Thoát Khỏi Ung Thư
CHƯƠNG 2 MÔI TRƯỜNG UNG THƯ
“Nhiều người thà chết còn hơn suy nghĩ. Thực tế họ làm vậy.”
RALPH WALDO EMERSON
“Biện pháp cứu chữa chưa được phê duyệt”
Quốc hội Hoa Kỳ ủy nhiệm cho Văn phòng Đánh giá Công nghệ phân tích tất cả các công bố nghiên cứu y học đáng được tặng thưởng. Sau khi xem xét cẩn thận những nghiên cứu từ các tạp chí y tế hàng đầu, họ kết luận rằng “… hơn 75% toàn bộ các công bố nghiên cứu y học [chính thống] được thống kê có những kết luận thiếu căn cứ và không thể xác minh được”.
Trong 70 năm qua, hàng trăm phương pháp điều trị thành công ung thư đã được tìm ra. Có thể tìm thấy thông tin về một số trong đó ở Chương 5 và 7. Bạn có thấy lạ không khi biết những phương pháp đó hiện vẫn trong danh mục “Những phương pháp cứu chữa chưa được phê duyệt” lưu giữ ở Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (American Cancer Society – ACS)?
Có lô-gíc không nếu ít nhất một trong số đó được nghiên cứu đầy đủ, điều tra và tìm một vài ứng dụng cho chí ít vài nạn nhân ung thư? Có dị thường không khi từng phương pháp trong số đó vẫn bị dán mác “chưa phê duyệt”, cho dù hàng chục năm đã qua đi từ khi phát hiện ra chúng?
Tệ hơn. Không chỉ “hệ thống” ung thư của chúng ta không chứng minh và chấp thuận những phương pháp cứu chữa ấy, mà những người phát hiện ra (tất cả đều là bác sĩ và nhà nghiên cứu uy tín) đã bị săn đuổi bởi kiện tụng, treo bằng và thậm chí bị xử phạt tù vì chữa thành công cho bệnh nhân ung thư. Nhiều người đã rời đất nước hoặc sống ẩn dật hoặc thậm chí tự vẫn.
Những phương pháp đó có gì chung? Chúng không được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA – Food and Drug Administration) cho phép điều trị bất cứ “bệnh” nào và không được công bố rộng rãi. Tất cả đều là chất tự nhiên, không tổng hợp. Vài thứ có giấy phép độc quyền nhãn hiệu, cũng giống như tân dược. Nhưng chúng không được trải qua quá trình thử nghiệm “lâm sàng”, cái này rồi bạn sẽ thấy, thật là tồi tệ.
Hơn nữa, nước Mỹ dùng hàng nghìn nhân công và nhiềutrăm tỉ đô-la tiền của chính phủ (của chúng ta) vào nghiên cứu ung thư chỉ từ khi “Cuộc chiến ung thư” bắt đầu năm 1971. Tính theo tuổi và mức tăng dân số thì tỉ lệ tử vong ung thư trên 100.000 người ở Mỹ ngày nay cao hơn nhiều so với hồi 1971.
Công ty dược \$\$\$\$
Bạn chỉ có thể hiểu được “hệ thống” điều trị ung thư ở Mỹ và ở mức độ nhiều hơn hay ít hơn, so với các nước khác, nếu bạn biết các công ty dược sử dụng quyền lực lớn ra sao trong nền văn minh của chúng ta. Tất cả thuốc dùng trong điều trị ung thư được sản xuất và bán cho “hóa trị”. Điều đó có nghĩa là gì khi thuốc tổng hợp được pha trộn và thử nghiệm qua nhiều năm (điển hình khoảng 10 năm). Quá trình này tiêu tốn vào khoảng 200 đến 500 triệu đô-la.
Liệu pháp gen và vaccine hệ thống miễn dịch đã được nghiên cứu nhiều năm. Chúng cũng cần phải được thử nghiệm qua hệ thống đắt tiền khủng khiếp này. Có rất nhiều cách tăng cường hệ miễn dịch một cách tự nhiên có hiệu quả chống ung thư. Luật Mỹ cấm không cho quảng cáo chúng như các phương pháp điều trị ung thư hay bất cứ “bệnh” nào khác.
Tại sao không để các biện pháp “tự nhiên” cùng tồn tại để mọi người có thể tự chọn lựa? Cái đó xem ra lô-gíc, nhưng luật tiểu bang và liên bang ở Mỹ và nước khác lại cấm. Hiện tại, dưới luật liên bang Hoa Kỳ, không chất tự nhiên nào được quảng cáo để cứu chữa bất cứ bệnh – giai đoạn nào. Các công ty từng rất thành công trong điều trị ung thư phải đóng cửa do bị FDA(1) kiện với sự hỗ trợ kín đáo của các công ty dược phẩm. Đấy là môi trường bạn cần phải học để tồn tại (hoặc không đếm xỉa tới!).
Một ví dụ tồi tệ
Ngày 12 tháng 7 năm 2004 Công ty Lane Labs (nhà phân phối MGN-3, Skin Answer và Sụn Cá Mập ở Mỹ) bị ra lệnh không chỉ phải đóng cửa, mà còn phải hoàn trả tất cả tiền cho những khách hàng mua sản phẩm của họ từ năm 1999 theo một phán xử liên bang ở New Jersey. Trong năm năm từ khi FDA bắt đầu săn đuổi thì Công ty Lane Labs đã phát triển thành công ty với doanh thu 30 triệu đô-la/năm. Sản phẩm của họ đã chữa nhiều loại ung thư các loại cho hàng chục độc giả của tôi.
Tập đoàn dược tiếp quản Châu Âu
Vào ngày 13 tháng 3 năm 2002, Quốc hội châu Âu – cơ quan lập pháp đại diện cho 15 nước thuộc Cộng đồng châu Âu – đã thông qua “Chỉ dẫn EU về chế độ ăn thực phẩm bổ sung”. Việc này dựa trên một hội đồng của Liên hợp quốc gọi là “Hội đồng luật Bổ dưỡng”, hình thành từ 1963.
Hội đồng này của EU có mục đích vô thưởng vô phạt là tiêu chuẩn hóa sản xuất thực phẩm trong tất cả các nước thuộc Liên hợp quốc (UN). Năm 1995, Big Pharma(2) đã thành công trong việc núp dưới bóng cái ô Hội đồng này nhờ EU đã mở rộng phạm vi bao trùm sang cả thực phẩm bổ sung. Hiện nay, nhiều nhân vật cao cấp của các công ty dược nắm vị trí ảnh hưởng trong Quốc hội EU, và thế là họ đã cơ bản “thông qua một luật chống phòng bệnh”.
Kết quả là làm cho 300 thực phẩm bổ sung – kể cả crôm pi-cô-lin C6H7N, men, li-zin, xê-len và thậm chí cả stevia (thảo dược ngọt) – trở thành bất hợp pháp khi bán không đơn. Các chất bổ sung khác còn lại trong cửa hiệu có liều lượng rất thấp. Ví dụ, liều vitamine C cao nhất bán không đơn là 100 mg.
Việc này có đến nước Mỹ không?
FDA, kẻ bợ đỡ Big Pharma, đã cố gắng nhiều lần trong chín năm qua để thực hiện các hạn chế tương tự ở Mỹ. Nó bất chấp Đạo luật về chế độ ăn bổ sung và giáo dục sức khỏe (DSHEA – Dietary Supplement and Health Education Act) được Quốc hội thông qua năm 1994 để ngăn chặn nỗ lực níu kéo của FDA về việc này. DSHEA phân loại thực phẩm bổ sung là thức ăn và cho phép các nhà sản xuất thông báo cho công chúng về thực phẩm bổ sung tác động thế nào lên “cấu trúc và chức năng” của cơ thể. Tất nhiên là FDA đã đưa ra rất nhiều hạn chế về việc này trong những năm tiếp theo. Thực tế, Công ty Lane Labs (xem ở trên) thấy họ đã theo những điều khoản của luật này từng li từng tí. Rõ ràng là Công ty Lane Labs đã quá thành công và Big Pharma đã gây áp lực với FDA để bắt họ phải đóng cửa.
Tiếp thị thuốc
Tiếp thị thuốc độc nằm ở trung tâm “cuộc chiến ung thư”. Ví dụ, theo một nghiên cứu, chi phí thuốc chiếm 55% tổng chi phí điều trị ung thư phổi tế bào – nhỏ.
Một bài viết trên tạp chí của Hiệp hội Y học Mỹ (Journal ofAmerican Medical Association JAMA) gần đây công bố bác sĩ ung thư kiếm trung bình 253 ngàn đô-la mỗi năm, trong đó 75% là lợi nhuận từ thuốc dùng trong hóa trị được thực hiện tại các phòng khám của họ. Việc thực hiện kê đơn thuốc tại các phòng khám là của các bác sĩ ung thư và hiển nhiên họ rất có lợi.
Nếu bạn còn nghi ngờ về sự có mặt của các công ty dược khắp nơi trong cuộc sống của chúng ta, thì những gì bạn phải làm chỉ là bật TV lên. Dường như các loại thuốc được quảng cáo tràn lan. Cái gì đang diễn ra ở đây thế?
Năm 1997, lần đầu tiên nước Mỹ hợp pháp hóa cho các công ty dược quảng cáo lặp đi lặp lại hàng của họ trực tiếp đến người tiêu dùng (bạn và tôi). Trong những năm sau đó, tiêu tiền quảng cáo trên TV và in quảng cáo của Big Pharma tại nước Mỹ đã tăng vọt. Loại hình quảng cáo này hiện vẫn không hợp pháp ở châu Âu, Úc và New Zealand.
Bạn có tin nổi chỉ trong năm 2001, các công ty dược đã tiêu 15,7 tỉ đô-la trên TV và in quảng cáo cho đơn thuốc? Chi phí này nhiều hơn bất cứ ngành nào khác dùng cho quảng cáo. Nhiều hơn ngành ô-tô, ngành xây dựng, cả những gã bán lẻ khổng lồ như Wal-Mart và v.v…
Tạo sao? Vâng, khá hiển nhiên. Tiếp tục tẩy não công chúng Mỹ. Có vấn đề gì chăng? Một đơn thuốc của bác sĩ là tất cả những gì bạn cần kiếm. Không cần phải lo cho những người đang lên mặt đạo đức giục bạn ăn hợp lý và tập luyện. Chỉ ghi sơ tên loại thuốc mới nhất cũng tiêu tốn 500 triệu đô-la của một trong các công ty dược quốc tế, ví dụ như Briston-Myers Squibb, Merck,… để mang nó ra thị trường và sau đó mê hoặc bác sĩ kê đơn thuốc cho bạn. 12% đơn thuốc được kê trên đất Mỹ là theo kiểu này.
Cũng quan trọng như cường điệu, quảng cáo trực tiếp cósức ảnh hưởng không thể tin nổi trong việc đưa công chúng tiến gần đến sản phẩm của họ, việc chi tiêu khác thường này mang cho các công ty dược phương tiện truyền thông đại chúng. Tại sao, truyền thông dễ dàng bỏ qua những tác dụng phụ khó chịu hoặc thậm chí tai hại của thuốc kê theo đơn? Những tác dụng phụ này là nguyên nhân chính thứ tư dẫn đến tử vong ở Mỹ – ngay sau ung thư, tim mạch và đột quỵ. 10.000 người Mỹ chết mỗi tháng do việc dùng chính xác thuốc họ được kê đơn. Điều này đã được bỏ qua hơn 30 năm rồi.
Nước Mỹ đã chi 1,8 NGHÌN TỈ ĐÔ-LA cho chăm sóc sức khỏe năm 2005. Có thể bạn nghĩ phần lớn số tiền đó được chi cho thăm khám ở bệnh viện.
Nhầm!
Trong những năm gần đây, người Mỹ chi tiền nhiều hơn chođơn thuốc so với thăm khám bệnh viện. Khoảng 2/3 trong số đó bị tiêu phí vào thuốc chỉ để điều trị triệu chứng khiến cho tình trạng bệnh nhân tồi tệ hơn mà không đi thẳng vào nguyên nhân chính của bệnh.
Lợi nhuận điên cuồng
Các công ty dược có điên rồ không khi chi tới 500 triệu đô-la để phát triển một loại thuốc mới? Điên ư! Họ tinh ranh như cáo thìcó! Đây là một ví dụ. Có thể bạn chưa bao giờ nghe đến tên công ty dược AstraZeneca. Theo tạp chí Forbes (ngày 18 tháng 3 năm 2002), đó là công ty dược lớn thứ tư trên thế giới.
CHỈ RIÊNG NĂM 2001, AstraZeneca kiếm 630 triệu đô-la nhờ bán Nolvadex (a.k.a tamoxifen). Đây là một loại thuốc chống ung thư vú với tác dụng phụ tiềm năng gây ung thư tử cung đã có mặt trên thị trường từ năm 1973. Họ kiếm 728 triệu đô-la nhờ bán Zoladex, loại thuốc chống ung thư tiền liệt tuyến/vú được giới thiệu từ năm 1987. Họ kiếm 569 triệu đô-la nhờ bán Casodex, loại thuốc ung thư tiền liệt tuyến
khác được giới thiệu từ năm 1995. Trong hai năm, theo Forbes, doanh số bán hàng của công ty này chỉ riêng thuốc ung thư lên tới 2,5 tỉ đô-la mỗi năm.
Một công ty khác, Bristol-Myers Squibb đã chi hơn một tỉđô-la mỗi năm cho nghiên cứu và thuê 4.000 nhà khoa học và nhân viên phụ giúp. Nắm giữ giấy phép độc quyền nhãn hiệu hơn 10 dược phẩm đã được FDA phê duyệt để chữa trị ung thư, con số đó tính cho gần một nửa thuốc dùng cho hóa trị bán trên thế giới.
Ảnh hưởng – Xa và Rộng
Bristol-Myers Squibb cũng chi phối lên các hoạt động nghiên cứu ung thư một cách rất sáng tạo. Các công ty này trao các giải thưởng, bài giảng và nhiều loại tài trợ cho các hoạt động này. Họ cũng trả tiền sổ tay cập nhật ung thư chính thống, hỗ trợ nghiên cứu và “quản lý số liệu” nghiên cứu lâm sàng cho các cơ sở sáng chế của họ. Các công ty dược khác cũng làm tương tự.
Trung tâm Ung thư Memorial Sloan-Kettering (MSKCC) ở New York là trung tâm nghiên cứu ung thư hàng đầu trong vòng 40 năm qua. Một lần nữa lại Bristol-Myers Squibb dẫn đầu trong các công ty dược, chiếm một vị trí rất chủ đạo trong Memorial Sloan-Kettering. Vào năm 1995:
➢ Jame D. Robinson III, Chủ tịch Hội đồng Quản trị và Giámđốc của MSKCC, đồng thời là Giám đốc của Bristol-Myers Squibb.
➢ Richard L. Gelb, Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị của MSKCC, là Chủ tịch Hội đồng của Bristol-Myers Squibb.
➢ Richard M. Furland, thành viên hội đồng MSKCC, về hưu năm 1994 khi là Chủ tịch Bristol-Myers Squibb. Ông ta cũng là Giám đốc của Hiệp hội các nhà sản xuất Dược phẩm.
➢ Benno C. Schmidt, Đồng Chủ tịch Danh dự của MSKCC, là người sáng lập và thành viên hội đồng của viện Di truyền học, có công ty ở Massachusetts chuyên sản xuất thuốc ung thư cho thị trường. Ông đồng thời là Giám đốc của Viện Gilead (sản xuất thuốc liên quan đến ung thư) như thuốc Matrix và Vertex. Ông đã nhận giải thưởng Bristol-Myers Squibb năm 1979 cho những đóng góp nổi bật về nghiên cứu ung thư.
➢ Bác sĩ Paul A. Marks, Chủ tịch và CEO của MSKCC, là Giám đốc của Pfizer, nhà sản xuất thuốc liên quan đến ung thư. Ông đồng thời có trong hội đồng Phòng thí nghiệm Y tế Quốc gia và Công nghệ Cuộc sống.
FDA – Cơ quan Giám sát Liên bang
Vâng, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm FDA, bộ máy chính quyền quan liêu liên bang, có trách nhiệm thế nào đối với chúng ta về những kinh doanh tham tàn như thế. Xin lỗi mọi người. Cơ quan này thậm chí còn tệ hại hơn bởi tiền thuốc so với Quốc hội EU.
Một nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng 55% quan chức FDA làm việc cho các công ty dược sau khi rời FDA. 20% nhân viên FDA làm công tác duyệt thuốc thực sự được các công ty dược trả tiền. Bạn có nghĩ họ hoàn toàn khách quan không?
Tháng 5 năm 2001 tờ Thời báo Los Angeles công bố bài viết của David Willman nhan đề Chính sách mới của FDA tạo ra bảy loại thuốc chết người. Ông đã mô tả những tiêu chuẩn duyệt thuốc của FDA lỏng lẻo như thế nào so với quy định tại Quốc hội năm 1993. Sau hai năm điều tra, Thời báo Los Angeles thông báo trong những báo cáo “sự kiện bất lợi” trình FDA, nêu ra bảy loại thuốc bị nghi ngờ trong 1.002 ca tử vong. Vì số người tử vong được các bác sĩ, bệnh viện và người nhà báo cáo trên cơ sở tự nguyện, nên con số tử vong thực theo các nhà nghiên cứu bệnh dịch có thể cao hơn nhiều.
Bảy loại thuốc – Lotronex, Rezulin, Posicor, Redux, Rotashield, Propulsid và Raxar
– nằm trong hàng trăm thuốc mới được FDA duyệt từ 1993. Một thống kê ấn tượng: chỉ riêng bảy loại thuốc này đã đem lại doanh thu 5 tỉ đô-la tiền trước khi bị FDA thu hồi. Thống kê thú vị khác: Trong năm 1988, chỉ có 4% loại thuốc mới được FDA duyệt đầu tiên để lưu hành trong thị trường. Đến năm 1998, số thuốc mà FDA duyệt-đầu-tiên-trên- thế giới đã tăng vọt đến 66%.
Là cơ quan an toàn hàng đầu thế giới, FDA là cơ quan saucùng thu hồi giấy phép một loạt thuốc mới cuối những năm 1990 khi đã bị các cơ quan y tế thẩm quyền ở châu Âu cấm.
Bác sĩ bình luận về FDA
Bác sĩ Curt Furberg, Giáo sư khoa học sức khỏe cộng đồng của Trường Wake Forest nói: “Điều này hoàn toàn không chấp nhận được. Bệnh nhân là người trả tiền. Họ là người chịu tất cả các tác dụng phụ, tai họa và không tai họa. Ai đó phải lên tiếng cho họ”.
Không phải các bác sĩ không lên tiếng chống lại những thuốc đó. “Họ bị mất định hướng và quên đi rốt cục họ phải phục vụ ai”, bác sĩ Lemuel Moye – bác sĩ Sức khỏe Cộng đồng của Trường Texas đã phục vụ trong hội đồng tư vấn FDA từ 1995 đến 1999, đã nói. “Đáng tiếc là công chúng trả tiền thuốc vì họ tin tưởng đã có FDA kiểm duyệt”.
Bác sĩ William Isley – một chuyên gia tiểu đường ở thành phố Kansas, Missouri, cho rằng sự thay đổi của FDA có thể cảm nhận trực tiếp thông qua hoạt động của
ngành y tế. Ông đã khẩn nài cơ quan đó đánh giá lại Rezulin sau khi một bệnh nhân do ông điều trị bị suy gan vì dùng thuốc.
Isley nói: “FDA thường phụng sự một mục đích”. “Một bác sĩphải thấy chắc chắn loại thuốc ông kê đơn là an toàn nhất có thể. Bây giờ bạn tự hỏi người ta đánh giá thuốc như thế nào và cái gì ở trong thuốc có thể gây rắc rối”.
“Sự thật về các công ty dược”
Tháng 8 năm 2004, bác sĩ Marcia Angell xuất bản cuốn sách rất thú vị mang tựa đề Sự thật về các công ty Dược: Họ lừa gạt chúng ta như thế nào và ta phải làm gì? (The Truth About The Drug Companies: How They Deceive Us and What To Do About It). Cách nhìn của bác sĩ Angell đặc biệt thú vị do 20 năm trước khi nghỉ hưu bà là biên tập viên chính và Tổng biên tập của Tạp chí Y tế New England, một trong những tạp chí y tế uy tín trên thế giới. Dưới sự giám sát của bà, tạp chí đã công bố hàng trăm nghiên cứu về thuốc mới. Công bố thẳng thừng những bài xã luận chỉ trích kịch liệt công nghiệp dược phẩm, cách thử nghiệm và phê duyệt thuốc ở Hoa Kỳ. Bà vạch những điểm chính và then chốt trong một cuộc phỏng vấn đăng tải trên tờ Thời báo LosAngeles để bạn hiểu:
9 “Thuốc rất đắt tiền, nhưng không phải vì chi phí nghiên cứu. Số tiền các công
ty thuốc lớn nhất dành cho tiếp thị và tổng lợi nhuận họ kiếm được nuốt chửng chi phí nghiên cứu. Ví dụ năm 2002, các công ty thuốc lớn nhất chỉ dành 14% tiền bán hàng cho nghiên cứu và phát triển (R&D) và 31% cho ‘tiếp thị và quản lý’. Họ trước sau gì cũng kiếm nhiều lợi nhuận hơn là dành cho R&D. Và lợi nhuận của họ là rất lớn. Trong năm 2002, lợi nhuận gộp lại của 10 công ty dược theo Fortune 500(3) là 35,9 tỉ đô-la. Con số đó lớn hơn lợi nhuận của 490 công ty khác gộp lại nếu bạn lấy số thu trừ số chi”.
➢ số thuốc thực sự mới khá khiêm tốn. Đúng vậy, rất nhiều “…thuốc mới ra thị trường, nhưng phần lớn chẳng hề mới gì cả. Chúng được thay đổi chút ít từ những thuốc bán chạy sẵn có trên thị trường”.
➢ “Nhà sản xuất thuốc chỉ cần chỉ ra rằng thuốc mới hiệu quảhơn một viên giả dược hoặc một viên đường. Nếu một loại thuốc hiệu quả hơn hơn viên giả dược và an toàn, thì FDA phê duyệt luôn và có thể được đưa ra thị trường. Kết quả là các bác sĩ không biết thuốc mới có gì tốt hơn hoặc tồi hơn những thuốc họ đang dùng”.
➢ … giấy phép độc quyền nhãn hiệu hết hạn với thuốc cũ và “thuốc đó có thể được bán như thuốc không có tên thương mại với giá thấp hơn 20% (họ bán giá
đó ngay trong khi giấy phép độc quyền nhãn hiệu còn hiệu lực). Các nhà sản xuất dược phẩm cần cung cấp thường xuyên thuốc mới có giấy phép độc quyền nhãn hiệu bảo hộ để họ có thể thay đổi bất cứ thứ gì họ muốn”.
➢ tại sao các công ty thuốc dành nhiều tiền đến thế cho tiếp “…thị? Câu trả lời là họ phải thuyết phục chúng ta là thuốc bắt chước của họ tốt hơn những thuốc khác. Và làm nhiều tiếp thị bởi vì luôn không có chứng cứ khoa học hậu thuẫn cho yêu cầu bồi thường”.
Phản hồi của FDA
Phản hồi của FDA: “Tất cả thuốc đều có rủi ro, hầu hết trong số đó có rủi ro nghiêm trọng”, bác sĩ Janet Woodcock, Giám đốc Trung tâm Duyệt thuốc của FDA nói. “Khi một loại thuốc được phê duyệt là hiệu quả và an toàn” [trong trường hợp của thuốc hóa trị thì một nửa đối tượng thử nghiệm sống sót], “thì FDA phụ thuộc vào bác sĩ để tính toán những rủi ro, đọc nhãn thuốc… Chúng tôi phải dựa vào cộng đồng hành nghề làm trung gian. Đó là lý do tại sao thuốc phải kê đơn”.
Trong một bài phỏng vấn, bác sĩ Woodcock đã ám chỉ đến cảm giác khó khăn khi phải từ chối một loại thuốc được đề nghị mà công ty đã tốn kém 150 triệu đô-la hay hơn nữa để phát triển.
“Điểm cốt yếu”
Bác sĩ Woodcock, bà đã nghe thấy bao nhiêu người tử vong vì dùng quá liều vitamin C hoặc ăn quá nhiều rau chưa?
Nghi ngờ mọi loại thuốc
Bạn có thấy tầm quan trọng của việc “hỏi lại” bác sĩ không? Hãy hỏi mọi thứ. Nếu bạn hay người thân được kê đơn một loại thuốc [nhất là thuốc hóa trị], LUÔN LUÔN yêu cầu xem các số liệu thống kê và nhãn cảnh báo mà bác sĩ phải đọc. Tất nhiên họ không có thời gian đọc tất cả. Nhưng bạn PHẢI có thời gian. Cuộc sống của bạn và người thân có thể bị nguy hiểm.
Ngăn chặn sự cạnh tranh
Câu hỏi lô-gic là “Tại sao FDA, EU và các cơ quan chính phủ ở Úc lại kéo dài việc ngăn chặn điều trị không độc hại đối với ung thư và các bệnh khác?”. Lời giải đáp duy nhất là hệ thống y tế của chúng ta, ở Mỹ, châu Âu, Úc và các nước khác bị chi phối bởi tiền của công ty dược và cạnh tranh đến từ các sản phẩm tự nhiên cần phải bị ngăn chặn.
Âm mưu
Bản chất thực của Big Pharma ảnh hưởng lên các cơ quan chính phủ và tư nhân chỉ có thể được đánh giá đúng với nhiều thông tin chi tiết hơn so với những gì chúng tôi có thể cung cấp ở đây. Cách tốt nhất để đánh giá vấn đề này mà chúng tôi biết là đọc cuốn sách nhan đề Chính trị trong chữa bệnh – Lấp liếm và thao túng của Y tế Mỹ (Politics in Healing – The suppression and manipulation of America Medicine) của Daniel Haley, xuất bản năm 2000 và có bán trên amazon.com.
Sau 10 năm tìm hiểu, Haley đã dẫn chứng bằng tài liệu 12 trường hợp nghiên cứu về việc ỉm đi có hệ thống những cách chữa bệnh đã được chứng minh – phần lớn là chữa ung thư. Những chất như Glyoxilide, Krebiozen, DMSO, Colustrum, Hydrazine Sulfate, 714X, Aloe Vera và Cesium Chloride được bảo chứng rất cặn kẽ với những tên tuổi như Royal Rife, Harry Hoxsey, bác sĩ William Koch, tiến sĩ Andrew Ivy, Gaston Naessens, bác sĩ Robert Becker và bác sĩ Stanislaw Burzynski.
Dưới đây là những gì bác sĩ Julian Whitaker, người đại diện xuất chúng trong y tế thay thế nói về cuốn sách đó:
“Daniel Haley đã viết một cuốn sách rất quan trọng về nghề y,trình bày tỉ mỉ cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác mà chưa ai từng làm trước đó. Những câu chuyện không thể tin nổi, nhưng lại là sự thật”.
Sự lấp liếm mà Daniel Haley dẫn chứng là một âm mưu rõ ràng trong Hiệp hội Y khoa Mỹ (American Medical Association – AMA), Hội Ung thư Hoa Kỳ (American Cancer Society – ACS), Viện Y tế Quốc gia (National Institutes of Health – NIH), FDA và Ủy ban Thương mại Liên bang (Federal Trade Commission – FTC) phục vụ cho các tập đoàn Big Pharma.
Đây không phải cuốn sách dễ đọc. Dù sao đi nữa, mọi người trên thế giới cần phải đọc cuốn sách này.
Nếu bạn đang khẩn trương tìm kiếm cách điều trị ung thư tốt nhất cho bạn hay người thân, thì chúng tôi sẽ tha thứ nếu bạn hoãn đọc sách này. Tuy nhiên, khi có thời gian, xin bạn hãy quay trở lại. Bạn sẽ không bao giờ đánh giá hệ thống y tế hoặc chính trị của chúng ta theo cách đó nữa. Trong khi chờ đợi, nếu bạn buộc phải theo đuổi, thì xin hãy nghe lời tôi là hết sức cẩn thận khi chấp nhận điều gì bạn nghe từ hệ thống y tế “chính thống” (hoặc “đối chứng”) mà không có xác nhận của những nguồn thông tin khác ngoài hệ thống đó.
Có cần khiển trách bác sĩ không?
Bác sĩ có đáng bị khiển trách không? Không. Hầu hết các bác sĩ đều tận tụy, làm việc quá sức, thậm chí là các nhà anh hùng vô địch trong phục hồi sức khỏe cho bệnh nhân. Thật không may cho bạn, họ là sản phẩm của một hệ thống y tế được đóng cửa
để đổi mới theo cách rất quyền thế. Phần lớn thậm chí không xem xét khi các phương pháp điều trị đó không phù hợp với khuôn mẫu được học trong trường y và trong tất cả các “khóa đào tạo nâng cao”. Thực tế, phần lớn các “khóa đào tạo nâng cao” cho bác sĩ là những chuyến đi chơi đến những nơi kỳ thú được các công ty dược tài trợ.
Cái gì là giáo điều y tế hiện hành về ung thư mà các bác sĩ ung thư đang làm việc? Thứ nhất, ung thư là kẻ thù bên ngoài vào trong cơ thể nên cần phải bị tấn công nên cần phải sử dụng các phương pháp điều trị cắt bỏ, tẩm độc hoặc đốt đi. Thứ hai, tất cả thuốc tổng hợp có giấy phép độc quyền nhãn hiệu (hóa trị…) đã duyệt cho bác sĩ kê đơn là vượt trội mọi chất tự nhiên không độc hại để chữa trị ung thư. Thứ ba, thực phẩm bổ sung là phí tiền cho những người ăn “chế độ ăn cân bằng”. Và sau cùng, chất độc nha khoa không ảnh hưởng gì đến sức khỏe. Bốn “mô hình sai lầm” này khiến hầu như chắc chắn bạn sẽ phải hỏi ý kiến của bác sĩ.
Xin đừng vội chấp nhận hoặc phản đối ý kiến của chúng tôi về vấn đề này. Hãy kiểm tra một số thông tin từ các chuyên gia thực thụ. Một ví dụ là bài viết dưới đây. Các tác giả là: Nicholas Regush, phóng viên sức khỏe có kinh nghiệm của ABC New và bác sĩ Joseph Mercola, một trong những nhà chuyên môn y học có khả năng nhất mà tôi từng gặp, dĩ nhiên không phải là các nhà cách mạng gốc. Những ý kiến của họ rất quan trọng cho bạn vì bạn cần phải biết bạn đang đương đầu với cái gì trong sử dụng hệ thống y tế chính thống của chúng ta. Hãy đọc bài viết này: Http://www.mercola.com/2002/feb/27/death of medicine.htm
Công nghiệp ung thư
Trong cuốn sách lý thú của mình Thế giới không ung thư -Câu chuyện về vitamin B17 (Wold Without Cancer – The Story of Vitamin B17), G. Edward Grinffin diễn tả như sau:
“Với hàng tỉ đô-la chi phí mỗi năm cho nghiên cứu, thêm hàngtỉ nữa từ doanh thu bán các thuốc liên quan đến ung thư, và với giơ-tay-nhanh-chóng của các chính khách cho các chương trình gia tăng chưa từng thấy đầy hứa hẹn của chính phủ, chúng ta thấy, hôm nay, nhiều người sống nhờ ung thư hơn là chết vì nó. Nếu điều bí ẩn này được giải quyết bằng vitamin đơn giản, thì ngành kinh doanh khổng lồ và công nghiệp chính trị này có thể bị quét sạch trong một đêm. Kết quả là khoa học chữa trị ung thư không phức tạp như chính trị chữa trị ung thư.”
Đòi hỏi bảo vệ người tiêu dùng thuốc của pháp luật luôn được ngành công nghiệp thuốc viết ra. Các chính khách hàm ơn sự hỗ trợ tài chính của các công ty dược đã hăng hái đưa tên các công ty vào pháp chế và thúc giục ban hành. Khi đã thành luật, nó chỉ phục vụ để bảo vệ đỡ đầu các công ty dược chống lại cạnh tranh – ví dụ như
cạnh tranh đến từ phương pháp điều trị ung thư tự nhiên. Người tiêu dùng là nạn nhân của luật này chứ không phải người hưởng lợi.
Trong thử nghiệm và tiếp thị thuốc, không giống như các ngành công nghiệp khác, các công ty dược động hành lang Quốc hội để làm ra vẻ mọi thứ được thực hiện một cách khoa học. Bởi thế nên ngoài việc kêu gọi sự hỗ trợ của các chính khách, thì các nhà khoa học cũng phải được tuyển dụng – một kỳ tích được hoàn thành dễ dàng nhờ phân bổ khôn ngoan quỹ cho nghiên cứu.
Lịch sử
Quá trình này chẳng có gì mới lạ. Cựu Ủy viên Hội đồng FDA Jame L. Goddard trong bài phát biểu năm 1966 trước Hiệp hội các nhà Sản xuất Dược (Pharmaceutical Manufacturers Association) đã bày tỏ mối quan tâm về tính không trung thựctrong thử nghiệm thuốc mới. Ông nói:
“Tôi bị sốc với những vật liệu đưa đến. Ngoài vấn đề chất lượngcòn có vấn đề về sự thiếu trung thực trong nghiên cứu sử dụng thuốc mới. Tôi thừa nhận có những vùng xám trong tình trạng Điều tra Thuốc mới [Investigation of New Drugs – IND], nhưng chủ ý giấu giếm dữ liệu lâm sàng bất lợi cho động vật thì không phải là vùng xám. Chọn lựa có chủ ý các nhà điều tra viên lâm sàng được biết đến là để được quan tâm đến tình hữu nghị ngành nghề hơn là phát triển số liệu tốt, thì đó không phải là vùng xám”.
Người kế vị Goddard ở FDA là bác sĩ Herbert Ley. Năm 1969, ông đã bày tỏ trước Ủy ban Thượng viện và mô tả hàng loạt trường hợp không trung thực hiển nhiên trong thử nghiệm thuốc. Một trường hợp dính líu đến một Trợ lý Giáo sư Y khoa đã thử 24 thuốc của chín công ty khác nhau. Bác sĩ Ley nói:
“Bệnh nhân chết trong lúc thử nghiệm lâm sàng không được báocáo cho nhà tài trợ… Những người tử vong lại được kê danh sách là đối tượng thử nghiệm. Những người được báo cáo là đối tượng thử nghiệm lại không ở trong bệnh viện vào lúc thử nghiệm. Các bản thỏa thuận bệnh nhân có ngày ký sau khi đối tượng tử vong”.
Một trường hợp khác liên quan đến hãng thử nghiệm thuốcthương mại thực hiện trên 82 loại thuốc của 28 công ty. Bác sĩ Ley nói:
“Những bệnh nhân đã chết, đã ra viện, hoặc đã rút ra khỏi nghiêncứu được thay thế bằng những bệnh nhân khác trong thử nghiệm mà không có ghi chú trong các hồ sơ. 41 bệnh nhân được báo cáo là tham gia nghiên cứu đã tử vong hoặc không ở trong bệnh viện trong thời gian nghiên cứu… Lưu giữ hồ sơ, giám sát và theo dõi bệnh nhân nói chung là hoàn toàn không đúng”.
Số tiền tham nhũng. Thực sự là khoản tiền lớn tham nhũngtrọn vẹn!! Nghiên cứu công ty dược Lancet Nail
Để biết quan điểm về chủ đề này từ một nguồn tin đứng đắn, tôi gợi ý bạn đọc bài viết gần đây của The Lancet, tạp chí y tế Anh đáng kính. Trong đó bao gồm nghiên cứu được các công ty dược tài trợ và được bác sĩ Joseph Mercola đưa ra trong bản tin tuyệt vời của ông. Có thể đọc bài viết và ý kiến của bác sĩ Mercola tại trang web: Http://www.mercola.com/2002/nov/20/ drug companies.htm
Khi vào đó, bạn hãy đăng kí nhận bản tin của bác sĩ Mercola. Đó là kho báu thông tin sức khỏe sẽ gửi miễn phí đến hộp email của bạn hai số một tuần.
Giai thoại cá nhân của Bill Henderson
Năm 1996, bác sĩ tiết niệu kê đơn thuốc Hytrin, thuốc do Phòng pha chế Abbott sản xuất, cho bệnh phì đại tiền liệt tuyến của tôi. Thuốc khá hiệu quả vì làm giảm bớt chứng thức dậy đêm của tôi. Làm dịu đi cơ tiền liệt tuyến và bàng quang. Hytrin cũng thường được dùng điều trị huyết áp cao, tôi không bị bệnh này.
Trong ba năm rưỡi đầu, tôi đã phải mua cho Hytrin với giá 60 đô-la. Tôi cần mua bổ sung mỗi tháng một lần. Khi hỏi dược sĩ có thuốc không có tên thương mại không, thì được trả lời không, rằng Phòng pha chế Abbott có giấy phép độc quyền nhãn hiệu thuốc và chỉ được bán thuốc có tên.
Vâng, đoán xem chuyện gì? Giữa năm 2000 tôi phấn khởi tìm thấy giấy phép độc quyền nhãn hiệu của Phòng pha chế Abbott đã hết hạn. Tôi biết được chỉ vì dược sĩ bán cho tôi thuốc không có tên thương mại (terazosin hydrochloride) và tôi chỉ phải trả 5 đô-la thay vì 60 đô-la.
Chuyện đâm ra ly kỳ. Tháng 9 năm 2000, tôi nhận được thư từ văn phòng bác sĩ tiết niệu. Họ đang tiến hành thử nghiệm lâm sàng về một loại thuốc “mới” chữa phì đại tiền liệt tuyến và tìm tình nguyện viên cho thử nghiệm. Tôi tò mò nên gọi cho họ. Hóa ra đó là phòng khám tiết niệu lớn nhất ở San Antonio có nhân viên chuyên trách cho thử nghiệm thuốc.
Họ hỏi tôi vài câu hỏi. Rõ ràng là tôi đủ điều kiện và họ yêu cầu tôi tham gia thử nghiệm – mang tên Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên. Đòi hỏi người tham gia không dùng thuốc (dừng terazosin) trong một tháng và sau đó dùng thuốc “mới” trong ba tháng – nếu không thì dùng viên giả dược (viên đường) mà cả bạn và bác sĩ đều không biết. Một nửa số người dùng thuốc “mới” và một nửa dùng thuốc giả dược.
Đoán xem thuốc “mới” là gì? Không khó. Nó là HytrinII. Loại “mới” và tất nhiên là có giấy phép độc quyền nhãn hiệu mới của thuốc. Nó có bổn phận “nâng cao chất lượng điều trị” BPH – phình trướng tiền liệt tuyến lành tính (Benign Prostatic
Hyperplasia), bệnh mà tôi và hầu hết đàn ông tuổi tôi đều bị. Tôi lịch sự từ chối tham gia thử nghiệm lâm sàng.
Cái gì sai ở bức tranh này? Vâng, có một số thứ:
1) Bạn có nghĩ đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên Phòng bào chế Abbott vừa kết thúc phát triển Hytrin II vài tháng sau khi giấy phép độc quyền nhãn hiệu của Hytrin I vừa hết hạn?
2) Bạn có nghĩ đó là đúng đạo lý khi một phòng khám tiết niệu lớn hành động như đại lý cho một nhà sản xuất thuốc trong việc thử nghiệm lâm sàng? Liệu có gì mâu thuẫn quyền lợi không? Có tin đồn là họ kiếm 8.000 đô-la cho mỗi lần được công ty thuốc tuyển dụng.
3) Bạn có nghĩ Abbott hoặc bác sĩ đã nghĩ về tác động tàichính của thuốc “mới” lên tôi hoặc những người cao tuổi khác?
4) Tại sao bạn nghĩ cuộc đua Tổng Thống năm 2000 đã dựng lên THỎA THUẬN LỚN về “lợi nhuận đơn thuốc” của người lớn tuổi? Tại sao Quốc hội thông qua luật ban hành này năm 2003? Có thể có gì đó liên quan với những đóng góp chính trị từ các công ty thuốc? Nên nhớ rằng lợi nhuận đơn thuốc đến thẳng từ túi người đóng thuế. Và tại sao dự luật lập nên “lợi nhuận” mới này không cho chính phủ liên bang quyền đàm phán giá thuốc, đúng y như họ đang làm ở chương trình thuốc cấp cho Cựu binh (Veterans Administration)? Big Pharma có 1.430 người dành toàn thời gian vận động hành lang chỉ riêng ở Washington D.C có gì đó liên quan?
5) Tại sao chúng ta không thảo luận làm thế nào để giữ cho các công ty dược không đục khoét người Mỹ trong khi họ bán cùng loại thuốc đó ở châu Âu và Canada với giá chỉ bằng 1/5?
Trợ giúp từ Canada
Tháng 9 năm 2000, William Raspberry có bài viết trên Washington Post về Chữa trị lâu dài với giá thuốc cao (One Long- Term Cure for High Drug Prices). Dưới đây là một vài đoạn của bài viết đó:
Bernie Sander Thượng nghị sĩ của bang Vermont gần đây chobiết: “Có ít nhất 2 điểm liên quan đến vấn đề giá thuốc kê đơn cao.
Nhưng chính trị và báo chí hầu như chỉ chú trọng vào một điểm:”Giá cao vô nhân đạo” của thuốc. Ông muốn kêu gọi sự chú ý vào điểm kia của vấn đề: Thực tế người dân Mỹ ‘trả giá cao nhất thế giới cho chính xác cùng một loại thuốc – không phải thuốc không có tên thương mại (generic), mà chính xác cùng thứ thuốc’.
Giải pháp! Ông nói rất dễ dàng. Cho phép các nhà thuốc có đăngký và các nhà phân phối thuốc được mua thuốc FDA đã duyệt ở bất cứ đâu trên thế giới mang về bán ở đây. Ông gọi là tái nhập khẩu trong dự luật ông hi vọng sẽ được Quốc hội thông qua trước khi cuộc vận động bị trì hoãn”.
[LƯU Ý: Dự luật đã thông qua và được Tổng thống Clinton ký theo luật định. Văn phòng sức khỏe và phụng sự con người chưa bao giờ viết hướng dẫn thực hiện vì họ lo lắng cho sự “an toàn” của người tiêu dùng… Hừmmmm].
“‘Đây là công cụ quan trọng’, Sanders nói từ văn phòng ởBurlington trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại. ‘Tôi sang Canada cùng một nhóm phụ nữ bị ung thư vú và chúng tôi nhìn vào giá của tamoxifen, loại thuốc được kê đơn rộng rãi để điều trị ung thư vú. Bạn có thể mua nó ở Canada với giá bằng 1/10 so với giá ở Mỹ.
Nếu dự luật này có hiệu lực vào ngày mai, thì các nhà thuốc ở Mỹsẽ mua tamoxifen ở Canada và bán lẻ ở đây thấp hơn từ 30 đến 50% giá họ đang bán hiện nay’.
Sanders nói như vậy cũng có thể áp dụng cho bất cứ loại thuốcnào – đã được FDA duyệt xuất xứ sản xuất hoặc xuất khẩu từ Hoa Kỳ.
‘Nhà thuốc phải được quyền mua thuốc theo đúng cách các côngty khác mua giầy dép, quần áo hay máy giặt’, ông nói.
… Trở ngại lớn nhất để thông qua điều khoản này là ngành côngnghiệp dược, Sanders nói. ‘Họ là lực lượng vận động hành lang thế lực nhất trên Đồi Capitol’, ông nói. ‘Họ chi hàng chục triệu đô-la để chống lại dự luật này'”.
Vậy thì sao?
Vậy tất cả những điều này có tác dụng gì với bạn, bệnh nhân ung thư và người chăm sóc? Vâng, hi vọng nó để lại cho bạn một chút hoài nghi về kiến nghị của ngành “công nghiệp” ung thư rằng tất cả phương pháp điều trị không do Bristol-Myers Squibb, Merck hay Abbott Labs bán hoặc được “duyệt” thì chỉ là “lang băm”.
Điều tối thiểu trần trụi nhất để tránh bị tổn thương bởi hệ thống này, là bạn phải tự đào tạo mình. Bạn phải được chuẩn bị để nghe nhiều hơn một ý kiến. Sau đó, khi tìm được bác sĩ (hoặc chữa theo thiên nhiên hoặc vi lượng) mà bạn tin tưởng, bạn phải được chuẩn bị làm đồng-bác sĩ với vị ấy suốt trong quá trình điều trị của bạn. Tốt hơn nữa, thu thập kiến thức bạn cần và tự chữa cho mình.
Cuốn sách này được viết để chấm dứt lòng trung thành và niềm tin mù quáng của bạn vào hệ thống “điều trị” ung thư của chúng ta và trang bị cho bạn sức mạnh để tìm hiểu xa hơn nữa và tự chữa bệnh. Tin tưởng là tốt nếu xuất phát từ sức mạnh của sự
hiểu biết.
Bạn có sức mạnh – Hãy sử dụng
Chúng tôi sẽ trang bị cho bạn thông tin – từ sách, internet, bản tin, tạp chí và các nguồn khác. Bạn sẽ có khả năng chịu trách nhiệm về sức khỏe của mình. Chúng tôi hi vọng bạn sẽ không thỏa mãn với điều trị triệu chứng. Bạn sẽ muốn điều trị nguyên nhân.
Nhưng, trước khi có thể điều trị nguyên nhân, bạn cần phải hiểu chúng.
Bill Henderson nói: “20 năm trước, bác sĩ phẫu thuật ung thư cho vợ tôi nói với tôi rằng “80% vẫn còn là bí mật với chúng ta”. Khi đó, tôi không hiểu ý của ông ta. Bây giờ, tôi nghĩ là tôi hiểu”.
Ý của ông là cái đang xảy ra trong cơ thể bạn ở mức độ tế bào thực sự còn bí hiểm đối với hầu hết các bác sĩ.
➢ Sự tương tác giữa não bộ và hệ miễn dịch.
➢ Cảm xúc và những áp lực khác ảnh hưởng lên hệ miễn dịch.
➢ Miệng có thể tác động thế nào đến phần còn lại của cơ thể.
➢ Chính xác thì hóa trị tác động gì lên hệ miễn dịch.
➢ Những tác dụng phụ nào của hóa chất có thể được bù đắpnhờ các chất tự nhiên.
➢ Những ảnh hưởng lâu dài của hóa trị là gì._
➢ Những phương pháp điều trị khác để phục hồi khỏi ung thư.
➢ Cácchất không độc hại có thể nâng hệ miễn dịch lên như thế nào.
➢ Những cơ quan nào chịu tác động bởi thiếu hụt dinh dưỡng.
➢ Tếbào phản ứng thế nào với thức ăn và thuốc.
➢ Tập luyện và dinh dưỡng tác động thế nào lên những bệnh như tiểu đường.
➢ “Gốc tự do” làm gì với cơ thể.
➢ Những chất chống ô-xy hóa nào chống gốc tự do hiệu quả nhất.
➢ Những chất tự nhiên cung cấp gì cho cơ thể để chống ô-xy hóa.
➢ và nhiều nhiều nữa. …
Bạn PHẢI thận trọng
Bạn không được tin mọi thứ nghe được từ bất cứ một bác sĩ nào. Bạn phải kiểm
soát mọi thứ đang làm cho người thân bạn trong bệnh viện. Điều đó có nghĩa là dành một đêm cùng với họ trong bệnh viện. Chúng tôi thấy rất khó thuyết phục mọi người về hai sự thật đơn giản đó. Nếu bạn cũng khó chịu như vậy, thì đây là một vài thống kê có thể giúp bạn lần sau.
Các bác sĩ chính thức là nguyên nhân đứng hàng thứ ba gây tử vong ở Hoa Kỳ. Trong việc gây ra tử vong của bệnh nhân, họ chỉ đứng sau ung thư và tim mạch. Hiện có hơn (có thể còn hơn thế) 250.000 người chết mỗi năm vì những nguyên nhân gây ra do điều trị ở Hoa Kỳ. Câu nói lạ lùng này có nghĩa là “điều gây ra cho bệnh nhân bởi lời nói hay hành động của bác sĩ”. Đây là thống kê được công bố năm 1999:
12.000:Không cần mổ
7.000:Nhầm thuốc ở bệnh viện
20.000:Nhầm lẫn khác ở bệnh viện
80.000:Nhiễm trùng ở bệnh viện
106.000: Không có nhầm lẫn, tác dụng tiêu cực của thuốc.
Thông tin này lấy từ bài viết của bác sĩ Barbara Starfield ở Trường Vệ sinh và Sức khỏe Cộng đồng John Hopkins đăng trên Tạp chí Hiệp hội Y học Mỹ (Jurnal of the American Medical Association (26 tháng 7 năm 2000). Những thống kê trên lấy từ quá trình rà xét lại sau mỗi ca tử vong ở một bệnh viện để xác định nguyên nhân thực của mỗi ca tử vong cho mục đích bảo hiểm và để có kinh nghiệm hơn trong điều trị.
Tiếc thay, các bệnh viện hình như bị thua ở trận chiến sau. Nếu bạn nghĩ những số liệu kia sẽ nhỏ hơn trong những năm sau đó thì bạn đang lạc quan hơn chúng tôi rất nhiều.
Bạn có thực sự cho rằng các bệnh viện báo cáo chính xác điều trị hóa trị đã giết bệnh nhân? Một ước đoán chuẩn chúng tôi đã thấy là ít nhất 80% trong 570.000 tử vong mỗi năm ở nước Mỹ quy cho “ung thư” thực chất nguyên do là tại liệu pháp điều trị ung thư”. Hơn nữa, khi bệnh nhân ung thư được điều trị bằng hóa trị hay xạ trị bị chết do nhiễm trùng như viêm phổi chẳng hạn là do hệ miễn dịch bị tàn phá và cái chết của họ không phải là “chết ung thư”.
Canada có chế độ chăm sóc sức khỏe miễn phí nên các bác sĩ có thể trong chừng mực nào đó thẳng thắn hơn ở Mỹ. Trung tâm Ung thư McGill ở Montreal, Quebec là một trong những trung tâm điều trị ung thư lớn nhất và uy tín nhất trên thế giới đã làm một nghiên cứu về bác sĩ ung thư để xác định họ phản ứng như thế nào khi chẩn đoán bị ung thư. Trong bảng câu hỏi bí mật, 58 trong 64 bác sĩ ung thư (91%) đã nói bản thân họ và người thân sẽ không sử dụng TẤT CẢ các chương trình hóa trị. Nguyên nhân quan trọng hơn cả cho quyết định này là thuốc không hiệu quả và có mức độ
độc hại không chấp nhận được. Đấy cũng chính là những bác sĩ sẽ nói với bạn rằng phương pháp hóa trị sẽ làm nhỏ khối u và kéo dài cuộc sống của bạn!
Điều tra tương tự tiến hành gần đây bởi Thời báo Los Angeles cho thấy 75% bác sĩ ung thư tuyên bố rằng hóa trị và xạ trị là không được các bác sĩ điều trị cho bản thân và cho gia đình mình. Vậy mà, ngày hôm nay, 75% bệnh nhân ung thư dùng hóa trị. Hãy nhìn con số!
Bạn đã đủ hoài nghi về lời khuyên y tế chưa? Hãy xem như đó là công việc làm bạn “sáng suốt hơn bác sĩ ung thư”. Trước hết, hãy xem ung thư là gì và cái gì gây ra nó.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.