Cốc bát hữu chuyên về tạp học, cho nên võ công không
bằng được Đinh Xuân Thu, ta trước đây cười chê họ đi vào ngã rẽ. Thế nhưng ta cả đời luyện tập võ công, không chăm lo tham thiền để vượt vòng sinh tử, có phải cũng đi vào sai lầm hay không?”. Ông nghĩ đến đó, tự nhiên toàn thân mồ hôi toát dầm dề.
Đoàn Dự lúc đầu còn chăm chú xem bàn cờ nhưng về sau, đôi mắt chàng chỉ dán chặt vào người Vương Ngữ Yên, càng nhìn càng thêm đau lòng, thấy nhãn quang nàng từ đầu đến cuối không lúc nào rời khỏi Mộ Dung Phục đành bụng bảo dạ: “Thôi mình đi cho xong! Ở đây càng lâu càng thêm khổ, không chừng lại hộc máu ngay tai đây mất”. Thế nhưng nếu để chàng tự mình rời xa Vương Ngữ Yên thì làm sao cho được?
Chàng nghĩ thầm: “Thôi đợi Vương Ngữ Yên quay đầu lại lúc ấy mình sẽ nói: Vương cô nương, chúc mừng cô đã gặp được biểu ca, hôm nay tại hạ được gặp cô nương thêm một lần nữa, quả là có duyên. Tôi xin từ biệt”.
Nếu lúc đó nàng nói: “Được, thôi chào công tử” thì mình sẽ ra đi. Còn nếu như nàng nói: “sao gấp thế, ta còn có chuyện muốn nói với công tử” thì mình sẽ nán lại xem nàng muốn nói gì.
Thực ra, Đoàn Dự biết Vương Ngữ Yên sẽ chẳng bao giờ quay đầu lại nhìn mình, cũng chẳng bao giờ bảo chàng: “sao gấp thế, ta còn có chuyện muốn nói với công tử”. Bỗng nhiên, đám tóc phất phơ sau cổ Vương Ngữ Yên hơi lay động, Đoàn Dự tim đập thình thình: “Nàng quay lại đó!”. Thế nhưng chỉ nghe nàng thở dài một tiếng gọi khẽ: -Biểu ca!
Mộ Dung Phục chăm chú nhìn bàn cờ, thấy bên trắng giờ này đã chiếm thượng phong, đang dần dần ép lại nghĩ thầm: “Mấy nước cờ đó ta làm sao nghĩ ra nổi. Vạn sự khởi đầu nan, là một bàn cờ quái lạ bậc nhất, không sao tưởng được”. Vương Ngữ Yên lại khẽ gọi lần nữa nhưng y nào có nghe thấy gì đâu. Vương Ngữ Yên lúc ấy mới chép miệng, từ từ quay đầu lại. Đoàn Dự tim đập mạnh: “Nàng quay lại rồi! Nàng quay lại rồi!”.
Quả nhiên khuôn mặt tú lệ của Vương Ngữ Yên đã chuyển qua, Đoàn Dự thấy dung nhan nàng nhuốm một vẻ ưu sầu, trong ánh mắt lại có chiều u oán, nghĩ thầm: “Từ khi nàng sánh vai cùng Mộ Dung Phục đến đây, thần sắc trước sau lúc nào cũng hết sức vui vẻ, sao bây giờ nàng bỗng dưng lại trở nên buồn tủi? Không lẽ … không lẽ trong lòng nàng cũng có đôi chút khắc khoải đến ta chăng?”. Chỉ thấy mắt nàng đưa qua phía phải, gặp ánh mắt chàng, Đoàn Dự lập tức tiến lên một bước toan hỏi: “Vương cô nương, cô có điều gì muốn nói ư?”. Thế nhưng ánh mắt Vương Ngữ Yên lại tiếp tục di chuyển, nhìn bâng khuâng về chốn xa xăm rồi lại quay về Mộ Dung Phục.
Tâm hồn Đoàn Dự trĩu hẳn xuống, khổ sở không đâu tả xiết: “Nàng chẳng phải không nhìn ta, mà so với không nhìn ta còn gấp mười lần. Mắt nàng tuy nhìn
ta nhưng chỉ là “thị nhi bất kiến”. Tuy mắt nàng để vào ta nhưng hình ảnh ta nào có vào được tim nàng. Nàng chỉ nghĩ đến biểu ca chứ Đoàn Dự này có chút nào ở trong tâm khảm nàng đâu! Ôi, thôi đi cho xong, chi bằng đi cho xong!”.
Ở bên kia Hư Trúc nghe lời chỉ điểm của Đoàn Diên Khánh, thấy bên đen dù đi cách nào cũng bị bên trắng ăn mất một mớ, còn như để hở ra thì quân trắng sẽ xung sát trùng vi, lúc đó sẽ không còn cách nào chống đỡ được nữa.
Tô Tinh Hà suy nghĩ một hồi, cười hì hì đặt thêm một quân đen. Đoàn Diên Khánh liền truyền âm: -Hạ thượng vị thất bát.
Hư Trúc theo đúng thế mà làm, tuy y hiểu biết về cờ rất nông cạn nhưng cũng biết là mình đặt quân cờ này xuống rồi là đã phá giải được thế Trân Lung, vỗ tay cười nói: -Xem chừng đã xong!
Tô Tinh Hà mặt rạng rỡ, chắp tay nói: -Tiểu thần tăng trời cho tài ba như thế, quả là đáng mừng.
Hư Trúc vội vàng hoàn lễ nói: -Không dám, không dám! Cái này không phải tiểu tăng …
Y vừa định thú thật là do sư bá tổ chỉ điểm, bỗng thấy có tiếng “truyền âm nhập mật” vào tai: -Bí mật này, bằng giá nào cũng không được tiết lộ. Hiểm cảnh chưa thoát đâu, càng phải cẩn thận hơn nữa.
Hư Trúc lại tưởng đó là do Huyền Nạn ra lệnh, bèn cúi đầu đáp: -Vâng! Vâng!
Tô Tinh Hà đứng thẳng dậy nói: -Tiên sư sắp đặt thế cờ này, mấy chục năm nay không ai giải được, nay tiểu thần tăng phá được thế Trân Lung, tại hạ cảm kích không đâu cho hết.
Hư Trúc không biết nguyên do bên trong, chỉ biết khiêm tốn đáp: -Tiểu tăng đi lăng nhăng toàn do trưởng bối thương tình, lão tiên sinh quá khen, quả thực hổ thẹn không dám nhận.
Tô Tinh Hà đi đến trước ba gian nhà gỗ, giơ tay mời khách nói: -Xin mời tiểu thần tăng bước vào.
Hư Trúc thấy ba gian nhà đó kiến trúc lạ lùng, lại không có cửa, không biết bảo vào là vào làm sao, cũng chẳng hiểu vào để làm gì, thành thử đứng ngẩn người ra, không biết thế nào cho phải. Lại nghe thanh âm kia bảo: -Thế cờ mở ra một con đường, chính là xung đột đấu tranh mà được.
Nhà không cửa, ngươi hãy dùng ngạnh công Thiếu Lâm phá ra. Hư Trúc nói: -Như vậy đành phải đắc tội.
Y xoạc cẳng xuống tấn, giơ tay phải lên, phát chưởng chém xuống vách gỗ. Hư Trúc võ công thấp kém, hôm đó bị Đinh Xuân Thu phất tay áo một cái đã ngã lăn ra, lập tức bị môn nhân phái Tinh Tú đè xuống bắt giữ, cũng nhờ thế nội lực không mất. Dưới mắt biết bao nhiêu cao thủ tại đương trường, chưởng
lực của y thật chẳng bõ cười, cũng may vách nhà không lấy gì làm kiên cố, chỉ nghe lách cách đã nứt ra một đường. Hư Trúc lại bổ thêm hai chưởng nữa, lúc đó mới đánh vỡ cánh cửa nhưng bàn tay cũng ê ẩm.
Nam Hải Ngạc Thần cười khằng khặc nói: -Ngạnh công của phái Thiếu Lâm thật dở ơi là dở.
Hư Trúc quay lại đáp: -Tiểu tăng là một đồ đệ chẳng đâu ra đâu của phái Thiếu Lâm, công phu nông cạn chứ không phải võ công phái Thiếu Lâm không ra gì.
Lại nghe thanh âm kia nói tiếp: -Mau mau vào đi, không được quay đầu lại,
cũng đừng để ý đến người ngoài.
Hư Trúc đáp: -Vâng!
Y hăng hái đi vào. Bỗng nghe Đinh Xuân Thu quát lên: -Đây là môn hộ của bản phái, một chú tiểu như ngươi sao dám bước vào?
Tiếp theo là hai tiếng bình bình thật lớn, Hư Trúc cảm thấy một luồng kình phong ập tới cuốn lấy y như muốn nhấc bổng người lên, kế đó là hai luồng đại lực thúc vào lưng và mông, không còn tự chủ được nữa người lộn tùng phèo, lăn vào bên trong.
Hư Trúc có biết đâu vừa mới chết đi sống lại, một đằng Đinh Xuân Thu phát chưởng đánh lén định giết y, mặt khác Cưu Ma Trí vận dụng Khống Hạc Công định chộp y kéo lại. Thế nhưng Đoàn Diên Khánh đã dùng ám kình từ đầu trượng tiêu giải chưởng của Đinh Xuân Thu, còn Tô Tinh Hà đang đứng giữa y và Cưu Ma Trí, đưa tay trái chặn Khống Hạc Công còn tay phải đánh luôn hai cái, đẩy Hư Trúc tọt vào trong nhà.
Hai luồng lực đạo đó thật cương mãnh, Hư Trúc phá vỡ một mảnh ván rồi, trán đụng bình một cái, lại va ngay vào một bức vách khác, đầu óc mịt mù, tưởng chừng muốn ngất đi, phải một lúc sau mới gượng đứng lên được, giơ tay xoa đầu thấy trán sưng u một cục lớn. Y thấy mình đang đứng trong một căn phòng trống không có một ai, đang định đi tìm cửa nhưng gian nhà đó kín mít như bưng, chỉ có mỗi cái lỗ mình vừa phá vỡ đi vào. Y đứng ngẩn ngơ, đang định theo cái lỗ đó chui trở ra.
Bỗng nghe từ vách phía bên kia một giọng nói già cả khẽ truyền qua: -Đã vào được đây, sao lại còn muốn đi ra?
Hư Trúc quay người lại nói: -Xin lão tiền bối chỉ lối cho.
Thanh âm kia nói tiếp: -Lối đi ngươi đã tự mình xông vào được, có cần gì phải ai chỉ. Ta sắp xếp bàn cờ đó, mấy chục năm qua không ai phá giải nổi, sau cùng hôm nay ngươi đã sách khai9 rồi, sao không vào đây.
Hư Trúc nghe thấy ông ta nói “ta sắp xếp bàn cờ đó” không khỏi nổi da gà, lập cập hỏi: -Ông … ông … ông …
Y đã nghe Tô Tinh Hà nhắc đi nhắc lại bàn cờ đó do “tiên sư” bày ra, thế giọng này là người hay ma đây? Lại nghe giọng nói tiếp: -Thời cơ chỉ vụt qua rồi mất, ta đợi đã ba mươi năm nay, chẳng còn thì giờ đâu mà đợi ngươi nữa! Này con ơi, mau vào đây thôi.
Hư Trúc nghe tiếng nói cực kỳ thân mật hiền từ, xem ra không có chút ác ý nào, chẳng suy nghĩ gì thêm, dùng đầu vai huých vào tấm vách, nghe lách cách một tiếng lớn, tấm vách đó lâu ngày cũng mục rồi nên lập tức vỡ ngay một miếng.
Hư Trúc đưa mắt nhìn không khỏi hoảng hốt, thấy bên trong cũng là một gian phòng trống nhưng có một người ngồi giữa lưng chừng trời. Ý niệm đầu tiên hiện ra là “có ma”, sợ quá toan quay mình bỏ chạy thì nghe người kia nói: -Ồ, thì ra là một chú tiểu! Ôi, lại là một chú tiểu mặt mày xấu xí!
Chán quá, chán quá, chán quá! Ôi! Chán quá, chán quá, chán quá!
Hư Trúc nghe ông thở dài liên tiếp ba lần, lại nói sáu câu “chán quá” nên đăm đăm nhìn ông ta, lúc ấy mới rõ, thì ra người ông ta treo bằng một sợi dây thừng đen, một đầu dây buộc vào sà ngang, nên mới lơ lửng giữa trời như thế. Chỉ vì bức tường đằng sau lưng ông ta tối om om, dây thừng lại sẫm màu trộn lẫn vào nhau nên không nhìn ra sợi dây, thoạt mới nhìn lại tưởng ông ta đang ngồi trên không.
Hư Trúc mặt mũi cũng hơi xấu trai, mày rậm mắt to, mũi huếch, hai tai đón gió, đôi môi dày, lại thêm mới va vào tường bị thương thành ra sách chiết sách chiêu chiết chiêu sách giải chiết giải nãi nhưng tam thiếu nãi tam thiếu nhưng lem luốc, quả cũng khó coi thật. Y mồ côi cha mẹ từ nhỏ, những nhà sư trong chùa Thiếu Lâm thương tình đem vào nuôi dưỡng, trong chùa nếu người nào không chuyên cần thanh tu thì cũng chăm lo luyện võ, chẳng một ai để ý xem y xấu hay đẹp. Người trong cửa Phật coi là thân thể chỉ là “cái túi da hôi thối”11 nếu còn để ý đến cái túi đó dễ coi hay không thì việc chứng đạo chỉ thêm vướng bận. Thành ra khi nghe người này bảo là “một chú tiểu mặt mày xấu xí” thì Hư Trúc cũng chỉ mới nghe lần đầu tiên.
Y len lén ngửng đầu lên nhìn người kia, thấy ông ta râu dài ba thước không có một sợi bạc nào, mặt như quan ngọc12, chẳng có chút vết nhăn, tuổi tác dĩ nhiên không còn trẻ nữa nhưng thần tình sảng lãng, phong độ nhàn nhã. Hư Trúc hơi cảm thấy sượng sùng nghĩ thầm: “Nói đến tướng mạo thì mình so với ông ta đúng là một trời một vực”. Khi đó trong lòng không còn sợ hãi gì nữa, y liền khom người hành lễ nói: -Tiểu tăng Hư Trúc xin bái kiến tiền bối. Người kia gật đầu hỏi: -Thế ngươi họ gì?
Hư Trúc sựng lại nói: -Người đã xuất gia không còn tên họ thế tục nữa.
Người kia hỏi lại: -Thế trước khi xuất gia thì ngươi tên họ là chi?
Hư Trúc đáp: -Tiểu tăng xuất gia từ nhỏ, xưa nay không có tên họ gì cả.
Người kia chăm chú nhìn y như để suy đoán, thở dài một tiếng nói: -Ngươi đã phá giải được thế cờ của ta ắt thông minh tài trí phải thật hơn người, nhưng tướng mạo thế kia, xem chừng không ổn, ôi, thật chán ngán thay. Ta xem rồi sau cùng nước lã ra sông, uổng tâm tư một đời lại chỉ làm ngươi bỏ mạng oan thôi. Này chú tiểu ơi, ta cho ngươi một lễ vật để ngươi đi khỏi đây nhé.
Hư Trúc nghe giọng điệu ông lão kia, xem chừng có một việc rất khó, không ai giúp mình nên lo phiền, tuy nhiên pháp môn thứ nhất của nhà Phật là “giúp chúng sinh qua cơn khổ ách” nên nói liền: -Kỳ đạo của tiểu tăng thực ra hết sức nông cạn, cuộc cờ của lão tiền bối chẳng phải do tiểu tăng sách giải đâu. Thế nhưng lão tiền bối nếu có chuyện gì phải làm, tiểu tăng tuy bản lãnh kém cỏi nhưng cũng nguyện hết sức cố gắng, còn như món quà thì tiểu tăng không dám nhận.
Ông lão kia nói: -Ngươi có bụng dạ hiệp nghĩa như thế, quả là hay lắm. Ngươi kỳ nghệ không cao, võ công thấp kém, cũng chẳng hề gì nhưng đã đến được đây, cũng là có duyên. Có điều … có điều … tướng mạo nhà ngươi sao khó coi quá.
Nói rồi ông ta lắc đầu quầy quậy. Hư Trúc mỉm cười nói: -Tướng mạo đẹp hay xấu cũng là do nghiệp báo từ khi vô thủy đến nay tụ lại mà thành, chính mình đã không làm chủ được, mà cả cha mẹ cũng đành chịu vậy mà thôi. Tiểu tăng xấu xí khiến cho tiền bối không vui, thôi xin cáo từ.
Nói xong lùi lại hai bước. Hư Trúc đang định quay đi thì ông lão kia nói: -Hãy khoan!
Tay áo của ông ta phất ra, để lên đầu vai phải của Hư Trúc. Thân hình y hơi trĩu xuống, thấy cánh tay áo đó chẳng khác gì cánh tay, giữ chặt lấy người. Ông lão cười: -Người tuổi trẻ mà có ngạo khí như thế, quả là hay lắm.
Hư Trúc đáp: -Tiểu tăng nào đám cuồng vọng kiêu ngạo, chỉ vì sợ lão tiền bối bực mình đấy thôi, cho nên cáo thoái sớm cho xong.
Ông già kia gật đầu hỏi thêm: -Ngày hôm nay đến đây giải thế cờ gồm có những ai?
Hư Trúc kể lại tất cả. Ông lão trầm ngâm một hồi nói: -Cao thủ trong thiên hạ, mười phần thì đến sáu bảy đến đây rồi. Thế Khô Vinh đại sư của họ Đoàn Đại Lý có đến không?
Hư Trúc đáp: -Ngoài tăng chúng trong tệ tự ra, người xuất gia chỉ có một mình Cưu Ma Trí đại sư thôi.
Ông lão kia lại hỏi: -Trong những năm gần đây võ lâm nghe nói có một gã tên Kiều Phong võ công rất khá, y có đến không? Hư Trúc đáp: -Không.
Ông già thở dài một tiếng, lẩm bẩm nói một mình: -Ta đã đợi bao nhiêu năm nay, nếu đợi thêm nữa, chắc gì đã gặp được người hoàn toàn đẹp đẽ cả bên ngoài lẫn bên trong. Thiên hạ bất như ý sự thường thất bát, thôi cũng đành như thế mà thôi.
Ông ta trầm ngâm một hồi, dường như tâm ý đã quyết nói: -Mới rồi ngươi có nói, thế cờ đó không phải ngươi sách giải, thế sao Tinh Hà lại đưa ngươi vào đây?
Hư Trúc đáp: -Quân thứ nhất cũng do tiểu tăng lớn mật không biết, nhắm mắt đặt bừa, còn những nước sau thì do tệ sư bá tổ pháp húy thượng Huyền hạ Nạn, dùng “truyền âm nhập mật” bí mật chỉ điểm.
Nói rồi đem tình hình phá giải thế cờ ra sao kể lại một lượt. Ông lão thở dài: – Quả là ý trời! Quả là ý trời!
Đột nhiên khuôn mặt đang buồn trở nên rạng rỡ, cười nói: -Nếu đã là ý trời định như thế, ngươi nhắm mắt đặt bừa mà giải được thế cờ của ta, đủ biết phúc duyên thâm hậu, có thể lo việc đại sự cho ta cũng chưa biết chừng. Hay lắm, hay lắm, hay lắm! Con ngoan ơi, ngươi quì xuống khấu đầu đi.
Hư Trúc từ bé lớn lên trong chùa Thiếu Lâm, ngày ngày nếu không gặp sư phụ thì cũng sư thúc sư bÿ, có khi sư bá tổ, sư thúc tổ các loại trưởng bối, đến ngay cùng hàng với mình, những sư huynh tuổi tác lớn hơn, võ công cao hơn cũng biết bao nhiêu, xưa nay phục tòng đã quen.
Đệ tử nhà Phật tập luyện tính khiêm tốn cho nên khi nghe ông lão bảo y rập đầu, tuy không hiểu vì lý do tại sao, nhưng nghĩ bụng người này là tiền bối trong võ lâm, có lạy ông ta mấy cái cũng là chuyện đương nhiên, cho nên cung kính quỳ xuống cộp cộp cộp cộp rập đầu bốn cái liền. Y vừa định đứng lên thì người kia lại nói: -Thêm năm cái nữa, đó là qui củ bản môn. Hư Trúc đáp liền: -Vâng!
Rồi y lại rập đầu thêm năm lần nữa. Ông lão nói: -Con ngoan lắm! Con ngoan lắm! Lại đây!
Hư Trúc đứng lên đến trước mặt ông ta. Ông lão nắm cổ tay y, nhìn y từ đầu đến chân đánh giá. Đột nhiên Hư Trúc thấy mạch môn nóng lên, một luồng nội lực theo cánh tay chạy lên, nhanh nhẹn dị thường đi thẳng vào tim, tự nhiên không định mà dùng Thiếu Lâm tâm pháp kháng cự lại. Nội lực của ông lão liền quay trở ra, trở lại bình thường. Hư Trúc biết rằng ông già thử xem mình nội lực nông sâu bực nào, không khỏi mặt đỏ tía tai, ngượng ngập nói: -Tiểu tăng bình thời hay đọc kinh Phật, lại ham vui chơi, không chăm chỉ tập luyện nội công sư phụ truyền thụ chẳng bõ làm trò cười cho tiền bối.
Ngờ đâu ông lão lại cực kỳ hoan hỉ, cười nói: -Tốt lắm! Tốt lắm! Nội công phái Thiếu Lâm ngươi tập rất ít nên cũng đỡ mất công cho ta.
Ông ta nói xong Hư Trúc thấy toàn thân mềm ra, tưởng như đang trầm mình tắm trong một dòng suối ấm, nhiệt khí theo lỗ chân lông mà bốc hơi, cảm thấy hết sức khoan khoái. Chỉ trong chốc lát, ông lão đã buông tay y ra, cười nói: – Xong rồi! Ta đã dùng Bắc Minh Thần Công của bản môn hóa tán hết nội lực Thiếu Lâm của ngươi đó.
Đoàn Dự hoảng hốt, kêu lên: -Cái … cái gì?
Y nhảy nhổm lên nhưng khi rơi xuống đất hai đầu gối mềm oặt, ngồi phệt xuống đất, bao nhiêu khớp xương rã rời, đầu óc choáng váng, trời đất quay cuồng, biết là ông già nói không sai, trong lòng thảng thốt, nước mắt dàn dụa, khóc òa lên: -Tôi … tôi … tôi với ông có thù oán gì đâu, cũng đâu có làm gì đắc tội, sao ông nỡ lòng nào hại tôi như thế?
Người kia mỉm cười: -sao ngươi lại ăn nói vô phép như vậy? Đã không gọi “sư phụ” lại gì mà “tôi” với “ông”, chẳng có qui củ gì cả.
Hư Trúc kinh hoàng lắp bắp: -Cái gì? sao ông lại là sư phụ của tôi?
Người kia nói: -Ngươi vừa mới rập đầu lạy ta chín cái, đó chính là lễ bái sư đó. Hư Trúc kêu lên: -Không! Không! Tôi là đệ tử Thiếu Lâm, làm sao có thể bái ông làm thầy được? Cái môn tà thuật hại người của ông, tôi nhất định không học đâu.
Nói xong y gắng gượng đứng lên. Người kia cười: -Có thực ngươi không học hay không?
Hay tay vung lên, tay áo bay ra, chộp vào đầu vai Hư Trúc. Hư Trúc thấy đầu vai nặng chịch, không cách nào vùng lên được, hai đầu gối lại nhuyễn ra ngồi phịch xuống, mồm kêu toáng lên: -Ông có đánh chết tôi, tôi cũng không học.
Người kia cười ha hả, đột nhiên thân hình bay tung lên, lộn một vòng trên không, chiếc khăn vuông trên đầu bay vào một góc nha, chân trái đạp vào xà ngang một cái rơi xuống, đầu ông ta trúng ngay đầu Hư Trúc, hai thiên linh cái đụng nhau. Hư Trúc sợ quá lập cập hỏi: -Ông … ông làm gì thế?
Y cố sức lắc đầu, định hất ông ta ra. Thế nhưng tưởng như đầu ông lão có đinh đóng chặt vào đầu Hư Trúc, dù có vùng vằng thế nào chăng nữa vẫn không cách nào thoát ra được. Đầu Hư Trúc lắc qua hướng đông thì cả thân hình ông ta nghiêng qua hướng đông, Hư Trúc lắc qua hướng tây thì ông ta lại nghiêng về hướng tây, cả hai người liền thành một lắc lư qua lại không ngớt.
Hư Trúc càng thêm khủng khiếp, đưa hai tay ra, cố đẩy tay trái, tay phải thì nắm lấy định đẩy đầu ông ta ra khỏi đầu mình. Thế nhưng vừa đẩy một cái đã thấy tay mình mềm oặt như bông không có một chút khí lực nào, càng thêm bồn chồn: “Bị trúng phải tà thuật của lão ta rồi, không những võ công mất sạch, xem chừng đến mặc áo ăn cơm cũng chẳng còn hơi sức, từ nay mình đã tê liệt, thành người tàn phế, biết làm sao đây?’. Y càng thêm kinh hoàng thất
tán, mở miệng kêu gào, bỗng thấy từ trên huyệt Bách Hội nơi đỉnh đầu một sợi nhiệt khí đi thẳng vào trong óc, miệng kêu không ra tiếng, nghĩ thầm: “Hỏng rồi! Chắc mình mất mạng”.
Chỉ thấy óc càng lúc càng nóng, rồi thì mơ mơ như muốn căng lên, tưởng như muốn bốc thành ngọn lửa, luồng nhiệt khí từ trên đi thẳng xuống, chẳng mấy chốc đã chịu không nổi, ngất đi.
Y thấy người nhẹ nhàng bay bổng tưởng chừng đang đằng vân giá vụ, lang thang trên không, rồi bỗng nhiên thân trên lạnh buốt, tưởng như rơi vào biển khơi, đùa dỡn với bầy cá, có lúc lại đang ở trong chùa đọc kinh, có khi lại đang khổ luyện võ nghệ, nhưng luyện đi luyện lại mãi chưa được. Còn đang hoang mang, bỗng thấy trời đổ mưa rào, từng giọt từng giọt rơi đầy người, nhưng những giọt mưa cũng nóng hổi.
Khi đó Hư Trúc cũng đã hơi tỉnh lại, mở mắt ra thấy ông già đó mặt, cổ, chân tóc chỗ nào cũng có mồ hôi toát ra đầm đìa không ngớt rơi tong tỏng lên người y. Hư Trúc cũng thấy mình đã nằm gục dưới đất, ông lão thì ngồi một bên nhưng đầu hai người không còn dính với nhau nữa. Hư Trúc ngồi dậy nói: -Ông … ông …
Chỉ nói được hai tiếng “ông”, chợt giật mình kinh dị, thấy ông lão bây giờ biến đổi hẳn, khuôn mặt trắng trẻo đẹp đẽ mới rồi, bây giờ nhăn nheo đầy vết ngang dọc, mái tóc dài đã rụng hết, còn bộ râu trước kia đen nhánh thì nay bạc trắng. Ý niệm đầu tiên của Hư Trúc là: “Ta ngất đi đã bao nhiêu năm rồi? Ba mươi năm chăng? Hay năm mươi năm? sao người này bỗng nhiên già đi đến vài mươi tuổi?”. Ông lão trước mắt giờ đây hom hem lụ khụ, nếu không phải một trăm hai mươi tuổi thì cũng phải một trăm.
Ông già kia đôi mắt lờ đờ, cố hết sức nở một nụ cười nói: -Việc lớn đã xong! Con ngoan ơi, ngươi phúc trạch thâm hậu, vượt quá kỳ vọng của ta nhiều, người đánh thử một chưởng vào bức vách trống kia xem nào!
Hư Trúc không hiểu ra sao, y lời đánh ra một chưởng, chỉ nghe lách cách, mảng tường lớn vỡ tung đến một nửa, thật nếu y dùng hết sức lao vào đến mươi lần cũng chưa bằng. Hư Trúc kinh hãi đến ngẩn người, ấp úng: -Cái … cái đó là vì sao thế?
Ông lão mặt rạng rỡ, hết sức hoan hỉ, cũng hỏi lại: -Cái … cái đó là vì sao thế? Hư Trúc hoang mang: -sao bỗng nhiên … bỗng nhiên tiểu tăng có lực đạo mạnh đến thế?
Ông già mỉm cười: -Ngươi chưa được học chưởng pháp của bản môn cho nên lực đạo sử dụng chưa được tới một thành. Hơn bảy mươi năm cần tu khổ luyện của sư phụ ngươi không lẽ tầm thường?
Hư Trúc nhảy bật dậy, biết rằng có điều gì không ổn, kêu lên: -Ông … ông …
cái gì mà hơn bảy mươi năm cần tu khổ luyện?
Ông lão vẫn mỉm cười: -Không lẽ đến giờ này ngươi chưa hiểu rõ hay sao?
Thực chăng hay là không dám nghĩ đến?
Hư Trúc dường như mang máng hiểu câu nói của ông già, có điều việc xảy ra quá đột ngột, quả không bao giờ ngờ tới, không ai tin nổi, khép nép nói: -Lão tiền bối truyền một môn thần công … một môn thần công cho tiểu tăng ư? Ông lão vẫn mỉm cười: -sao ngươi chưa gọi ta là sư phụ?
Hư Trúc cúi đầu đáp: -Tiểu tăng là đệ tử phái Thiếu Lâm, không thể khi tổ diệt tông, đổi qua phái khác.
Ông lão nói: -Trong người ngươi không có chút xíu công phu Thiếu Lâm nào, sao lại còn là đệ tử Thiếu Lâm được? Trong người ngươi súc tích hơn bảy mươi năm thần công phái Tiêu Dao, sao lại không phải là đệ tử bản phái?
Hư Trúc xưa nay chưa từng nghe nói đến phái Tiêu Dao, hoang mang hỏi lại: – Phái Tiêu Dao ư?
Ông lão mỉm cười: -Thừa thiên địa chi chính, ngự lục khí chi biện, dĩ du ư vô cùng, thị vi tiêu dao. Ngươi nhảy lên thử xem nào?
Hư Trúc nổi dạ hiếu kỳ, hai đầu gối cong lại, nhún chân một cái, nhẹ nhàng nhảy lên. Đột nhiên nghe bình một tiếng, đỉnh đầu đau nhói, mắt sáng lòa, một nửa người đã xuyên qua nóc nhà mà vẫn tiếp tục bay lên, vội vàng đưa tay giữ mái nhà ghìm lại, rơi trở xuống đất, còn nhảy tưng tưng mấy bận, lúc ấy mới ngừng lại được. Khinh công như thế quả là không dám nghĩ tới, trong nhất thời đã không vui mừng lại đâm ra sợ hãi. Ông lão nói: -Thấy thế nào?
Hư Trúc đáp: -Tiểu tăng … tiểu tăng bị ma làm chăng?
Ông lão nói: -Ngươi cứ bình thản ngồi xuống, nghe ta kể hết nguyên nhân. Thời khắc không còn nhiều, chỉ nói những gì quan trọng. Nếu như ngươi không bằng lòng gọi ta là thầy, không muốn đổi tông phái thì ta cũng không ép ngươi được. Tiểu sư phụ, ta cầu ngươi giúp ta một điều, thay ta làm một chuyện, ngươi có bằng lòng không?
Hư Trúc xưa nay vẫn thích giúp người, nhà Phật tu theo lục độ, đứng đầu là bố thí, thế nhân có nạn phải hết sức giúp đỡ bèn nói: -Tiền bối đã sai bảo ắt tiểu tăng sẽ kiệt lực mà làm.
Câu đó vừa nói ra, bỗng y chợt nghĩ công phu của ông lão này dường như yêu tà của tả đạo, nên lại tiếp theo: -Thế nhưng nếu tiền bối sai tiểu tăng làm chuyện sai quấy thì sẽ không thể tòng mệnh đâu.
Ông lão kia trên mặt nụ cười gượng gạo hỏi lại: -Thế ngươi nghĩ thế nào là chuyện sai quấy?
Hư Trúc chựng lại đáp: -Tiểu tăng là đệ tử cửa Phật, những điều làm tổn hại
đến người khác thì nhất quyết không làm.
Ông già lại hỏi: -Nếu như trên đời này có kẻ kia chuyên làm điều tổn hại người khác, những chuyện sai quấy, giết người không gớm tay, ta sai ngươi đi tiêu diệt kẻ đó, ngươi có bằng lòng không?
Hư Trúc đáp: -Tiểu tăng sẽ hết lời khuyên y trở về đường ngay nẻo chánh.
Ông lão lại hỏi: -Thế nhưng nếu chấp mê không nghe thì sao?
Hư Trúc ưỡn ngực nói: -Phục ma trừ hại, đó là điều đương nhiên phải làm của chúng ta, có điều tiểu tăng tài nghệ nông cạn, e rằng không gánh vác nổi trọng nhiệm đó.
Ông lão nói: -Thế có nghĩa là ngươi bằng lòng chứ gì?
Hư Trúc gật đầu nói: -Tiểu tăng bằng lòng.
Ông già ra chiều vui sướng nói: -Hay lắm! Hay lắm! Ta muốn ngươi đi giết một người, một kẻ đại đại ác, chính là đệ tử của ta Đinh Xuân Thu, hiện nay trong võ lâm gọi là Tinh Tú Lão Quái đó.
Hư Trúc thở phào một hơi, tưởng như trút được gánh nặng. Y chính mắt thấy Tinh Tú Lão Quái chỉ một câu đã giết mười người phu xe, quả là đại ác, chính sư bá tổ Huyền Nạn cũng bị y dùng tà thuật hóa tán hết nội lực, liền đáp: -Trừ khử Tinh Tú Lão Quái quả là công đức vô lượng, có điều tiểu tăng công phu nhỏ bé, làm sao có thể …
Nói đến đây y nhìn ông già, bốn mắt chạm nhau, thấy ông dường như có ý diễu cợt, lập tức nghĩ ra: “Công phu nhỏ bé” xem chừng không đúng nên im bặt. Ông lão nói: -Cái công phu nhỏ bé mà ngươi đang có, không kém gì Tinh Tú Lão Quái đâu, có điều muốn trừ diệt y quả là chưa đủ, thế nhưng ngươi chớ lo lắng, lão phu đã sắp đặt cả rồi.
Hư Trúc đáp: -Tiểu tăng từng nghe Tiết Mộ Hoa thí chủ nói về những chuyện ác của Đinh … Đinh thí chủ biển Tinh Tú, bảo là tiền bối đã bị ông ta hại rồi, ngờ đâu lão tiền bối vẫn còn ở trên trần thế, quả … quả là hay lắm, hay lắm!
Ông lão thở dài nói: -Năm xưa tên nghịch đồ đó đột nhiên giở chứng, đánh ta rơi vào thâm cốc, tưởng ta đã táng mạng rồi. Cũng may người học trò lớn của ta là Tô Tinh Hà giả câm giả điếc, có thế mới che giấu được tai mắt tên phản phúc kia, ta mới giữ được chút hơi tàn, sống thêm ba mươi năm. Tư chất của Tinh Hà cũng không phải dở đâu, có điều bị ta dẫn vào ngã rẽ, phân tâm tập luyện bàng vụ, đi học cầm kỳ thư họa những trò vui chơi nhàn nhã nên võ công thượng thừa của ta y không sao học nổi.
Trong ba mươi năm nay ta ngong ngóng một đứa học trò thông minh mà lại chuyên tâm học hỏi để truyền lại võ học cả một đời, sai đi tru diệt Đinh Xuân Thu. Thế nhưng cơ duyên không dễ gặp, người thông minh mà bản tính chẳng ra gì, không chừng lại rơi vào vết xe đổ, dưỡng hổ di hoạn; còn người tính tình
tốt thì ngộ tính lại chẳng đủ. Đến lúc này ta xem chừng đã tận tuổi trời rồi, không còn chờ thêm được nữa, nên đành phải công bố cho thiên hạ bàn cờ Trân Lung năm xưa ta bày ra để tìm người tài tuấn. Đại hạn của ta đã đến rồi, không còn thì giờ truyền thụ võ công thành thử đứa quan môn đệ tử của ta ắt phải là một người trẻ tuổi thông minh tuấn tú.
Hư Trúc nghe ông ta nói đến “thông minh tuấn tú”, nghĩ thầm mình tư chất đã chẳng thông minh, còn tuấn tú thì khỏi cần nói đến làm gì, nên ngượng ngập nói: -Những người tuấn nhã trên đời có biết bao nhiêu, ngay bên ngoài kia cũng có hai người, một là Mộ Dung công tử, còn một vị là công tử họ Đoàn. Tiểu tăng đi ra mời hai người đó vào hội kiến với tiền bối được chăng?
Ông lão cười khẩy một tiếng nói: -Ta nghịch vận Bắc Minh Thần Công đem hơn bảy mươi năm công phu tu tập, trút vào cho ngươi cả rồi, làm sao còn truyền thụ cho người thứ hai được nữa?
Hư Trúc hoảng hốt nói: -Có thật là tiền bối … tiền bối đem công lực cả đời truyền vào tiểu tăng không? Lẽ … lẽ nào …
Ông lão nói: -Chuyện này đối với ngươi là họa hay phúc, lúc này thật khó nói. Võ công cao cường chắc gì đã là phúc, trên thế gian những người không biết chút võ công nào, không lo không sầu, bớt tranh cạnh thì chẳng phải cũng bớt phiền não hay sao? Nếu như năm xưa ta chỉ học cầm, học kỳ, học thư, học họa mà chẳng nghiên cứu những môn võ học thì đời ta ắt khoái hoạt hơn nhiều.
Ông nói tới đây thở dài một tiếng, ngẩng đầu nhìn qua lỗ hổng trên mái nhà mà Hư Trúc đã đụng vỡ, dường như đang nhớ lại rất nhiều chuyện đã qua, một lúc sau mới nói: -Hảo hài tử, Đinh Xuân Thu vẫn tưởng ta đã chết dưới tay y rồi nên không kiêng nể gì ai nữa. Còn bức tranh đây, bên trên vẽ nơi ta ngày xưa hưởng thanh phúc ở núi Vô Lượng nước Đại Lý, là chỗ ngươi tìm võ học điển tịch ta tàng trữ, theo đúng thế mà luyện tập thì võ công sẽ chẳng kém gì Đinh Xuân Thu. Có điều tư chất ngươi dường như không tốt lắm, tu tập võ công bản môn, chỉ sợ có nhiều chỗ ngắc ngứ, có thể gặp khó khăn hung hiểm không chừng.
Vậy ngươi phải đi cầu một người đàn bà ở thạch động trong núi Vô Lượng chỉ điểm cho. Bà ta thấy ngươi tướng mạo không đẹp, chắc là không chịu dạy đâu, nhưng xin bà ta hãy nghĩ đến ta … khục … khục … Ông ta nói đến đây thì ho sù sụ, thở chẳng ra hơi, lấy trong người một quyển trục nho nhỏ nhét vào tay Hư Trúc. Hư Trúc không khứng chịu, dùng dằng nói: -Tiểu tăng học nghệ chưa thành, lần này theo lệnh thầy xuống núi đưa thư, phải trở về núi ngay để phục mệnh, từ nay về sau có gì cũng phải theo sư mệnh mà làm. Nếu như phương trượng bản tự và nghiệp sư không bằng lòng, thì không thể nào
tuân theo lời dặn dò của tiền bối được.
Ông lão gượng nở một nụ cười nói: -Nếu quả đó là thiên ý muốn cho kẻ ác tự tung tự tác, thì cũng chẳng còn cách nào hơn, ngươi … ngươi …
Ông ta nói được hai chữ “ngươi” bỗng toàn thân run rẩy, từ từ gục người xuống, hai tay chống dưới đất, tưởng chừng như sắp tắt thở rồi. Hư Trúc hoảng hốt vội vàng đưa tay đỡ hỏi: -Lão … lão tiền bối sao thế?
Ông già đáp: -Hơn bảy mươi năm tu luyện của ta truyền hết cho ngươi rồi, hôm nay mệnh đã hết. Này con, ngươi nhất định không chịu gọi ta bằng “sư phụ” ư?
Ông ta nói tới đây thì hổn hển dường như sắp chết. Hư Trúc nhìn ánh mắt van xin của ông lão thật đáng thương, nẫu cả ruột buột miệng kêu lên: -Sư phụ! Ông lão mừng quá, cố sức tháo trên ngón tay bên trái ra một chiếc nhẫn bằng bảo thạch, muốn đeo vào tay cho Hư Trúc, có điều lực khí hao kiệt, đến nắm cổ tay Hư Trúc cũng không xong. Hư Trúc vội kêu lên: -Sư phụ!
Rồi cầm chiếc nhẫn đeo luôn vào ngón tay mình. Ông lão phều phào: -Ngoan
… con ngoan lắm! Con là đệ tử thứ ba của ta, nếu gặp Tô Tinh Hà thì gọi y …
gọi y là đại sư ca. Con họ gì?
Hư Trúc đáp: -Con quả thực không biết.
Ông lão thở dài: -Tiếc thay mặt mũi con không được dễ coi, rồi đây sẽ gặp nhiều chuyện rắc rối, có điều con là chưởng môn phái Tiêu Dao, người đàn bà ấy không dám vi kháng mệnh lệnh của con đâu, tốt lắm, tốt lắm … Ông ta càng nói thanh âm càng nhỏ, tới câu “tốt lắm” thứ hai thì chỉ còn mong manh như tơ, nghe không rõ, đột nhiên cười ha ha mấy tiếng, người bổ nhào về trước, nghe bình một tiếng, trán đập xuống đất, rồi không động đậy gì nữa.
Hư Trúc vội vàng đỡ ông ta lên, đưa tay thăm dò thì đã tắt thở, vội vàng chắp tay niệm Phật: -Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật! Nguyện cầu Phật A Di Đà, Quan Thế Âm bồ tát, Đại Thế Chí bồ tát tiếp dẫn lão tiên sinh vãng sinh thế giới tây phương cực lạc.
Y ở với ông lão này chưa đầy một giờ, đúng ra chẳng có bao nhiêu tình nghĩa, thế nhưng trong người nhận hơn bảy mươi năm công lực của ông ta, ngấm ngầm cảm thấy ông lão đối với mình thân cận hơn bất cứ ai khác, nói đúng ra, một phần của ông ta đã biến thành con người mình, đột nhiên trong lòng buồn bã, khóc òa lên.
Y khóc một lúc rồi mới quì xuống, hướng về di thể của ông lão lạy mấy lạy, lẩm nhẩm khấn: -Lão tiền bối, tiểu tăng giả vờ gọi ông là sư phụ đấy thôi, xin ông đừng coi là thật. Ông tâm thần nếu không mê muội xin đừng trách tôi.
Khấn xong rồi, y mới quay lại theo lỗ hổng đã phá ban nãy chui ra, nhảy nhẹ một cái, đã vượt qua hai lần vách đến bên ngoài.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.