Thoát Khỏi Ung Thư

CHƯƠNG 7 NHỮNG PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ KHÁC BẠN CẦN PHẢI BIẾT



“Trước hết, đừng làm hại.”

HIPPOCRATES (400 TCN)

Có cả lô phương pháp điều trị ung thư được chào mời bởi các chuyên gia tin cậy và những nhà nghiệp dư không mấy tin cậy. Nhiều trong số đó khá hiệu quả NẾU chúng được một nhà y tế chuyên nghiệp thường xuyên giám sát tại bệnh viện bạn đang nằm. Số khác chỉ do chưa được chứng minh có hiệu quả hoặc thấp hơn những phương pháp điều trị sẵn có hoặc do chúng quá đắt.

Lúc nào đó trong hành trình của mình chắc bạn sẽ nghe về một trong các phương pháp đó. Theo chúng tôi, việc đó giúp bạn biết được những phương pháp không hiệu quả hoặc cần có sự giám sát chuyên nghiệp như nói trong chương tự điều trị. Mục đích là biến bạn trở thành một chuyên gia “đồng bác sĩ”.

Laetrile/Amygdanlin/Vitamin B17

Một ví dụ hay là Laetrile – (Hợp chất có chứa cyanide chiết xuất từ quả đào dùng chữa trị ung thư, chưa được kiểm nghiệm). Chúng tôi tin Laetrile đã giúp hàng nghìn bệnh nhân ung thư kể từ khi được khám phá vào năm 1953. Trước hết là một vài thông tin cơ bản.

Thế giới không ung thư

Cuốn sách hay nhất chúng tôi tìm được về chủ đề Laetrile là Thế giới không ung thư (World Without Cancer) của G. Edward Griffin, xuất bản lần thứ nhất năm 1974. Đã có rất nhiều cập nhật bao gồm 15 tái bản kể từ đó – gần đây nhất là tháng 3 năm 2000. Ông đã nghiên cứu thấu đáo lịch sử và khoa học của Laetrile (B17). Bản thân ông nghiên cứu nguyên nhân tại sao FDA cấm Laetrile. Đọc cuốn sách này bạn sẽ không còn tin vào sự “bảo vệ” cho bạn của các cơ quan như FDA – Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm, AMA – Hiệp hội Y học Mỹ và ACS – ‘Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ.

Nếu vào trang web Cơ sở chữa trị ung thư (Cancer Cure Foundation): http://www.cancure.org và gõ B17 ở ô “Search By Word”, một số bài báo sẽ xuất hiện. Bài đầu tiên nói cả về nguồn cung cấp viên nang B17 (Laetrile), hạt mơ và các phòng khám trên khắp thế giới đang sử dụng như một phần trong phương pháp chữa ung

thư, có đầy đủ số điện thoại.

Edward Griffin dẫn chứng bằng tài liệu việc ngăn cấm Laetrile và những người chủ trương – là một âm mưu kéo dài lợi nhuận khủng của “công nghiệp ung thư”. Sách chứa đựng bằng chứng hết sức thuyết phục hiệu quả của Laetrile. Trong đó bao gồm cả những trường hợp cụ thể có tên và nơi sống của các cá nhân. Chúng tôi sẽ trích dẫn một trường hợp để cho bạn thấy được sức mạnh của cuốn sách:

WILLIAM SYKES

Vào năm 1975, William Sykes ở Tampa, Florida bị bệnh bạch cầulympho cộng với ung thư lá lách và gan. Sau khi cắt bỏ lá lách, bác sĩ nói ông sống nhiều nhất là vài tháng nữa.

Mặc dù được chỉ định chạy hóa trị – không phải để chữa trị màchỉ để cố làm chậm cái chết thêm vài tuần – Nhưng ông Sykes đã chọnLaetrile. Đúng lời của ông, đây là điều đã xảy ra:

‘Khi chúng tôi gặp bác sĩ vài tuần sau đó, ông ấy đã giải thích tạisao và như thế nào mà Laetrile giúp được rất nhiều bệnh nhân ung thư và đề nghị tôi truyền dịch truyền Laetrile 30cc hàng ngày trong ba tuần tiếp theo. Ông cũng cho tôi enzyme và một chế độ ăn với thực phẩm bổ sung.

Sau vài ngày tôi thấy khỏe hơn, nhưng đến lần thăm khám thứ ba,bác sĩ nói ông ấy không thể điều trị cho tôi. Ông được thông báo sẽ bị rút giấy phép hành nghề nếu tiếp tục dùng Laetrile. Ông chỉ cho vợ tôi cách làm với Laetrile, bán cho chúng tôi số thuốc ông có và cho chúng tôi địa chỉ để có thể mua thêm.

Tuần tiếp theo tôi tiếp tục chương trình và cảm thấy ngày một kháhơn. Vào một buổi chiều, bác sĩ ở Ann Arbor gọi điện và hỏi tại sao tôi không quay lại để chạy hóa trị. Ông bảo tôi đang chơi trò ‘mạo hiểm’ với tính mạng. Cuối cùng ông đã thuyết phục được tôi quay lại chạy hóa trị, tôi đến Ann Arbor và bắt đầu điều trị. Mỗi ngày tôi thấy một tệ hơn. Mắt tôi nóng rực, dạ dày như cháy lên. Chỉ trong vài ngày tôi trở nên quá yếu và khó ra khỏi giường… ‘Cứu chữa’ giết tôi nhanh hơn bệnh! Không thể chịu đựng thêm tí nào nữa, tôi dừng hóa trị, quay trở về với Laetrile thực phẩm bổ sung và nhanh chóng bắt đầuthấy tốt hơn. Lần này lâu hơn vì tôi phải chiến đấu với tác động củacả hóa chất cũng như ung thư…

Trong thời gian ngắn tôi lại có thể tập hít đất và thể dục mà không bị mệt. Bây giờ tôi đã 75 tuổi [20 năm sau ngày họ nói tôi chỉ còn sống vài tháng], tôi vẫn chơi bóng tường hai lần mỗi tuần.

Trong thư ngày 19 tháng 6 năm 1996 gửi Edward Griffin, tác giả cuốn World Without Cancer, bà Hazel Sykes cung cấp thêm cái nhìn sâu sắc:

“Sau khi Bill chiến thắng ung thư, một hôm có vị bác sĩ đến gặpông. (Đó là bác sĩ làm hóa trị ở một bệnh viện có tiếng tăm). Bác sĩ muốn biết làm thế nào Bill đã chiến thắng được ung thư vì vợ ông đang rất ốm vì ung thư. Bill nói: “Sao ông không chạy hóa trị cho bà ấy?” Bác sĩ trả lời: “Tôi không bao giờ chạy hóa trị cho bất cứ ai trong gia đình và bạn bè!” Ông ta không chỉ là bác sĩ duy nhất đến gặp Bill với cùng câu hỏi đó”.

Các bác sĩ “trong cuộc”

Rất nhiều bác sĩ thiên về quan niệm dùng Laetrile để kiểm soát ung thư. Dưới đây là một số ví dụ.

Vào năm 1994, bác sĩ P. E. Binzel công bố những kết quả điều trị cho bệnh nhân ung thư của ông bằng Laetrile trong giai đoạn 1974 và 1991. Ông sử dụng kết hợp truyền và uống Laetrile. Liều truyền bắt đầu từ ba gram đến tận chín gram. Sau khoảng thời gian vài tháng thì uống Laetrile một gram lúc đi ngủ thay cho truyền. Bác sĩ Binzel cũng sử dụng các chất dinh dưỡng bổ sung khác nhau và enzyme tuyến tụy cũng như lượng thấp đạm động vật, không có đồ ăn tạp trong chế độ của ông cho bệnh nhân ung thư.

Trong nhóm 180 bệnh nhân ung thư giai đoạn đầu (không di căn hay giới hạn ở một cơ quan hay mô), thì 138 bệnh nhân vẫn sống đến năm 1991 khi ông tập hợp kết quả điều trị. Vào thời điểm đó 58 bệnh nhân tiếp tục sống được hai đến bốn năm, trong khi 80 bệnh nhân được theo dõi y tế từ năm đến 18 năm. Trong 42 bệnh nhân tử vong năm 1991 thì 23 người tử vong do ung thư, 12 do những nguyên nhân không liên quan và bảy tử vong “không rõ nguyên nhân”.

Trong số các bệnh nhân ung thư di căn của ông, 32 trong 108 tử vong do bệnh, trong khi sáu tử vong do những nguyên nhân không liên quan và chín tử vong “không rõ nguyên nhân”. Trong 61 bệnh nhân vẫn sống vào năm 1991, 30 người tiếp tục sống khoảng hai và bốn năm, trong khi 31 người tiếp tục trong năm đến 18 năm.

Những kết quả của Binzel rất ấn tượng. Một số bệnh nhân thảo luận trong sách của ông vẫn còn sống (và khỏe mạnh!) 15 – 18 năm sau điều trị Laetrile cơ bản. Binzel cũng lưu ý không ai trong các bệnh nhân ung thư trong thị trấn nhỏ đó là do ông – “bác sĩ gia đình” chẩn đoán. Tất cả được các bác sĩ khác chẩn đoán. Rất nhiều người đã chịu tàn phá của “cắt-đốt-độc” tiêu chuẩn (phẫu thuật/xạ trị/hóa trị) trước khi các bác sĩ ung thư đầu hàng như những trường hợp vô vọng.

Sách của ông nhan đề Sống và Khỏe (Alive and Well) của bác sĩ P. E. Binzel do American Media xuất bản năm 1994 tại Westlake Village, California.

Bác sĩ Manuael Navarro, cựu giáo sư y học và phẫu thuật của Đại học Santo Tomas (University of Santo Tomas) ở Manila viết năm 1971: “Tôi… chuyên về ung thư

học 18 năm qua. Cũng trong từng ấy năm, tôi sử dụng Laetrile-amygdalin trong điều trị các bệnh nhân ung thư của tôi. Trong suốt thời gian 18 năm đó tôi đã điều trị tổng số hơn 500 bệnh nhân bằng Laetrile-amygdalin với rất nhiều lộ trình điều trị, kể cả uống thuốc và truyền tĩnh mạch. Số đông bệnh nhân đã ở vào giai đoạn cuối khi bắt đầu điều trị bằng Laetrile-amygdalin.

Đó là xem xét thận trọng đánh giá lâm sàng của tôi như mộtbác sĩ điều trị ung thư và nghiên cứu trong lĩnh vực này. Tôi đã thu được những kết quả đáng kể nhất và đáng khích lệ với việc sử dụng Laetrile-amygdalin trong điều trị bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối và những kết quả này tương đương hoặc tốt hơn những kết quả tôi thu được khi sử dụng các tác nhân ngăn cản phân bào tiêu chuẩn độc hại hơn”.

[Đây cũng là bác sĩ Navarro sáng lập Phòng khám Navarro vẫn làm Xét nghiệm ung thư qua nước tiểu HCG.]

Trích đoạn này trong cuốn World Without Cancer của Edward Griffin nói trên và trong Phụ lục A của sách này.

“Bác sĩ Ernesto Contreras ở Tijuana, Mexico đã sử dụng Laetrilelàm nền tảng trong công tác ung thư của ông từ năm 1963. Ông nhận xét: ‘Để phòng ngừa ung thư và duy trì thuyên giảm thì chẳng có gì hiệu quả hơn Laetrile… Tính không độc hại của nó cho phép sử dụng lâu dài, trong khi phẫu thuật, hóa trị và xạ trị chỉ có thể dùng trong thời gian hạn chế… Laetrile hỗ trợ rất nhiều cho phần lớn các loại ung thư thường gặp như ung thư phổi, vú, ruột, buồng trứng, dạ dày, thực quản, tiền liệt tuyến và u bạch huyết”.

Đoạn trích này trong cuốn An Alternative Medicine DefinitiveGuide to Cancer do Future Medicine, Tiburon, California xuất bản năm 1997.

Bác sĩ Hans Nieper là bác sĩ chuyên khoa ung thư nổi tiếng ở Đức. Ông là người phát triển tiêu chuẩn chống ung thư bằng thuốc ngăn cản phân bào (cytotoxic) khống chế hệ miễn dịch (cyclophosphamide). Năm 1970 ông là đồng tác giả với Dean Burk của tài liệu nhỏ về Laetrile, trong đó ông tuyên bố rằng “… trong điều trị ung thư, nguyên lý tích cực của nitrilosides cần được sử dụng chủ yếu trong phòng bệnh [ngăn ngừa] và phương pháp bảo vệ sớm… Mặt khác, tính hoàn toàn không độc [không có chất độc] của phương pháp điều trị này, có lẽ không có gì đặc biệt, nhưng lại là nguyên lý tự nhiên đã được tìm lại và cho phép sử dụng không hạn chế”.

Trích đoạn này trong tài liệu Những vấn đề trong chẩn đoán và điều trị ung thư sớm (Problems of Early Cancer Diagnosis and Therapy) công bố năm 1970 bằng tiếng Đức trong ấn phẩm xuất bản định kỳ Aggressologie, Tập 11, trang 1-7.

Năm 1972, bác sĩ Nieper nói với phóng viên khi đang ở Mỹ: “Sau hơn 20 năm với công việc chuyên môn như thế, tôi đã tìm thấy Nitrilosides không độc hại – đó là

Laetrile – tốt hơn rất nhiều so với bất cứ phương pháp điều trị và phòng ngừa ung thư nào khác được biết đến. Theo ý kiến tôi, đó là khả năng duy nhất hiện có để cơ bản kiểm soát ung thư”.

Trích đoạn này trong cuốn World Without Cancer nói trên.

Bác sĩ Atkins, bậc thầy của “Cách mạng chế độ ăn” ghi nhận rằng “Amygdalin hình như trung hòa ô-xy hóa các hỗn hợp tăng cường ung thư như gốc tự do… Đó chính là thêm một thành tố quan trọng nữa giữ cho ung thư không phát triển hoặc di căn. Ngược lại với những gì mọi người nói về Laetrile… nó phải được coi như một phương pháp điều trị hiệu quả, hoàn toàn an toàn cho mọi loại ung thư”.

Tại sao không tự điều trị bằng Laetrile?

Trước bằng chứng trên và các khuyến cáo của các bác sĩ, tại sao chúng tôi không đưa Laetrile/Amygdaline/Vitamin B17 vào chương “Tự điều trị” trong sách này? Dưới đây là nguyên nhân:

Dùng Laetrile điều trị ung thư cần phải là một phần của một chương trình hoàn chỉnh bao gồm chế độ ăn, enzyme, tập luyện và thực phẩm bổ sung, và được giám sát bởi một chuyên gia y tế chuyên nghiệp.

Ví dụ, cần phải có một mức độ kẽm hợp lý trong cơ thể để Laetrile có hiệu quả. Laetrile không làm việc nếu không có lượng vitamin C tương xứng. Vitamin A cản trở ảnh hưởng của Laetrile. Cần có một thiết lập gồm vitamin, enzyme và chế độ ăn hợp lý trong ít nhất 2 tuần trước khi bắt đầu điều trị với Laetrile. Dạ dày đầy cũng làm kém đi ảnh hưởng của Laetrile. Cuối cùng, liều dùng Laetrile đòi hỏi tiêm truyền kết hợp với thuốc uống. Phải giám sát chặt chẽ phản ứng và điều chỉnh liều dùng trong ít nhất ba tuần sau khi cơ thể đã được chuẩn bị đầy đủ để nhận Laetrile. Dứt khoát đây không phải là một công việc “tự mình làm”.

Những phương pháp điều trị khác chúng tôi đề xuất cho bạn là cần thiết rộng rãi cho bệnh nhân ung thư kể cả những thứ bạn có thể tự làm mà không có giám sát. Những thứ đó bao gồm: tăng cường hệ miễn dịch, dầu hạt lanh/pho-mát không kem, vitamin C với L-Lysine và L-Proline, viên barley, xét nghiệm pH, một chế độ ăn khác hẳn, vitamin/khoáng chất bổ sung và vitamin D3. (Xem trong Chương 5). Không thứ nào trong đó cản trở bất cứ phương pháp điều trị nào khác bạn có thể dùng.

Kết luận

Laetrile (amygdalin) là liệu pháp phòng ngừa và chữa trị ung thư hiệu quả. Nó phải được sử dụng dưới sự giám sát của chuyên gia y tế.

Sụn cá mập

Một phương pháp điều trị nữa mà bạn cần làm quen, nhưng chúng tôi muốn chờ để trao đổi với chuyên gia y tế CAM (Complementary & Alternative Medicine) do bạn lựa chọn là sụn cá mập. Đầu tháng 10 năm 1991 bác sĩ Williams công bố loạt bài báo về chủ đề này trong bản tin Thay thế của ông.

Chúng tôi thấy cách tốt nhất để bạn làm quen với chọn lựa này là trích đăng một bài báo của người khám phá ra sụn cá mập, tiến sĩ I. William Lane.

Bạn còn nhớ trong Chương 5, FDA đã yêu cầu đóng cửa Công ty Lane Labs, nhà phân phối chính sụn cá mập do bác sĩ Lane khám phá ra, trong một thời gian ngắn vào năm 2004. Nay họ đã hoạt động trở lại với các chất bổ sung rất phong phú.

Ở đây chúng tôi sẽ cho bạn thông tin về sụn cá mập của họ bởi vì chúng tôi nghĩ đó là trường hợp nghiên cứu thú vị về bản chất đau lòng của cuộc đấu tranh mang phương pháp điều trị tự nhiên về với chúng ta.

Bác sĩ Lane bắt đầu nghiên cứu sụn cá mập làm liệu pháp chữa trị ung thư đầy hứa hẹn từ tháng 9 năm 1983. Ông phải dùng tiền riêng, ông tiến hành nghiên cứu ở Bỉ và Mexico. Nghiên cứu ở Mỹ quá đắt với ông. Nhưng vào tháng 9 năm 1992 ông đã khiến Bộ Y tế Cu-ba quan tâm. Họ đã mời ông làm một nghiên cứu về các bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối.

“Người Cu-ba đã đồng ý giao cho tôi 29 bệnh nhân và nhóm nămbác sĩ u bướu, bảy y tá và các điều kiện tốt nhất để theo dõi. Nghiên cứu của Cu-ba trở thành một huyền thoại nhờ có diện phủ sóng rộng và câu chuyện của Mike Wallace và đài ’60 phút’.

Cả 29 bệnh nhân đều không thể bước ra khỏi giường bệnh, tấtcả họ đều trong giai đoạn cuối và chờ chết. Họ thất bại sau khi đã được điều trị bằng các phương pháp chính thống. Ngày đầu tiên tôi gần như đầu hàng. Tôi cảm thấy cơ hội của tôi với các bệnh nhân cấp đó là bằng không, điều đó được các bác sĩ ung thư Cu-ba đứng đầu là bác sĩ Jose Menendez chia sẻ.

Có 10 u bướu khác nhau, năm về tiền liệt tuyến, sáu về vú, năm về hệ thần kinh trung ương, hai về dạ dày, hai về gan, hai về buồng trứng, hai về dạ con, hai về thực quản, hai về amiđan, một về bàng quang. Vào tuần thứ năm điều trị, qua điện thoại và fax tôi được biết nhóm Cu-ba rất hi vọng. Vậy nên tôi phải đến đó khám vào tuần thứ sáu.

Tôi đã được CBS và ’60 phút’ liên hệ sớm hơn. Đài phát thanh muốn tiếp tục với

câu chuyện mà đài xem như trò gian lận. Trong lần đến khám điều trị tuần thứ sáu, đi cùng tôi có biên tập viên bản tin sức khỏe Alternative là David Williams D. C, năm người của ’60 phút’ (có cả nhà sản xuất Gail Eisen một người có định hướng y tế mà ban đầu rất thiếu lạc quan về câu chuyện) và bác sĩ Charles Simone một nhà tư vấn tôi đã yêu cầu giúp tôi đánh giá kết quả. Tất cả đều rõ là một số bệnh nhân đã có tiến bộ.

Trừ bác sĩ Simone tham gia với chúng tôi vào tuần 16, nhóm nàylại đến thăm vào tuần 11 và thăm lại vào tuần 16. Khi đó có Mike Wallace tham gia cùng chúng tôi, anh ở lại Cu-ba với chúng tôi ba ngày để xem lại kết quả và làm phim.

Vào thời điểm đó, người Cu-ba đưa thêm bác sĩ Fernandez Britto, nhà nghiên cứu bệnh học tầm cỡ thế giới vào nhóm. Lần đầu tiên ông cho xem các phiên bản khám nghiệm bệnh học minh chứng tác động của sụn cá mập trong kích thích phát triển nhanh mô xơ thay thế và gói gọn tế bào ung thư. Các phiên bản của ông nay có cả phiên bản ‘trước’ và ‘sau’ sinh thiết rất thiết yếu cho giải thích sụn cá mập làm việc như thế nào.

Sau đó ’60 phút’ cho bác sĩ Eli Gladstein của Trường Đại học Tây- Nam Texas (University of Southwestern Texas) xem phim X-quang cùng với các dữ liệu ghi nhận về huyết để cộng tác. Bác sĩ Eli Gladstein xác nhận những phát hiện đó và ông làm vậy mà không hề biết rằng sụn cá mập là tác nhân chữa bệnh.

Nhóm ’60 phút’ rất phấn khích về những kết quả này và phát điđợt chiếu trong 10 ngày và phát hai đợt, điều này thường ít thấy. Nhóm cũng quảng bá câu chuyện trước mỗi lần phát sóng bốn ngày.

May thay các buổi chiếu có ngân quỹ đủ lớn để thực sự nghiên cứu các ảnh hưởng, thăm khám bệnh nhân và sau đó báo cáo những kết quả khả quan mà họ tự thấy được. Mặt khác, thật lạ lùng là Viện Nghiên cứu Sức khỏe Quốc gia (National Institues of Health – NIH) chưa bao giờ dành thời gian nghe toàn bộ trình bày, xem các phiên bản, trao đổi với tôi hoặc với các bác sĩ quan tâm”.

“Trong số 29 bệnh nhân giai đoạn cuối lúc ban đầu, chín người (31%) chết do ung thư trong vòng 17 tuần; không còn ai chết do ung thư sau đó nữa, sáu người khác chết do tai nạn, đau tim hoặc những nguyên nhân tự nhiên khác; 14 người (48%) khỏi hoàn toàn và thoát khỏi ung thư sau 34 tháng (gần 3 năm) kể từ 15 tháng 6 năm 1995. Sau khi dùng sụn cá mập 60 mg/ngày trong 16 tuần, những bệnh nhân này tiếp tục liều duy trì 20 mg/ngày để giữ họ khỏe trong gần ba năm. Đối với các bệnh nhân ung thư giai đoạn IV điều này thật ấn tượng, thậm chí không thể tin nổi, cho dù có thể một hay hai bệnh nhân ở giai đoạn III hơn là giai đoạn IV lúc bắt đầu.

Tất cả ung thư đã được xác nhận sinh thiết. Bác sĩ ung thưtrưởng người Cu-ba,

Menendez gần đây nói với tôi: ‘Trong lịch sử làm bác sĩ ung thư của tôi, tôi chưa từng thấy hoặc trải nghiệm thứ gìđó giống như phản ứng như thế này với sụn cá mập’.”

Dưới đây là lời của bác sĩ Lane về khám phá của ông:

“Tôi tự hào rằng tôi đã sẵn sàng đặt tiền túi lên bàn để phát triểnliệu pháp sụn cá mập và tôi sẽ bảo vệ những kết quả này cũng như những người khác đã thấy tác dụng.

Đánh giá của chuyên gia là nền tảng cho hệ thống của chúng ta,tuy nhiên những kết quả khác, nếu được ghi chép cẩn thận và có xác minh rõ ràng thì cũng không nên bị loại bỏ và nhạo báng.

Những kết quả nghèo nàn của liệu pháp điều trị ung thư chínhthống khiến ta phải nghiên cứu phương pháp mới hứa hẹn, đặc biệt là nếu nó không đắt, không độc và không mổ xẻ. Trong giai đoạn chi phí y tế không bị kiểm tra như lúc này và bệnh dịch ung thư xem ra không giảm thì tất cả mọi khả năng đều đáng được chú ý”.

Kết luận

Sụn cá mập dạng bột và viên nang có bán tại Công ty Lane Labs, chúng tôi không khuyên tự điều trị với nó. Điều chúng tôi băn khoăn là liều lượng và giám sát. Với hai vấn đề này, bạn cần có lời khuyên của chuyên gia y tế.

Dichloroacetate (DCA)

Trong tháng 2 năm 2007, Bill đã công bố bài viết “DCA – Chữa trị ung thư mới nhất” (DCA – The Cancer Cure) trong bản tin “Thoát khỏi ung thư” (Canceer Free) của ông. Ông trích dẫn một bài viết của David McRaney, biên tập viên chính của “Student Printz” trên DCA. Đây là một đoạn trích từ bài viết đó:

“Các nhà khoa học có thể đã chữa khỏi ung thư tuần trước.

Vâng.

Vậy, tại sao không có phương tiện truyền thông nào nắm bắt nó?

Vấn đề là thế này. Các nhà nghiên cứu tại Đại học Alberta ởEdmonton, Canada tìm thấy một loại thuốc giá rẻ và dễ sản xuất mà giúp tiêu diệt gần như tất cả các ung thư. Thuốc đó là dichloroacetate (DCA), nó đã được sử dụng để điều trị rối loạn chuyển hóa, nên không có vấn đề gì khi sử dụng nó cho các mục đích khác.

Nghe giống như loại tin tức bạn nhìn thấy trên trang đầu của cácbáo phải không?

Thuốc cũng không có giấy phép độc quyền nhãn hiệu, nghĩa là có thể được sản

xuất để bán giá rẻ so với những gì các công ty thuốc nghiên cứu và triển khai.

Các nhà khoa học đã thử nghiệm DCA trên tế bào người, nuôi bên ngoài cơ thể,

ở đó nó tiêu diệt tế bào ung thư phổi, vú và não, nhưng lại không đụng tới các tế bào khỏe mạnh. Khối u của những con chuột béo đã co lại khi chúng được cho uống nước có bổ sung DCA.

Một lần nữa, điều này có vẻ như phải ở dòng tít đầu của những tin tức đêm, phải không?

Tế bào ung thư không sử dụng các nguồn sinh lực nhỏ được tìm thấy trong hầu hết các các tế bào của con người là các ty thể. Thay vào đó, chúng sử dụng thủy phân glucoza kém hiệu quả và lãng phí hơn.

Các bác sĩ từ lâu đã tin rằng lý do là vì ty thể đã bị hư hỏng bằng cách nào đó.

Nhưng hóa ra là các ty thể chỉ ngủ ngầm và DCA lại đánh thức chúng trở lại.

Tác dụng phụ của điều này là kích hoạt quá trình tự hủy diệt của tế bào. Bạn thấy đấy, ty thể chứa một phím tự hủy quan trọng không được nhấn trong các tế bào ung thư. Nếu không có nó, các khối u phát triển lớn hơn vì các tế bào không bị tiêu diệt. Nhờ DCA mà ty thể hoạt động đầy đủ và lại có thể tự hủy.

Với việc ngưng thủy phân glucoza, cơ thể sản xuất ít a-xít lactic, vì vậy mô xấu xung quanh tế bào ung thư không phá vỡ và nảy hạt giống các khối u mới.

Đây là cái bẫy lớn. Các công ty dược phẩm có thể sẽ không đầu tư nghiên cứu DCA bởi vì họ không có lợi nhuận từ nó. Cái đó dễ làm, không có giấy phép độc quyền nhãn hiệu và có thể thêm vào nước uống. Hãy hình dung, Gatorade với kiểm soát ung thư.

Vì vậy, công việc nền tảng phải được thực hiện tại các trường đại học và các phòng thí nghiệm độc lập có tài trợ. Nhưng, họ phải làm thế nào để kêu gọi hỗ trợ nếu các phương tiện truyền thông thậm chí còn không nói về nó?

_Tất cả điều tôi có thể làm là viết bài này và hi vọng Google News nắm bắt nó.

Đồng thời, nói với những người bạn quen biết và tự mình nghiên cứu”.

Bình luận của chúng tôi

Bill thực sự đánh giá cao về tám độc giả trung thành tuyệt vời của ông gây sự chú ý cho ông vào đầu năm 2007 với việc mang lại sự phát triển mới mẻ này. Ông đã làm thêm một số nghiên cứu về nó. Trang web tốt nhất cho thông tin về DCA là: http://www.TheDCASite.com.

Bạn sẽ tìm thấy rất nhiều thông tin ở đó, bao gồm cả một nguồn đặt mua DCA. Thật không may, vì một chuyến thăm của FDA đến gặp Jim Tassano, người đứng đằng sau trang web trên, vào tháng 7 năm 2007, họ không được giao hàng cho các đơn đặt

hàng từ Mỹ. Họ có thể giao hàng đến các nước khác.

Bạn sẽ tìm thấy rất nhiều chứng thực từ các bệnh nhân ung thư tại trang web này.

Trong diễn đàn mọi người trò chuyện về DCA, chúng tôi thấy một bình luận thú vị:

“Nếu nhìn vào chế độ ăn của dầu hạt lanh và phô-mát chất béothấp của bác sĩ Budwig (những năm 1950), bạn sẽ thấy rằng sự bình thường hóa ty thể/màng tế bào tiềm năng là lý thuyết hậu thuẫn… Những điểm tương đồng giữa quá trình quy cho DCA và quy cho dầu hạt lanh/pho-mát chất béo thấp trong tái lập tiềm năng đúng là rất thú vị”.

Có thể bằng cách ăn hỗn hợp FO/CC hàng ngày (xem Chương 5 ở trên), bạn sẽ hoàn thành cùng một việc như bạn dùng DCA. Nó chắc chắn giống như từ hiệu ứng “Phượng Hoàng cất cánh từ đống tro tàn” chúng tôi đã nghe thấy từ hàng trăm bệnh nhân với ung thư “giai đoạn cuối” đang dùng FO/CC.

Vì DCA không sẵn có ở Mỹ (nhờ sự mẫn cán của FDA của chúng ta), nếu chúng tôi là bạn, chúng tôi sẽ nỗ lực gấp đôi để biến FO/CC trở thành một phần của chế độ ăn hàng ngày. Tuy nhiên, hãy cứ đọc về DCA. Đó là trường hợp kinh điển của một chất đơn giản, vô hại có hứa hẹn to lớn để chữa bệnh ung thư nhưng bị đàn áp ở Mỹ.

Nước nho

Nước nho là cách điều trị mà chúng tôi xem là dạng “tự-điều trị”. Dưới đây là tường trình của một “người đáng tin”:

“Kinh nghiệm của tôi trong việc ăn hạt nho là tốt. Khoảng nămnăm trước đây, tôi biết đến điều đó qua cuốn sách có tựa đề ‘Liệu pháp hút’ (Magnetic Therapy) của Abbot George Burke, 1988, DeVorss & Company, P.O.Box 550, Marina Del Rey, CA90294.

Trong đó tác giả mô tả nho chữa bệnh theo gợi ý của Fred Wortmanở Albany, Georgia do Joseph F. Goodsavage nói và được in trong cuốn Magnetic Therapy.

Ông Wortman nói, ‘Các bác sĩ’ từ chối mổ khi họ biết số dư tàikhoản ngân hàng của tôi’. Là người đọc rộng, ông nhớ ra một cách chữa trị ung thư đơn giản trong một cuốn sách Bà Brandt (Mrs. Brandt) và đi tìm nó. Theo dõi nó khá rắc rối và nặng nề, nên ông giản lược chỉ xem phần cốt lõi, tiến hành chữa trị và đã thoát khỏi ung thư hoàn toàn trong vòng một tháng.

Wortman sau đó đã cho công bố những kinh nghiệm của ônglên tờ ‘Độc lập’ và nhận được hàng trăm phản hồi. Hơn 200 bệnh nhân ung thư đã báo cáo được phục hồi hoàn toàn. Ông báo cáo liệu pháp nho đã chữa khỏi ung thư phổi trong hai tuần. Ung thư tiền liệt tuyến mất thời gian lâu hơn một chút – khoảng một tháng.

Chỉ có bốntrường hợp ung thư máu được điều trị, nhưng việc sáng suốt sử dụng nước nho đã cứu tất cả họ.

Tự điều trị

Tiến hành điều trị như thế này: Bắt đầu bằng 24 ao-xơ [680gram] nước nho (nho Concord – loại nho đen ở Bắc Mỹ) làm đồ uống đầu tiên vào buổi sáng. Nhịn ăn đến trưa. Uống một vài ngụm trong mỗi 10 hay 15 phút (không uống hết một lần). Sau 12 giờ trưa, sinh hoạt bình thường trong thời gian còn lại trong ngày, nhưng không ăn gì sau 8 giờ tối… Có vẻ thức ăn chiếm lấy các tác nhân chữa bệnh trong nước nho, có thể là Ma-giê, nên bám vào lúc nhịn giữa 8 giờ tối đến trưa hôm sau.

Duy trì hàng ngày như vậy khoảng hai tuần đến một tháng… Điều trị với nước nho đen Concord được báo cáo gần 100% hiệu quả.

Sau đó Wortman đã thu thập thông tin của 400 trường hợp điều trị thành công theo cách này.

Khi dùng cho sức khỏe nói chung vài lần, tôi thấy tuyệt vời, giảm vài cân (khoảng 2,2kg – 3,6kg một tháng) và rất dễ thực hiện. Tôi vui mừng vì đã tìm được ‘chế độ ăn’ này vì tôi nhớ người Italy cổ thường nói ‘Nếu muốn khỏe, thì thỉnh thoảng phải ăn thật nhiều nho [chỉ nho thôi] trong khoảng thời gian hai tuần’. Hừm… hình như ngày xưa người ta biết rất nhiều?…

Rủi ro của chế độ ăn này có thể là nước nho Concord (hoặc bất cứ nước nho đen nào) bị ô nhiễm thuốc trừ sâu, hoóc-môn (GMO) và/ hoặc đất nhiễm flo trong nước và nho đã hấp thụ. Để giảm thiểu rủi ro đó, hoặc mua nước nho hữu cơ, nước nho Kosher hoặc phải biết rõ chỗ ruộng trồng nho và tự làm lấy nước nho.(Lưu ý nước nho làm từ si-rô nho cô đặc hiện nay trong siêu thị bị dư thừa đường).

Tìm kiếm nước nho tốt hơi rắc rối nhưng lại hiệu quả hơn để tự điều trị và dĩ nhiên là đáng để cố gắng. Chúc may mắn”.

Cảnh báo!

Dường như trên đây chỉ ra rằng sản phẩm phổ biến này đáng để dùng thử. Rốt cuộc thì đó là thức ăn. Cảnh báo chúng tôi muốn nói tới là kết quả theo email Bill nhận được vài tuần sau khi công bố lần đầu tiên ở một trong các bản tin của ông.

“Xin chào,

Tôi là Bob Rabel. Vợ tôi đang chống chọi với ung thư buồng trứngđã ba năm nay. Chúng tôi đã thử dùng rất nhiều thực phẩm bổ sung và thay đổi chế độ ăn nhưng một số thành công, một số không. Tôi đánh giá rất cao các bản tin của ông. Tuy nhiên, có thể ông cũng muốn chia sẻ với độc giả của ông những gì vợ tôi đang trải qua. Cô ấy đã dùng liệu pháp điều trị nước nho trong bản tin của ông. Cô ấy

dùng 100% nước nho Concord thuần túy hữu cơ như chỉ dẫn điều trị. Nhiều người biết tế bào ung thư tăng trưởng ba – năm lần nhanh hơn khi mức gluco cao. Chúng tôi hơi e ngại về hàm lượng đường fructo trong nước nho. Hóa ra chúng tôi đã đúng. Marker khối u của cô ấy nhảy lên gần như 100%. Trong ba năm rưỡi chưa bao giờ lên quá 25%. Chú ý, chỉ trong một tháng. Một cảnh báo có lẽ phải đưa ra cho liệu pháp này bởi vì, theo tôi, nước nho là kẻ có tội.

Chân thành,

Bob Rabel”

Cám ơn Bob. Chúng tôi chỉ có thể hi vọng tình trạng của vợ anh là tạm thời. Vì hiệu ứng bất lợi của đường với ung thư, chúng tôi đề nghị, nếu anh muốn, hãy thử điều trị với hạt nho, đặt hàng “Grape Seed Extract” 50 mg, 60 viên nang giá 7,47 đô-la, trang web: www.ourhealthcoop.com

Ung thư là nấm sùi – bác sĩ Tullio Simoncini

Nhiều người trong số bạn đã nghe nói về bác sĩ ung thư người Ý, bác sĩ Tullio Simoncini và lý thuyết của ông rằng ung thư chỉ là một loại nấm – cụ thể là nấm candida. Đây là một đoạn trích từ một bài viết trên bản tin “Thoát khỏi ung thư” của Bill vào ngày 2 tháng 8 năm 2007 về chủ đề này:

“Đây có thể là một trong những bài báo quan trọng nhất thông tin về ung thư tôi đã chia sẻ với bạn trong bảy năm viết bản tin này.

Bây giờ bạn chú ý chưa?

OK. Cuối cùng thì, tuần trước, tôi được biết rằng công trình củabác sĩ Tullio Simoncini, bác sĩ ung thư người Ý, đã được dịch sang tiếng Anh. Bạn có thể đã nghe nói về ông. Ông được đăng tin trong thời gian gần đây. Ông đã chữa lành cho bệnh nhân ung thư bằng sử dụng natri bicarbonate (soda bicarbonate) trong một số năm. Bạn có thể tìm hiểu về công việc của ông và mua sách của ông, Ung thư là nấm bản in tại:http://www.curenaturalicancro.com

Hãy mua đi, ngay bây giờ. Những gì ông nói là các vi khuẩn xâmnhập vào trong tế bào và làm cho nó trở thành một tế bào lên men (ung thư) không khác gì nhiều so với nấm candida. Và xử lý nó chẳng đòi hỏi gì hơn là dùng bicarbonate soda bên cạnh khu vực có các tế bào ung thư và các tế bào chết. Điều đó có thể hơi quá đơn giản, nhưng không quá đâu.

Có một số video thú vị tại trang web và rất nhiều các thông tinkhác. Ví dụ, dưới đây là danh sách các bệnh ung thư mà ông nói rằngông đã điều trị thành công với bicarbonate natri:

Ung thư vòm họng

Ung thư dạ dày

Ung thư gan

Hạch ung thư phúc mạc

Ung thư ruột

Ung thư lá lách

Khối u của tuyến tụy

Khối u bàng quang

Khối u tiền liệt tuyến

Khối u màng phổi

Khối u các chi

Ung thư não

Ung thư phổi

Ung thư vú

Ung thư da

Danh sách ấn tượng chứ? Thông tin của ông về các quy trình được các bác sĩ thực sự toàn diện nhận ra. Tôi chỉ có đủ chỗ để trích dẫn hai. Dưới đây là một đoạn trích từ một e-mail của bác sĩ Dana Flavin. Bác sĩ Flavin là bác sĩ ung thư ở Connecticut:

“Bác sĩ Simoncini đang đẩy lui ung thư với dung dịch 5% bicarbonate soda trong động mạch ở khối u. Sáu ngày làm, sáu ngày nghỉ. Sau bốn phiên các khối u đã biến mất. Vú, tuyến tụy, ruột kết, não, phổi, v.v… Ông cũng điều trị ung thư biểu mô phúc mạc bằng các liệu pháp điều trị nội phúc mạc. Ông để bệnh nhân xoay ¼ vòng mỗi 15 phút trong một giờ để bao phủ hết toàn bộ khu vực. Ông nói làm thế để rũ bỏ nấm. Tôi nghĩ rằng được bổ sung ô-xy trở lại bằng cách hút hydro ra và thêm vào CO2, cũng như tạo ra môi trường không thuận lợi cho nấm. Khối u ghét ô-xy và nấm cũng vậy… họ nói rằng nó làm việc tốt hơn với cisplatin (thuốc điều trị ung thư đặc biệt là ung thư buồng trứng và tinh hoàn) và đoán xem điều gì xảy ra? Cisplatin là độc đối với nấm. Đó có phải là điều gần như mỉa mai nhất bạn từng nghe không? Đôi khi tôi chỉ mỉm cười và nghĩ sao Chúa làm mọi thứ giản dị thế và sao chúng ta diễn giải phức tạp thế”.

Bác sĩ Flavin gợi ý một trang web khác:

http://www.cancerfungus.com

Ở đó bạn sẽ tìm thấy một số video, kể cả video các bài giảng của bác sĩ Simoncini về chủ đề và một số lời chứng thực của bệnh nhân.

Bình luận của chúng tôi

Như mọi người khác, kể cả một số bác sĩ khác mà chúng tôi đã nghe, chúng tôi rất ấn tượng với những phát hiện của bác sĩ Simoncini. Chúng tôi có ba e ngại về việc tìm một người chữa lành cho bạn sử dụng quy trình bicarbonate soda:

Thứ nhất, không dễ tìm được một bác sĩ được đào tạo phùhợp. Như bạn sẽ thấy trong các video trên, điều trị khối u nội trong phổi, v.v… đòi hỏi phải đưa một ống thông vào động mạch và dẫn nó đến vị trí của khối u với sự giúp đỡ của bác sĩ quang tuyến. Không đơn giản và chắc chắn rất tốn kém.

Thứ hai, việc điều trị tập trung vào giết chết các tế bào ungthư. Như bạn có thể nhận thấy, chúng tôi nhấn mạnh việc sửa đổi lối sống của bạn để làm cho cơ thể bạn chống lại tế bào ung thư. Mọi điều trị tập trung vào giết chết các tế bào ung thư có xu hướng lấy đi trọng tâm của quá trình đó. Bạn chữa lành ung thư bằng cách thay đổi lối sống một cách triệt để và lâu dài chứ không tập trung toàn bộ vào khối u, vì đó chỉ là một triệu chứng.

Cuối cùng, có rất nhiều lý thuyết khác về nấm và ung thư. Ví dụ, bác sĩ Hamer (Y học Đức mới) nói nấm là một phần của quá trình chữa bệnh tự nhiên của cơ thể. Chúng làm công việc quét sạch các tế bào ung thư khi có tín hiệu yêu cầu từ não. Lý thuyết của ông được hỗ trợ bởi hàng ngàn quét CT não sẽ giải thích lý do tại sao tất cả các khám nghiệm tử thi của bệnh nhân ung thư cho thấy có nấm ở trong và xung quanh các khối u ung thư.

Nhớ rằng nấm phát triển mạnh trong một loạt môi trường khắc nghiệt bao gồm cả môi trường có tính a-xít.

Cesium Chloride

Mục tin Bill vừa đọc gần đây làm ông nhớ lại thời gian khó khăn ông cố tìm bác sĩ để hạn chế đau nhức cho người vợ quá cố của ông. Cuối cùng ông phát hiện ra một phòng khám đau nhức ở Trung tâm Khoa học Sức khỏe Trường Đại học Texas (University of Texas Health Science Center). Một bác sĩ tuyệt vời ở đó đã sử dụng MS – Contin, một dạng mooc-phin giải phóng chậm. Đó là năm 1994.

Nhưng hiện nay có giải pháp tốt hơn nhiều – chất tự nhiên, không cần đơn tên là clo-rua xê-di (cesium chloride) để hạn chế đau dữ dội do ung thư.

Dưới đây là trích đoạn làm chúng tôi chú ý:

Bắt đầu trang 313 trong cuốn Khỏi đau trong sáu tuần (Painfree in Six Weeks) của bác sĩ Sherry Rogers:

Đau ung thư giai đoạn cuối

Không có đau nào kinh hoàng hơn đau ung thư giai đoạn cuối.Và bạn sẽ phải ngạc nhiên, tôi khám phá ra các nhà nghiên cứu đã chỉ rõ trong một số trường hợp có thể chấm dứt đau trong chưa đến một ngày, thực tế là chỉ trong vài giờ với chất khoáng đơn giản mua không cần đơn. Bất chấp các trường hợp kháng mooc-phin và xử lý thuốc gây mê tiêu chuẩn khác. Và thậm chí còn thú vị hơn, khi kiên trì dùng khoáng chất phổ thông này như một phần của chương trình điều trị thì khối u giai đoạn cuối của di căn hoặc không phẫu thuật thậm chí còn co lại và biến mất hoàn toàn.

Cesium là khoáng chất không độc, trong rất nhiều trường hợp,một số người hết đau ung thư trong vòng 12 – 24 tiếng. Khi kết hợp với những khoáng chất khác và vitamin, đều không đơn, đối với một số trường hợp thì khối u biến mất hoàn toàn trong vòng ba tháng đến hai năm (xin nhắc lại, việc này phụ thuộc vào khả năng hấp thụ của mỗi người và hóa sinh cá nhân).

Tại sao chúng ta không nghe về điều đó? Cùng một nguyên nhânlà truyền thông không đề cao những câu chuyện dân gian về những người ung thư giai đoạn cuối đã tự chữa khỏi ung thư và di căn nhờ chế độ ăn và những phương pháp không đơn thuốc khác. Không có chuyện tiền bạc ở đó và quan trọng hơn, không thần thánh hóa và trao quyền cho những người muốn toàn quyền kiểm soát sự đau đớn và sức khỏe của bạn.

Những tế bào bình thường biến thành tế bào ung thư qua sự phối hợp của (1) môi trường hóa chất tạo ra gốc tự do và (2) thiếu dinh dưỡng bởi chế độ ăn nghèo nàn. Thậm chí các nghiên cứu của chính phủ cho thấy 95% ung thư sinh ra do chế độ ăn và môi trường. Gốc tự do phá hoại gen, màng và cơ chế quy định khác. Lấy màng tế bào bị hư hại làm ví dụ, ô-xy không còn dễ dàng thâm nhập tế bào ung thư được nữa, nhưng gluco hoặc đường lại có thể. Thực tế, đường giống như phân bón cho tế bào ung thư.

Để hiểu tốt hơn xê-di làm việc như thế nào, hãy quan sát qua bên trong một tế bào ung thư và xem còn gì nữa làm nó khác với tế bào bình thường. Những tế bào khỏe mạnh bình thường sống, thở và tạo năng lượng qua một quá trình gọi là chuyển hóa aerobic (ưa khí với ô-xy). Chúng dựa vào ô-xy. Tế bào ung thư không dựa nhiều vào quá trình này, xoay chuyển hóa tính của nó sang quá trình lên men sử dụng ít ô-xy hơn nhiều, nhưng lại dùng rất nhiều đường (hiếm khí – anaerobic). Bây giờ thì bạn thấy tại sao mang hộp kẹo cho bệnh nhân ung thư giống như đổ

thêm dầu vào lửa. Đường và rượu là phân bón của ung thư”.

Clo-rua xê-di (dạng phù hợp cho người) có ở trang:

http://www.TheWolfeClinic.com/cesium.html

Có thuốc viên đủ loại – 10 mg, 50 mg, 100 mg, 500 mg và 1.000 mg. Một lọ 100 viên 500 mg, giá 75 đô-la. Một lọ 100 viên 10 mg giá 29,95 đô-la. Bác sĩ Wolfe sẵn sàng tư vấn liều dùng qua điện thoại. Đau đớn hiển nhiên sẽ thuyên giảm, kể cả ung thư giai đoạn cuối.

Họ không thể gửi thuốc đến địa chỉ ở Canada mà chỉ có thể gửi trong nước Mỹ. Gửi thuốc đi các nước ngoài Mỹ phụ thuộc vào luật Hải quan nước đó.

Đặt hàng tối thiểu ba lọ một lần. Có thể là các loại khác nhau. Họ chuyển hàng trong bốn đến sáu ngày làm việc hoặc qua đêm, nếu bạn yêu cầu. Phòng khám đặt tại British Columbia, theo múi giờ Tây Bắc Mĩ. Bạn có thể liên hệ với họ số (800) 592 – 9653 hoặc (250) 765 – 1824.

Cảnh báo!

Một bạn đọc có kinh nghiệm với chất này cảnh báo bạn phải uống thuốc này khi ăn. Bà nói, nếu không có thể sẽ bị chảy máu và đau rát dạ dày. Bạn cũng phải dùng với ka-li (potassium) và những thực phẩm bổ sung khác để tránh tim đập nhanh.

Một bạn đọc khác có một số kinh nghiệm với chất này cảnh báo đừng thử tự điều

trị.

Lưu ý quan trọng: xê-di gây ra sự giảm nồng độ ka-li trong máu. Điều bắt buộc là ka-li trong máu của bạn phải được kiểm tra. Sản phẩm này tốt và hữu ích, tuy nhiên, nó phải được lưu tâm vì nó có thể đưa tới tình trạng tim được gọi là hội chứng Q-T kéo dài, đòi hỏi sự can thiệp của y tế.

Căn cứ vào điều trên, chúng tôi đề nghị bạn chỉ dùng clo- rua xê-di dưới sự giám sát y tế chuyên nghiệp.

Poly-MVA

Nhiều bạn đọc đã báo cho Bill về chất Poly-MVA. Nó được xem như chất có giá trị cả trong phòng ngừa và tự-điều trị.

Poly-MVA (MVA = mineral – khoáng, vitamin và amino acid – a-xít amin) là chất chống ô-xy hóa không độc bao gồm an-pha a-xít li-pô-íc, thành phần pa-la-đi. Poly-MVA được phát triển ở Mỹ bởi bác sĩ Garnett – người phát hiện ra Mã di truyền II (Second Gienetic Code) và đã được chứng minh là hiệu quả đối với nhiều bệnh suy thoái, kể cả ung thư.

Qua internet, những nghiên cứu của chúng tôi đã khiến cho Bệnh viện ung thư Poly-MVA và u bướu não (Advanced Brain Tumor and Cancer Poly-MVA Hospital) ở Tijuana, Mexico trở thành một trong những trung tâm điều trị đầu tiên dùng liệu pháp này. Khởi đầu 23 năm trước đây với điều trị u não, hiện nay họ xác định liệu pháp này là hiệu quả cho hầu như tất cả các loại ung thư.

Để xem các giấy chứng nhận và đặt hàng trực tuyến, hãy vào các trang web:

www.polymva.net;

www.polymvasurvivors.com

Bí ẩn

Một trong những người sống sót hiện là bạn của Bill. Bà ấy thu xếp cho ông nói chuyện với nhóm Bữa trưa của nữ doanh nhân ở Austin, Texas.

Vậy, cái gì là bí ẩn? Tại sao không đủ điều kiện là một phương pháp tự điều trị tốt? Đó là chữ – đắt!! Một lọ tám oz (~227gram) giá 330 đô-la. Một tháng dùng phải bốn lọ như thế. Theo chúng tôi, nhiều lựa chọn đơn giản hơn và rẻ hơn cũng hiệu quả như thế.

NHỮNG PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ UNG THƯ KHÁC

Trong phần này, chúng tôi sẽ tóm tắt tất cả những phương pháp điều trị ung thư “thay thế” khác mà chúng tôi đã tìm được trong nhiều năm nghiên cứu. Trong quá trình tìm hiểu, bạn hãy tự hỏi câu hỏi hiển nhiên: “Tại sao chí ít một trong các phương pháp này cũng không thôi thúc nổi cộng đồng nghiên cứu ung thưchính thức nghiên cứu tiếp?”

Cộng hưởng điện RIFE / BARE

Chữa ung thư và cộng hưởng tần số điện gặp nhau lần đầu tiên vào những năm 1930. Bác sĩ Royal Rife đã dựng lên thiết bị này. Năm 1934 các nhà vật lý của trường Đại học Southern California được cho là đã triển khai thử nghiệm lâm sàng. Ngày ấy máy được nhiều bác sĩ sử dụng, nhiều người đang hành nghề có thành công lớn với máy này. Thành công của Rife rất rõ rệt, hội đồng y tế đưa ra cho Rife 16 bệnh nhân ung thư ở Scripps Ranch, California. Kết quả? Trong vòng 60 ngày, 14 trên 16 người được tuyên bố đã được chữa khỏi ung thư. Hai người còn lại được tuyên bố chữa khỏi trong vòng 60 ngày kế tiếp. Ngay sau đó, Rife và những người hành nghề có máy phát tần số Rife bị bức hại, hoặc bị thu hồi giấy phép y tế.

Thiết bị của Rife dùng cộng hưởng tần số vô tuyến có khả năng tiêu diệt hoặc làm hao mòn sinh lực những tế bào đặc trưng vi sinh vật. Nó được cho là có khả năng loại

bỏ bệnh đục thủy tinh thể mắt bệnh nhân.

Từ nhiều nguồn, chúng tôi được biết máy hiệu quả nhất trên thị trường hiện nay sử dụng công nghệ Rife là GB – 4000. Nó có lựa chọn “nâng cấp” gọi là M.O.P.A. Bác sĩ Garcia có máy đó cho bệnh nhân của ông tại Utopia Wellness.

Để biết thêm thông tin về máy này và một mức giá giảm giá, chúng tôi khuyên bạn liên hệ với Ron Strauss ở California tại số (707) 928 – 4170 (giờ Thái Bình Dương).

“Điều trị mọi ung thư” (?)

Tiến sĩ Hulda Regehr Clark là một người đặc biệt. Chúng tôi tin bạn sẽ thấy cuốn Điều trị tất cả ung thư (The Cure For All Cancers) của bà thú vị như đối với chúng tôi. Xuất bản năm 1993, cuốn sách dẫn chứng không chỉ 100 trường hợp ung thư bà đã đích thân điều trị mà còn những hướng dẫn thiết lập một thiết bị điện tử để sao chép những xét nghiệm của bà.

Giả thuyết của bác sĩ Clark là các ký sinh và sán trong ruột gây nên tất cả ung thư. Luận án tiến sĩ của bà là về Lý-sinh (biophysics) và Sinh lý (physiology). Sau 11 năm làm việc với chính phủ Canada về các dự án nghiên cứu, bà bắt đầu công việc tư vấn cá nhân năm 1979. Năm 1990, bà đưa lý thuyết của bà vào nguyên nhân ung thư và chữa trị.

Bác sĩ Clark quả quyết ký sinh đến từ mọi thứ độc hại trong thực phẩm của chúng ta, nước, mỹ phẩm và thậm chí đầy trong miệng của chúng ta. Ăn uống bằng dụng cụ nhựa, xốp là “cấm kị”. Thực tế, bà kê ra vô số dụng cụ hàng ngày chứa dấu vết của 33 “hóa chất trái tự nhiên” gây hại cho cơ thể (thạch tín, ba-ri, cô- ban, chì, thiếc và nhiều nữa).

Bà đề nghị những hạn chế rất nghiêm khắc cho cuộc sống của bạn nhằm tránh những “nguyên nhân gây ung thư”, mà phần lớn chúng ta đơn giản là chịu thua, cũng như chúng tôi. Ví dụ, bạn phải dừng hút thuốc (ý tưởng tốt!); thay ống nước đồng bằng ống nhựa; vứt bỏ tất cả hóa chất trong nhà; tìm bạn cho thú nuôi; tống khứ mọi nguồn amiăng (máy sấy tóc và sấy quần áo); kiểm tra ra-đông (phân giải của radi) trong nhà bạn; loại bỏ tất cả có thể có (nếu phòng ngủ có ốp thì vứt bỏ đi và khóa cửa); vứt bỏ tất cả thạch tín có thể có (keo dán giấy tường, thuốc diệt gián; hóa chất vải ba-tít, v.v…); kiểm tra sợi thủy tinh trong nhà; và kiểm tra rò rỉ ga nấu và ga đun nước lò sưởi.

Bà không chấp nhận. Bạn còn phải loại bỏ tất cả kim loại khỏi miệng và nhổ bỏ răng bị nhiễm khuẩn và xử lý “những chỗ trống” trong hàm bằng phẫu thuật miệng. Chúng tôi đồng ý với bà rằng chất độc thoát ra từ răng không được (chính giới) thừa

nhận là nguyên nhân của nhiều bệnh.

Lý thuyết của bác sĩ Clark về nguyên nhân gây ung thư không “gốc rễ”. Bà nói đến “những đột biến” tế bào, giống bác sĩ Roizen đã nói [trong Chương 2]. Luận điểm của bà là bà đã phát hiện ra NGUYÊN NHÂN của đột biến. Đó là “sán trong ruột” di trú chủ yếu nhờ sự hiện diện trong cơ thể rượu đồng phân (isopropyl alcohol).

Bác sĩ Clark đã thêm nhiều vào sự hiểu biết về nguyên nhânvà điều trị ung thư. Không có nghiên cứu nào về phương pháp điều trị thay thế/bổ sung được trọn vẹn nếu không tham vấn công trình của bà. Giống như những người tiên phong khác, bà cũng bị “hệ thống” y tế “ngược đãi”. Năm 1999 FBI bắt bà ở San Diego và dẫn độ bà đến Indiana, ở đó bà đã thử “hành nghề y không giấy phép”. Sau khi bà phải ở tù nhiều tháng, mọi chi phí đã không được thừa nhận tại phiên xét xử tháng 4 năm 2000.

Bác sĩ Clark sau đó vận hành một trong nhiều phòng khám ung thư ở Tijuana, Mexico cho đến khi bà qua đời năm 2009. Bạn có thể xem đầy đủ chuyện về bác sĩ Clark kể cả sơ bộ công việc trong tù của bà hồi năm 1999 tại:

http://www.drclark.ch

Trang web này còn có hơn 100 giấy chứng nhận chi tiết của các bệnh nhân ung thư được chữa khỏi nhờ sử dụng phương pháp của bà.

Tóm lại, có những phương pháp thoát khỏi ung thư rẻ hơn, tốt hơn và dễ hơn là những đề nghị của bác sĩ Clark.

“Theo cách của riêng chúng ta”

Năm 2000 Bill xem chương trình TV dài sáu tiếng của Bill Moyer mang tên Theo cách của riêng chúng ta (On Our Own Terms) chủ đề chết và đang chết.

Cuộc phỏng vấn với những người đang chết, người chăm sóc họ và các bác sĩ là hết sức xúc động. Nó đưa Bill trở lại với những ký ức về trải nghiệm của ông với người vợ quá cố – Marjorie. Nó cũng khiến ông vô cùng thất vọng khi xem cái chết và sự chịu đựng vô ích đang diễn ra hàng ngày vì phớt lờ những gì bạn đang đọc ở đây.

Thời điểm khác nữa khiến Bill xúc động vào năm 2006 là khi xem phim “Wit” của Emma Thompson. Nếu bị ung thư, bạn cần xem phim này.

Không có liệu pháp thay thế nào chúng ta đang đề cập ở đây thực sự rút ngắn cuộc sống của bạn như các liệu pháp hóa trị và xạ trị. Chúng không tiêu diệt hệ miễn dịch như các liệu pháp hóa trị và xạ trị. Chúng không-độc và không-can thiệp. Thậm chí

cả khi không chữa lành được cho bệnh nhân, chúng cũng không giết họ.

Bác sĩ Alan Levin Trường Y Tổng hợp California nhận xét: “Phần lớn bệnh nhân ung thư trên đất nước này chết do hóa trị. Liệu pháp hóa trị không loại bỏ được ung thư vú, ruột và phổi. Thực tế này đã được minh chứng qua hơn một thập niên… Phụ nữ ung thư vúchạy hóa trị gần như tử vong nhanh hơn không chạy hóa trị.”

Như bạn đã đọc các liệu pháp chữa trị khác nhau trong sách này, hãy nhớ rằng chúng được nói đến ở đây vì đã chữa khỏi cho ít nhất một vài bệnh nhân ung thư. Không giống y học chính thống, chúng tôi không định nghĩa “chữa khỏi” là sống thêm năm năm. Chúng tôi định nghĩa “chữa khỏi” là khả năng trở lại với cuộc sống bình thường và duy trì nó vô hạn định bằng một triển vọng sống thông thường.

Liệu pháp antineoplaston

Dưới đây là một ví dụ kinh điển về việc hệ thống học của chúng ta phản ứng ra sao đối với một khám phá có thể làm thay đổi tận gốc niềm tin hiện hữu. Phản ứng tiêu cực đồng hành với trừng phạt công khai những người tiên phong trong y học đã kéo dài nhiều năm tháng.

Bác sĩ Stanislaw Burzynski sinh ở Ba lan – là bác sĩ hóa sinh ở Houston, Texas nói: “Cơ thể có khả năng tự xử lý ung thư”. Ông đã khám phá một nhóm các peptides (chuỗi ngắn các a-xít amin) và các dẫn xuất a-xít amin xuất hiện tự nhiên xuyên suốt cơ thể chúng ta ngăn cản sự phát triển của tế bào ung thư.

Theo ông, những chất đó là một phần của hệ phòng thủ hóa sinh khác hoàn toàn với hệ miễn dịch của chúng ta. Không như hệ miễn dịch bảo vệ chúng ta khỏi sự phá hoại của những tác nhân xâm nhập hoặc tế bào khiếm khuyết, hệ phòng thủ hóa sinh lập trình lại hoặc chỉnh sửa các tế bào khiếm khuyết. Nó mang thông tin “tốt” đến tế bào bất thường, chỉ dẫn chúng phát triển bình thường. Điều này có làm bạn nhớ lại tế bào “hiệu chỉnh” chúng ta đã trao đổi ở trên không? Cơ thể chúng ta là sự sáng tạo cực kỳ phức tạp.

Bác sĩ Burzynski gọi những peptides đó là chống khối u (anti-neoplastons) vì khả năng ngăn cản phát triển tế bào khối u hay ung thư. Ông khám phá các bệnh nhân ung thư thiếu trầmtrọng những hợp chất đó trong cơ thể. Mẫu máu của bệnh nhân ung thư nặng lộ ra chỉ có 2 đến 3% tổng lượng thấy trong những cá thể khỏe mạnh điển hình. Nhờ cách đơn giản là đưa lại các peptides vào máu của bệnh nhân, bằng uống thuốc hoặc truyền tĩnh mạch, ông khiến cho khối u co lại hoặc biến mất hoàn toàn. Trong nhiều trường hợp, chỉ vài tuần sau khi bắt đầu điều trị, khối u đã nhỏ lại hoặc mất hẳn.

Kể từ khi Viện nghiên cứu Burzynski (BRI) thành lập năm 1997, bác sĩ Burzynski đã điều trị khoảng 4.000 bệnh nhân ung thư hầu hết trong giai đoạn cấp. Đánh giá của các chuyên gia qua tài liệu ông đã công bố (khoảng 150 bài báo khoa học) thì công việc điều trị của ông ít nhất là trên một số bệnh nhân. Thực tế, ông điều trị 20 bệnh nhân bằng liệu pháp chống ung thư antineoplaston ở 16 nước. Bác sĩ Burzynski nói liệu pháp chống ung thư antineoplaston không phải là có hiệu quả cho tất cả các loại ung thư hay tất cả các bệnh nhân ung thư.

Khám phá Burzynski được nước ngoài hào hứng theo đuổi. Các nghiên cứu lâm sàng đang được tiến hành ở Nhật, Ba Lan, Anh, Italy và Trung Quốc. Tháng 9 năm 1990 Viện nghiên cứu Burzynski đã gửi thư ngỏ cho công ty dược lớn của Liên Xô là Ferment để tiến hành các xét nghiệm lâm sàng với liệu pháp chống ung thư antineoplaston trên bệnh nhân ung thư ở Nga.

Còn tại Mỹ “chính giới” ung thư tiếp nhận công trình của ông ra sao? Vâng, chắc bạn đã đoán ra. Công việc của ông bị giải tán như thủ đoạn lang băm bởi các cơ quan chính phủ phối hợp chặt chẽ với nhau như Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) và Viện Ung thư Quốc gia (NCI). Khi các bác sĩ ung thư được bệnh nhân hỏi về bác sĩ Burzynsski đều trả lời rằng ông ấy không công bố gì cả.

Tháng 3 năm 1983 FDA đã khởi kiện bác sĩ Burzynski nhằm gạt ông ra khỏi công việc. Họ đã buộc Burzynski và Viện của ông chấm dứt mọi nghiên cứu, phát triển, sản xuất và sử dụng antineoplaston. Tòa án Liên bang vẫn cho phép bác sĩ tiếp tục nghiên cứu và điều trị nội trong bang Texas nhưng không cho ông được vận chuyển thuốc qua ranh giới tiểu bang.

Tháng 7 năm 1985 các nhân viên FDA và cảnh sát liên bang được trang bị bằng trát nghiên cứu bất hợp pháp tiến hành lục tìm “những vi phạm” mờ ám đã khám xét bất ngờ Viện nghiên cứu Burzynski và đã giữ hơn 200.000 tài liệu mật bao gồm cả các ghi chép y học cá nhân. Họ xem qua thư tín cá nhân của bác sĩ Burzynski và thu giữ cặp tài liệu của ông. Các nhân viên liên bang đã khuân được 11 ngăn tài liệu của ông lên xe tải trong sự vi phạm làm tổn thương thể chất và các quyền tự do cơ bản của ông. Bác sĩ Burzynski đã kiện FDA đòi trả lại các ghi chép của ông, nhưng toàn bộ tài liệu vẫn trong tay FDA cho đến hôm nay.

Năm 1988 Hội đồng thẩm tra Y tế Bang Texas đã cố thu hồi giấy phép y tế của Burzynski vì những khoản thù lao chuyên môn vụn vặt chẳng liên quan gì với chất lượng chăm sóc ông đã cung cấp. Hàng trăm thư ủng hộ của các bệnh nhân của Burzynski, gia đình họ và bè bạn đã được gửi đến hội đồng. Lá thư dưới đây của em thiếu niên vùng Trung Tây là một điển hình:

“Cháu 13 tuổi và có một em trai 7 tuổi. Chúng cháu rất yêu bố.Nhờ phép điều trị

của bác sĩ Burzynski khối u của bố cháu đã ngừng phát triển. Tất cả các bác sĩ ở tiểu bang Missouri của cháu đều nói là bệnh của bố cháu đã hết phương cứu chữa. Bác sĩ Burzynski đã choông một cơ hội sống lại. Xin đừng lấy đi điều đó của chúng cháu.”

Còn nhiều nữa cho câu chuyện này. Nếu bạn muốn biết đầy đủ câu chuyện và một số nghiên cứu, hãy xem phim tài liệu qua máy tính của bạn hoặc mua DVD mang tên The Burzynski Movie tại:

http://www.BurzynskiMovie.com.

Thông tin liên hệ đến phòng khám Houston của bác sĩ Burzynski có trong Phụ lục

A.

Một trải nghiệm cá nhân

Thông tin Bill có về Burzynski không phải chính gốc, mà là qua người người bạn thân của Bill gọi là “Paula” (không phải tên thật của cô) đã bị cắt bỏ tử cung vào ngày 17 tháng 9 năm 2001. Bệnh án chỉ rõ các tế bào ung thư u xơ tử cung trong bờ của tử cung. Vài ngày sau khi mổ, cô bắt đầu dùng magesterol – một lượng hoóc-môn.

Phục hồi tốt, cô bắt đầu dùng vài sản phẩm CAM – MGN-3, beta glucan, sụn cá mập và vi khuẩn háo a-xít. Cô cảm thấy ổn.

Paula và chồng cô đọc rất nhiều tài liệu về ung thư, kể cả cuốn sách đầu tiên của Bill là Chữa trị Ung thư của bạn (Cure Your Cancer). Họ quyết định đến Phòng khám Burzynski ở Houston, Texas (bất chấp cảnh báo của Bill). Sau khi gửi hồ sơ của Paula được một vài tuần, họ đến phòng khám cuối tháng 10 năm 2001. Trải nghiệm của họ là chẳng chút gì tích cực.

Sau khi chờ một tiếng quá giờ hẹn, họ được một trong các bác sĩ tiếp. Paula nói với ông ta rằng chắc cô sẽ không phải chờ đợi cả tiếng nếu cô là Jane Seymour hay một trong những người nổi tiếng khác mà ảnh của họ treo đầy trên các bức tường bắt mắt của tòa nhà phòng khám.

Cuộc nói chuyện của họ với bác sĩ chứng tỏ ông ta không hề xem qua hồ sơ của Paula. Việc này, hiển nhiên là khiến họ lo lắng.

Paula đã có cuộc trao đổi với chính bác sĩ Burzynski. Paula đã hỏi ông xem ông có các thống kê về điều trị thành công với u nang buồng trứng như cô không. Ông nói họ không có đủ cơ sở để tính toán tỉ lệ thành công. Cô cũng hỏi ông tên một vài bác sĩ CAM – thiện cảm ở San Antonio. Ông nói sẽ lấy cho cô một vài cái tên.

Về phần Paula, cô được cho lượng lớn thuốc gọi là PBN (na-tri phenylbutyrate). Cô được dặn bắt đầu uống 1 viên sau mỗi hai tiếng, sáu lần một ngày. Tăng dần đến 9 viên mỗi hai tiếng. Họ nói cứ tiếp tục uống MGN-3, nhưng dừng beta glucan và vi

khuẩn háo a-xít lại vì chúng trở ngại cho trị liệu này.

Lúc đạt đến mức 54 viên thuốc mỗi ngày, Paula đã rất ốm. Cô rất buồn nôn, không thể tiếp tục duy trì thuốc Burzynski hay thuốc nào khác hay thức ăn. Cô gọi đến phòng khám Burzynski. Bác sĩ bảo dừng PBN lại cho đến khi hết buồn nôn, sau đó bắt đầu lại từ mức thấp nhất.

Khi Paula hỏi tên một số bác sĩ CAM – giỏi mà bác sĩ Burzynski đã hứa, vị bác sĩ nói bác sĩ Burzynski đang ở ngoài thành phố và ông ấy không biết gì về việc đó đâu.
Paula đã qua đời đầu năm 2003. Chồng cô nói cô đã chẳng thể kiểm soát những thèm khát đồ ăn không tốt cho sức khỏe.

Những thống kê Burzynski công bố không thực sự ấn tượng. Ví dụ họ chỉ ra tháng 7 năm 2001 tỉ lệ “đáp ứng mục tiêu” cho cả ung thư ruột và ung thư vú là 57,2%. Còn lại thì hoặc là “bệnh không thuyên chuyển” hoặc “bệnh nặng lên”. Đáp ứng mục tiêu nghĩa là “giảm kích thước khối u đáng kể hoặc giảm một phần hoặc hoàn toàn”.

Chi phí lên đến 4.500 đô-la/MỘT THÁNG. Họ chỉ đảm nhận bệnh nhân ngoại trú. Chi phí xem ra chỉ dành cho đi khám (khoảng sáu tuần một lần, như trường hợp của Paula) và thuốc, trong khi một số công ty bảo hiểm chỉ thanh toán phí điều trị, còn phí thăm khám thì không.

Một số khách hàng khác của Bill gần đây đã báo cáo rất tiêu cực về điều trị Burzynski. Một khách hàng đã chi hơn 90.000 đô-la vào nó và đã không được chữa bệnh gì cả.

Hiển nhiên chúng tôi không phải là người hâm mộ phương pháp điều trị Burzynski.

Chúng tôi có thể xét đến nó chỉ như giải pháp cuối cùng cho u não.

Bây giờ thì đây là một phương pháp mới và tiếp cận cực kỳ rẻ so với phương pháp Burzynski: Chỉ cần uống nước tiểu của bạn. Với những người nghĩ rằng chúng tôi đang đùa, chúng tôi không. Nước tiểu là vô trùng. Nước tiểu là nơi tập trung các pep-tít chống neoplaston. Nó có thể không làm việc, nhưng nó sẽ không làm tổn thương bạn và chi phí là số không.

Gaston Naessens và hỗn hợp 714-X

Nhà sinh học Pháp sống ở Canada, Gaston Naessens đã phát triển một phương pháp điều trị không-độc cho ung thư và các bệnh suy thoái khác. Đó là 714-X, hợp chất này là dung dịch nước ni-tơ làm giàu với phân tử long não. Long não là chất tự nhiên chủ yếu lấy từ cây long não ở Đông Á. Hợp chất long não – ni-tơ được tiêm vào hệ bạch huyết của cơ thể giúp làm khỏe lên hệ miễn dịch đã bị tàn phá, từ đó giải thoát cơ thể khỏi bệnh tật.

Dựa trên 40 năm nghiên cứu vi thể và sinh học, phép điều trị Naessen đã phục hồi sức khỏe cho hàng trăm bệnh nhân ung thư, nhiều người trong số họ đã được các bác sĩ chính thống chẩn đoán là giai đoạn cuối. Rất nhiều bệnh nhân trải nghiệm những ích lợi ấn tượng, kể cả khỏi đau, ngon miệng hơn và tăng cân, khỏe hơn, bớt cảm giác buồn nôn và cảm thấy khỏe mạnh. Đợt điều trị gồm tiêm hàng ngày ít nhất ba chu kỳ 21-ngày, ba ngày nghỉ giữa chu kỳ. Ung thư cấp và di căn được đề nghị trung bình 7 đến 12 chu kỳ. Bệnh nhân được dạy tự – quản lý điều trị.

Một lần nữa, thông tin chi tiết khoa học của phép điều trị này và các trường hợp nghiên cứu cụ thể có trong cuốn Lựa chọn (Option) của Richard Walters nói trên. Bạn cũng có thể tìm thấy ở đó thông tin chi tiết về nguồn cung cấp chất và phép điều trị. Chúng tôi sẽ không nói chi tiết thêm nữa vì chúng tôi tin tưởng các chất khác kể trên sẵn có hơn và ít nhất cũng có cùng hiệu quả.

Không có gì ngạc nhiên giới quyền lực y tế Canada đã săn đuổi Naessens. Tổ hợp dược Quebec đã không thừa nhận phép điều trị của ông vì cho là không có giá trị. Tuy nhiên người dân Canada có thể lấy 7140-X qua chi nhánh thuốc cấp cứu của chính phủ liên bang cho bệnh nhân mắc các bệnh suy thoái (ung thư, AIDS,…)

Nghiên cứu của ông chia sẻ nhiều điểm chung với những nghiên cứu ung thư khác. Khám phá của ông về các tổ chức nhiều hình dạng (hình dạng thay đổi) trong máu đi theo lý thuyết miễn dịch của Virginia Livington và máy phát tần số điện do Royal Rife phát triển.

Liệu pháp Revici

Bác sĩ Emanuel Revici đã phát triển một cách tiếp cận độc đáo khác cho điều trị bệnh nhân ung thư. Liệu pháp hóa trị không-độc của ông sử dụng li-pít và những chất khác để hiệu chỉnh sự thiếu cân bằng trong đặc tính hóa học của bệnh nhân. Li-pít – hợp chất hữu cơ gồm các a-xít béo (fatty acids) và sterol – là những phần quan trọng của tất cả tế bào sống.

Ông sinh ở Rumani, làm việc ở New York, ông đã áp dụng rộng rãi những khám phá của mình trong hơn 60 năm điều trị ung thư. Đại đa số bệnh nhân ung thư của ông đều trong giai đoạn cuối của bệnh. Sau nhiều năm được ông điều trị, một số bệnh nhân đã thuyên giảm và không có dấu hiệu ung thư hoạt động nữa.

Góp ý kiến cho cuốn sách xuất bản năm 1961 của Revici, Nghiên cứu Sinh lý bệnh học, cơ sở hướng dẫn hóa trị với những ứng dụng đặc biệt cho ung thư (Research in Physiopathology as a Basis of Guided Chemotherapy with Special Applications to Cancer), bác sĩ Gerhard Schrauzer, trưởng bộ phận xê-len (selenium) đã viết: “Tôi đi đến kết luận bác sĩ Revici là một thiên tài đổi mới y học, nhà hóa học kiệt xuất và

nhà tư tưởng sáng tạo đỉnh cao. Tôi cũng phải thừa nhận rằng ít ai trong các đồng nghiệp y tế của ông có khả năng theo đuổi chuỗi suy nghĩ của ông và vì thế tất cả rất sẵn sàng từ bỏ công trình của ông”.

Cách chữa bệnh của bác sĩ Revici là cho từng cá nhân. Một bệnh nhân, người đàn ông 43 tuổi được chẩn đoán xâm lấn ung thư bàng quang độ cao tại Trung tâm ung thư Sloan-Kettering (Memorial Sloan-Kettering Cancer Center) năm 1980. Họ nói, “Cách duy nhất có thể điều trị là bỏ bàng quang và cấp một bọng đái giả bên ngoài”. Ông ấy nói không. Bệnh nhân đến bác sĩ Revici tháng 10 và theo liệu pháp của ông. Ông không có điều trị nào khác nữa. Năm 1987 ông quay lại Sloan-Kettering để soi bọng đái thì phát hiện ông đã thoát khỏi ung thư.

Một bệnh nhân khác là phụ nữ 29 tuổi đã mổ ở Sloan-Kettering tháng 10 năm 1983 về u nguyên sống (chordoma) – một u não. Khối u không được lấy đi hoàn toàn và cô được cho chạy một đợt xạ trị. Tình trạng của cô liên tục xấu đi trong suốt 12 tháng sau phẫu thuật. Bác sĩ Revici gặp cô lần đầu vào tháng 5 năm 1984. Khi đó cô đã bị giam hãm trên xe lăn với hoạt động hạn chế. Cô bắt đầu chương trình Revici. Sau đó cô sinh con hai lần và sống tốt. Vấn đề duy nhất là cô phải đi lại với gậy chống.

Liệu pháp chữa ung thư không-độc của Revici chưa từng nhận được thử nghiệm công bằng hay tài trợ trong nước Mỹ. Chắc bạn cũng chẳng ngạc nhiên gì khi đọc đến đây. Phương pháp của ông được chính thức nghiên cứu và đưa vào thực nghiệm ở Pháp, Italy và Áo. Ông là một bác sĩ xuất chúng tốt nghiệp hạng ưu trong lớp ở Trường Tổng hợp Bucharest.

Truyền thông Mỹ mô tả ông như lang băm và bị tống ra khỏicông việc. Năm 1984 tiểu bang New York đã cố gắng thu hồi giấy phép của ông vĩnh viễn, vì sai lệch với y tế chuẩn, cẩu thả, không đủ năng lực, lừa gạt, sử dụng thuốc chưa qua kiểm nghiệm và những thứ tương tự. Sau bốn năm đấu tranh, tháng 7 năm 1988 Revici đã chiến thắng. Quyết định của Tòa án cho phép ông tiếp tục điều trị bệnh nhân ung thư.

Để bảo vệ giấy phép của ông, nhiều bệnh nhân của Revici và các nhóm quyền tự do y tế đã vận động rộng khắp tại trụ sở Quốc hội bang. Ở cấp liên bang, dân biểu New York Guy Molinari dành nguyên cả ngày trong tháng 3 năm 1988 nghe vấn đề Revici và toàn bộ phương pháp điều trị ung thư thay thế. Bác sĩ Seymour Brenner là một bác sĩ ung thư đáng kính có phòng khám riêng ở New York đã thay mặt Revici làm chứng.

Bác sĩ Brenner đã điều tra một số bệnh nhân ung thư tìnhtrạng cấp và không chữa được bằng phương pháp chính thống. Revici đã làm cho mỗi người trong họ thuyên giảm bền vững. Bác sĩ Brenner có một nhóm các nhà nghiên cứu bệnh học độc lập khẳng định chẩn đoán và giai đoạn đau ốm của mỗi bệnh nhân trước khi đến khám

Revici lần đầu. Ông xác nhận qua những phát hiện của cá nhân, ông đề xuất mạnh mẽ rằng Revici có phương pháp điều trị ung thư xứng đáng được nghiên cứu thêm và đề nghị FDA chỉ đạo đánh giá.

Trong thư gửi dân biểu Molinari, Brenner kê ra biên bản trong đó nhóm các bác sĩ muốn kiểm soát các bệnh nhân ung thư đang điều trị phương pháp thay thế. Tất cả các bệnh nhân này là công khai không thể điều trị được bằng phương pháp chính thống.

Trong thư có chi tiết những sự kiện của 10 bệnh nhân ung thư cấp được bác sĩ Revici chữa khỏi.

Nay đã gần 50 năm kể từ khi bác sĩ Revici phát triển liệu pháp hóa trị không-độc. “Chính giới” ung thư chưa từng làm một đánh giá vô tư và cởi mở. Một lần nữa, công nghiệp ung thư thành công trong việc đàn áp phép điều trị thay thế không-độc đã chỉ ra hứa hẹn thay thế hoặc ít nhất làm tăng hiệu quả hóa trị và xạ trị độc hại.

Một cuốn sách thú vị về bác sĩ Revici chữa khỏi ung thư của William Kelley Eidem được xuất bản vào năm 1997. Sách có tên Bác sĩ chữa khỏi ung thư (The Doctor Who Cure Cancer). Ông Eidem tự chữa khỏi nhờ sử dụng những phương pháp của Revici và đã phỏng vấn bác sĩ Revici khi ông 98 tuổi. Ông đã làm một công việc tuyệt vời là ghi và viết lại công trình của bác sĩ Revici.

Nếu kiểu đàn áp và nhạo báng các phương pháp chữa trị ung thư hứa hẹn có làm bạn quan tâm, thì bạn tìm 12 tài liệu trong sách Chính trị trong chữa bệnh (Politics In Healing) của Daniel Haley. Các bạn rất nên đọc cuốn sách này!

Chống Cachexia bằng Hydrazine

Cachexia là quá trình ốm yếu gầy mòn giết chết 2/3 bệnh nhân ung thư, kể cả người vợ quá cố của Bill – Magre. Hydrazine sulyate đảo lộn được đáng kể quá trình này. Thuốc này không đắt tiền, không có tác dụng phụ. Được chứng minh lâm sàng có tác dụng chống khối u, làm khối u ác tính ngưng phát triển, giảm kích thước và biến mất trong một vài trường hợp.

Khoảng một nửa bệnh nhân dùng Hydrazine sulyate trải nghiệm tăng cân, ngon miệng trở lại, kéo dài thời gian sống, và đặc biệt giảm đau và sự hành hạ. Nhiều bệnh nhân báo cáo một sự tăng trưởng sinh lực, sức khỏe và biến mất các triệu chứng bệnh tật cùng với cảm giác khỏe mạnh và lạc quan.

Trong khi Hydrazine sulyate có thể chưa phải là phương pháp cứu chữa chắc chắn-chống lại ung thư, thì nhiều thử nghiệm lâm sàng phạm vi rộng chỉ ra tác động lên các loại khối u ở các giai đoạn. Có thể sử dụng đơn lẻ hoặc phối hợp với hóa trị cản phân bào (cytotoxic) và xạ trị làm cho ung thư dễ bị tổn thương hơn với các dạng

điều trị chuẩn.

Bác sĩ Joseph Gold khám phá ra các hiệu ứng của Hydrazine sulyate năm 1968. Ung thư có hai ảnh hưởng tiêu cực chủ yếu lên cơ thể. Một là sự xâm lấn của các khối u vào trong các cơ quan quan trọng và tàn phá các chức năng của cơ quan. Với công chúng, điều này nghe như thể là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra tử vong ung thư. Thực tế, điều này [sự xâm lấn] chiếm tới 23% tỉ lệ tử vong do ung thư mỗi năm.

Ảnh hưởng tiêu cực khác của ung thư là cachexia, quá trình ốm yếu gầy mòn thê thảm của cơ thể. Nghĩa là giảm cân và suy nhược. Trong ung thư, cũng như trong AIDS, bệnh nhân chết vì đau ốm kèm theo, đáng lẽ họ vẫn sống nếu không bị hội chứng hao mòn.

Bác sĩ Harold Drovak, trưởng khoa nghiên cứu bệnh tại Bệnh viện Beth Israel ở Boston lưu ý: “Trong một nghĩa nào đó, không ai chết vì ung thư. Họ chết vì bệnh khác – viêm phổi, suy yếu cơ quan này hay những cơ quan khác. Cachexia thúc đẩy nhanh quá trình nhiễm độc và tích tụ chất độc chuyển hóa. Cachexia gây chếtchóc nhanh hơn là do khối u.”

Nhưng cái gì tạo ra cachexia? Tế bào ung thư nuốt nghiếnngấu đường từ 10 đến 15 lần nhiều hơn tế bào bình thường. Tế bào ung thư tiêu thụ đường được sinh ra chủ yếu từ gan khi biến a-xít lactic thành đường glucose. (Các tế bào bình thường sử dụng đường glucose hiệu quả hơn nhiều, chúng lấy glucose từ thức ăn ta ăn, không từ a-xít lactic).

Khi tế bào ung thư sử dụng đường (glucose) như nhiên liệu, chúng chỉ chuyển hóa một phần. Sản phẩm thải của sự đốt cháy không hết này là a-xít lactic chảy vào máu và được đưa lên gan. Khi đó gan tái chế a-xít lactic (và các sản phẩm phân rã khác) trở lại thành đường glucose. Lượng đường tiêu thụ bởi các tế bào ung thư tham lam tăng liên tục.

Kết quả là một chu kỳ xấu, bác sĩ Gold gọi là “quan hệ bệnh” giữa gan và ung thư. Tế bào khỏe của bệnh nhân đang bị đói, trong khi tế bào ung thư tăng trưởng mạnh mẽ. Một số tế bào khỏe thậm chí tan rã ra để nuôi tế bào ung thư phát triển.

Để cắt quan hệ bệnh này, bác sĩ Gold biện luận chặt chẽ rằng tất cả những gì ông cần là tìm ra thuốc không-độc và an toàn ngăn cản hình thành glucose (nghĩa rộng tức là gan tái sinh a-xít lactic trở lại thành glucose). Năm 1968 ông đưa ra thuyết trong bài báo được công bố ở tạp chí Ung thư học, ông gọi là Sự im lặng chói tai (The silence was deafening).

Năm sau, thật trùng hợp, bác sĩ Gold được biết nhà sinh hóa Paul Ray có bài viết giải thích Hydrazin sulfxat có thể ngắt enzyme cần thiết để sản xuất glucose từ a-xít lactic. Bác sĩ Gold đã tình cờ tìm thấy cách rất hợp lý bỏ đói ung thư. Ngay lập tức

ông thí nghiệm Hydrazin sulfattrên chuột và thấy phù hợp với thuyết của ông, thuốc ngăn chặn hình thành glucose và tăng trưởng khối u.

Đây chỉ là một trong nhiều trường hợp nghiên cứu về tác động ấn tượng của Hydrazin sunfat. Năm 1987, Erna Kamen, một bệnh nhân ung thư phổi 63 tuổi được điều trị Hydrazin sulfat sau khi rời bệnh viện ở Sarasota, Florida. Jeff Camen, phóng viên truyền hình từng đoạt giải Emmy(1) nói: “Về cơ bản, mẹ tôi được trả về nhà để chết. Lúc đó bà bị giảm cân đáng kể, mất sự ngon miệng và hầu như không muốn làm gì cả” (gợi nhớ kỳ lạ về tình trạng của Marge năm 1994).

Một bác sĩ nói với cha Jeff, ông Ira Kamen, rằng Hydrazin sulfat đưa ra ít nhất “một phát súng trong đêm”. Rồi, vào một thứ Hai trong tháng 8 năm 1987, cô hộ lý gia đình đưa cho bà Kamen 1 viên Hydrazin sulfat ngay trước bữa trưa. “Sáng thứ Ba”, Jeff nhớ lại, “có tiếng ồn ào trong nhà. Mẹ tôi đã trở dậy từ trên giường giống như phượng hoàng bay lên từ đống tro tàn. Mẹ tôi đòi cô hộ lý đưa bà xuống cầu thang để ăn sáng với tôi… Khi những người yêu quý của bạn chiến thắng trong đối đầu với tử thần thì bạn như được an ủi lạ thường trong từng khoảnh khắc”.

Như Jeff mô tả sự phục hồi của mẹ anh, “đau đớn qua đi; sự ngon miệng trở lại nhanh chóng”. Trong vòng ba tuần, ho đau buốt biến mất và bà đã có thể đi lại một mình. “Trong những tháng trước khi mất, bà đến truyền hình cùng tôi để nói cho toàn quốc về Hydrazin sunfat. Viện Ung thư Quốc gia đã ngưng xử tệ với Hydrazin sulfat và bắt đầu chuyển các yêu cầu đến nhóm của Trường Y UCLA và họ đã công nhận hiệu quả của thuốc từ lâu trước khi Erna Kamen bắt đầu dùng”. Jeff quy cho cái chết của mẹ anh vài tháng sau là bà: “đã sai lầm bỏ dùng Hydrazin sulfat do cái gọi là chất chưa kiểm chứng thực nghiệm”.

Với các bệnh nhân ung thư, Hydrazin sulfat thường uống viên nén hoặc viên nang 60 mg khoảng một đến hai tiếng trước bữa ăn. Đầu tiên uống một lần mỗi ngày trong vài ngày, sau đó hai lần mỗi ngày, rồi ba lần hay bốn lần, tùy theo phản hồi của cơ thể và quyết định của bác sĩ. Với chế độ đó, nhiều bệnh nhân giai đoạn cuối và giai đoạn giữa thu được khá nhiều hiệu quả. Bệnh nhân ung thư ở những giai đoạn đầu thu được hiệu quả cao nhất.

Khoảng một nửa số bệnh nhân ung thư giai đoạn đầu được dùng thuốc lên cân hầu như ngay lập tức và đảo ngược tình thế. Trong một vài trường hợp, khối u đã biến mất.

Những loại ung thư phổ biến được báo cáo thường xuyên nhất thu được hiệu quả từ liệu pháp Hydrazin sulfat là ung thư ruột, ung thư buồng trứng, ung thư tiền liệt tuyến, ung thư phổi, bệnh Hodgkin và ung thư hệ bạch huyết khác, ung thư tuyến giáp, khối u ác và ung thư vú. Chúng chiếm hơn 90% các bệnh ung thư được báo cáo ở Mỹ.

Ngoài ra, để có thêm thông tin lấy thuốc như thế nào hoặc tiếp tục nghiên cứu, bạn hãy tự tìm trên internet hoặc tìm trong sách Options của Rechard Walters.

Quan tâm của chúng tôi

Chúng tôi không khuyên sử dụng Hydrazin sulfat cho chế độ tự-điều trị. Nó tương tác với một số loại thuốc như thuốc ức chế MAO và chắc chắn với thực phẩm có chứa tyramine, chẳng hạn như đậu fava, dưa cải bắp, dưa chua, chuối, bơ v.v… Ngoài ra, chưa có một định mức liều lượng an toàn và chế độ điều trị. Bạn hiển nhiên hoàn toàn tự do hình thành quan niệm của chính mình. Chắc chắn là nó rẻ và sẵn có.

Liệu pháp miễn dịch

Rất lâu trước khi bác sĩ Ghoneum khám phá ra chất tự nhiên ông gọi là MGN – 3 vào năm 1995, các nghiên cứu viên của Big Pharma đã nghiên cứu theo hướng sử dụng hệ miễn dịch để chống ung thư. Ngay hiện tại thì phần lớn nghiên cứu lại tập trung vào các vaccine. Bạn có thể nghe thấy vài thứ trong số đó, vậy làm quen với một số ý niệm thì cũng có ích.

Những kháng thể đơn dòng (dòng vô tính đơn) là những tếbào tổng hợp được sinh ra qua gen – ghép nối. Tế bào máu trắng của bệnh nhân ung thư nối với tế bào ung thư của họ. Khi các tế bào lai sinh ra được đưa lại vào cơ thể bệnh nhân, chúng sản xuất các kháng thể đặc biệt. Những kháng thể này chỉ tấn công tế bào ung thư. Gắn liền với thuốc chống – ung thư hay độc tố tự nhiên, các kháng thể đơn dòng phục vụ như “tên lửa dẫn đường” hướng các kháng thể mà chúng sản xuất ra vào con mồi ác tính của chúng.

Còn trong giai đoạn nghiên cứu, những đơn dòng hứa hẹn sẽ là cực kỳ đắt đỏ. Đó sẽ là một ân huệ cho độc quyền y – dược nếu được dùng trong điều trị ung thư. Truyền thông thường xuyên chào hàng chúng như đột phá ung thư sắp tới.

Hiệp hội Ung thư Mỹ (ACS) hào phóng thừa nhận rằng sẽ mất “rất nhiều năm để tìm được vai trò thích hợp của những [liệu pháp hệ miễn dịch chính thống] tác nhân này trong điều trị ung thư. Những quan sát viên giàu kinh nghiệm nói điều đó có nghĩa là 20 năm nữa hoặc hơn thế. Trong khi đó ACS tiếp tục sử dụng quyền lực khổng lồ của nó để hạn chế hoặc cấm đoán những liệu pháp ung thư không-độc sử dụng liệu pháp hệ miễn dịch đã có những kết quả lâm sàng rõ rệt cho người. Chúng tôi đã nói về một số tác nhân kích thích hệ miễn dịch sẵn có hiện nay ở Chương 5. Sớm hơn trước đó đã có các liệu pháp miễn dịch tự nhiên như của tiến sĩ Lawrence Burton (thảo luận dưới đây) và bác sĩ Virginia Livingston.

Vaccine hỗn hợp khuẩn của Coley

Thật mỉa mai, vaccine hỗn hợp khuẩn của Coley lẽ ra đã có thể cho thấy tỉ lệ cứu chữa cao hơn bất cứ phép điều trị ung thư nào khác lại hoàn toàn không có mặt. Bác sĩ William Coley (1862 – 1936) từng là nhà phẫu thuật và nhà nghiên cứu xuất sắc xứ Sloan-Kettering ở New York. Năm 1890 ông phát triển một vaccine làm từ độc tố vi khuẩn mà chúng kích hoạt cơ chế bảo vệ miễn dịch trong bệnh nhân ung thư và đã cứu được hàng trăm người.

Con gái ông là tiến sĩ Helen Coley đã lưu giữ và đưa công trình quan trọng của ông lên một tầm cao mới. Hơn nữa, mặc dù việc sử dụng thành công vaccine khuẩn đã báo cáo đầy đủ trong tài liệu y học từ lúc chuyển thế kỷ, những công ty dược lớn hôm nay vẫn không quan tâm đến cái mà họ xem chỉ đơn giản là không lợi nhuận.

Bạn đọc thân mến, khá kinh khủng để xem xét điều cốt lõi là liệu có một lúc nào đó, hàng nghìn bệnh nhân ở Mỹ đang dùng hóa trị dữ dội được hưởng lợi từ một phương pháp nâng cao hệ miễn dịch nào đó, thậm chí là từ dinh dưỡng hỗ trợ hay vitamin bổ sung. Họ có được hưởng không? Trừ phi tìm thấy qua các công bố khoa học như cuốn này, còn câu trả lời thì rất đáng buồn là không.

Liệu pháp gia tăng miễn dịch của Burton

Bác sĩ Lawrence Burton dùng bốn protein máu – những chất tìm thấy tự nhiên trong cơ thể – để chữa ung thư. Liệu pháp gia tăng miễn dịch (Immuno-Augmentative – IAT) được ông phát triển khi làm bác sĩ ung thư tại Bệnh viện St. Vincent ở New York trong những năm thập niên 1960, không “tấn công” ung thư. Thay vào đó, nó nhắm đến phục hồi hệ miễn dịch hoạt động bình thường nên hệ miễn dịch của chính bệnh nhân sẽ tiêu diệt tế bào ung thư. Bạn tự hỏi, cái gì đã xảy ra cho bằng chứng sau đây trong 40 năm kế tiếp.

Burton đã khám phá ra những thành phần của máu, ông gọi là các phân đoạn máu bị thiếu hụt ở các bệnh nhân ung thư. Khi xuất hiện với sự cân bằng chuẩn xác, chúng cùng hiệp lực phát huy tác dụng để kiểm soát sự phát triển của tế bào ung thư và tiêu diệt khối u.

Liệu pháp của ông gồm bổ sung cho các phân đoạn máu bị thiếu hụt bằng tiêm cho bệnh nhân lượng các phân đoạn máu dựa trên những phân tích máu hàng ngày hoặc hai ngày. Bệnh nhân tiếp tục tự điều chỉnh tiêm huyết thanh dài bao lâu là tùy theo sự cần thiết, rất giống với bệnh nhân tiểu đường dùng insulin. IAT không-độc và không có phản ứng phụ.

Bác sĩ Burton không nói rằng IAT chữa bệnh. Ông mô tả nó như cách kiểm soát và chiến đấu với ung thư. Ngoài ra, theo ghi nhận lâm sàng, 50 đến 60% bệnh nhân giảm khối u. Rất nhiều người trải qua thuyên giảm từ từ. Một số, thậm chí ung thư giai đoạn cuối đã khỏi hoàn toàn.

Rất nhiều trường hợp ung thư di căn ruột và ổ bụng được điều trị bằng Burton IAT đã khỏe mạnh vượt qua ngưỡng năm năm sau khi phục hồi. Đó là thành tựu nổi bật trong khi Viện Ung thư Quốc gia nói rằng những loại ung thư đó có tỉ lệ sống 5-năm bằng không.

Một phòng khám ở Bahamas hiện điều trị cho bệnh nhân dựa trên thuyết Burton, xem tại trang web:

www.immunemedicine.com

Liệu pháp tế bào phát quang (Cytoluminescent Therapy – CLT)

Một trong những đề xuất mới nhất trong điều trị ung thư là “Phương pháp tế bào phát quang” (Cytoluminescent Therapy – CLT). Còn được biết đến như Phương pháp quang động (Photodynaamic Therapy – PDT), nhưng dùng tác nhân “nhạy” khác nhau. Có một phòng khám chuyên về CLT ở Ai-len. Bác sĩ Ralph Moss đã đến đấy gặp họ và công bố một báo cáo rất khích lệ về hiệu quả của phương pháp điều trị này. Những đồn đại gần đây đang được phổ biến vào Mỹ.

Chúng tôi trích dẫn cho bạn một email của một phụ nữ đã đến phòng khám đó ở

Ai-len cuối 2002 để điều trị. Đây là mô tả của bà về phương pháp điều trị này:

“… lý thuyết đằng sau CLT (PTD với một tác nhân mới) là nuốtvào một tác nhân nhạy cảm làm bằng tảo lục xoắn, nó hầu như trói chặt riêng các tế bào ung thư, và theo đó tia hồng ngoại và ánh sáng LED chiếu lên cơ thể sẽ kích hoạt tác nhân qua máu (như kiểu đi săn tế bào ung thư trên cholesterol – giống các chất trong máu) làm phấn khích tế bào và sinh ra ô-xy đơn, một quá trình ô-xy hóa, nó làm nổ tung các tế bào ung thư.

Lynette”.

Những vấn đề

Ngoài giá cắt cổ (20.000 đô-la) và thực tế phòng khám ở Ai-len phải đặt chỗ trước hàng tháng, cô Lynette cho biết họ nhận được rất nhiều phàn nàn vì thiếu sự theo dõi sau khi bệnh nhân về nhà – là phần thiết yếu của điều trị này. Chúng tôi cũng đã nghe được những chủ nhân ban đầu của phòng khám này đã tách ra và đang điều hành những phòng khám khác ở Ai-len.

“Chữa ung thư qua đêm”

Nếu bạn đã đọc đến đây, chúng tôi muốn thưởng công cho bạn bằng việc mô tả một phương pháp chữa bệnh không chỉ nhiều hứa hẹn, mà đã được sử dụng thành

công trên một số “lợn guinea” bị ung thư cấp. Nó đã được mệnh danh là “Chữa ung thư qua đêm” (Overnight Cancer Cure – OCC).

Việc điều trị ít tốn kém và rất hiệu quả này được mô tả trong chi tiết tại trang web:

http://www.New-Cancer-Treatments.org/Cancer/OCC.html

Là tác giả của trang web, Webster Kehr, Chủ tịch Quỹ nghiên cứu ung thư độc lập, nói:

“Đây là phương pháp điều trị ung thư mới. Đang trong giai đoạnthử nghiệm, mặc dù đã được chứng minh là hoàn toàn an toàn ngay cả với bệnh nhân ung thư cấp. Nói cách khác, CHƯA thử nghiệm tính an toàn, mà mới chỉ thử nghiệm hiệu quả của nó. Phương pháp điều trị này dựa vào một lượng lớn bằng chứng khoa học kết hợp với lý thuyết ung thư vững chắc”.

Phương pháp điều trị này rất hứa hẹn bởi vì nó không tiêu diệt tế bào ung thư, điều sẽ gây ra tất cả các triệu chứng “tiêu hủy” bởi vì sự “chết đột ngột” của các tế bào ung thư. Thay vào đó, “vi khuẩn” bên trong tế bào ung thư (lần đầu tiên được Royal Rife quan sát vào những năm 1920 trong kính hiển vi rất mạnh của ông) bị giết. Các tế bào ung thư sau đó trở lại thành tế bào hoạt động bình thường, với sự phục hồi của “chu trình Krebs” (còn gọi là các “chu trình a-xít citric”) và “Chuỗi vận chuyển điện tử” trong các ty thể.

Ty thể là các phân tử bên trong tế bào đó phát ra năng lượng (còn gọi là ATP) và kiểm soát các quá trình tự chết hoặc chết của tế bào. Chúng hoạt động kém trong tế bào ung thư. Một khi chúng lại được kích hoạt (như trong điều trị này), tế bào khôi phục lại những đặc tính của một tế bào bình thường. Các tế bào ung thư sau đó chết theo chu kỳ của một tế bào bình thường – không như tế bào ung thư. Như vậy, quá trình này không làm tắc nghẽn gan, thận, hệ bạch huyết và các bộ phận khác bởi tế bào ung thư chết, như thường thấy ở hầu hết các phương pháp điều trị ung thư khác.

Nếu bạn muốn hiểu chi tiết của phương pháp điều trị này được hỗ trợ bởi hàng trăm nghiên cứu và một số sách về chủ đề này, xin đọc mô tả về điều trị của Webster tại trang web trên. Nếu bạn muốn đọc thêm về lý thuyết về ung thư, hãy truy cập vào:

http://www.New-Cancer-Treatments.org/Theory/CancerTheory.html

Rất nhiều liệu pháp chữa ung thư

Những liệu pháp chữa ung thư đa dạng đã chứng thực tính hiệu quả trong hơn 50 năm qua khiến bạn lưỡng lự. Chúng tôi sẽ liệt kê thêm một số trong đó nữa để đưa thêm cho bạn những từ bạn cần khi tra trên internet.

Asian herbs – Thảo mộc Châu Á

Ayurveda – Liệu pháp điện sinh học

Bioelectric Therapies

Bovine Colustrum

Carctol

Chaparral

Chinese Medicine – Y học Trung Quốc

Chlorella

Co-enzyme Q10

Colloidal Silver

Concentrated Aloe Vera

Detoxification – Giải độc

DMSO Therapy – Trị liệu DMSO

Far Infrared Therapy – Trị liệu luồng ngoại xa Germanium
Gerson Therapy – Trị liệu Gerson

Hans Nieper, M.D.

Haelan 951

Homeopathy – Vi lượng đồng căn

Hoxsey Therapy

Hyperbaric units

Hyperthermia – Tăng thân nhiệt

Immunocal

IP6

Issels’ Whole-Body Therapy

Kelley’s Nutritional-Metabolic Therapy

Lactoferrin

Live-Cell Therapy

Livingston Therapy

Lymphotonic PF2

Magnetic Sleep Pads – Tấm đệm ngủ từ

Mind-Body Treatment – Phép điều trị Thân và Tâm

Mistletoe (Iscador)- Cây tầm gửi

Moerman’s Anti-Cancer Diet – Chế độ ăn chống ung thư Moerman

MycoSoft

N-Tense

Noni Juice – Nước Noni

Oncotox

Ozone Therapy – Liệu pháp ozone

Psychotherapy – Phép chữa tâm lý

Peroxide Therapy

Rain-forest herbs – Thảo mộc rừng nhiệt đới

Selenium

T-Plus

Ukrain

VG-1000

Wigmore therapy

… và rất nhiều nữa…

Kiểm tra một vài trong số đó bằng công cụ tìm kiếm ưa thích của bạn. Bạn sẽ ngạc nhiên về sự dồi dào các tài liệu về chúng. Chúng tôi đã cố gắng tránh tình trạng quá tải thông tin trong cuốn sách này bằng cách giải thích chi tiết phương pháp điều trị mà bạn phải xem xét nghiêm túc. Dĩ nhiên, đây là đánh giá của riêng chúng tôi. Chúng tôi không bác bỏ bất kỳ phương pháp nào trong danh sách trên. Một số bệnh nhân ung thư đã được các liệu pháp trên chữa khỏi._

Kết luận

Đừng tin vào “hệ thống” chăm sóc ung thư cho bạn hay cho người thân. Hãy chủ động. Hãy tìm hiểu. Nắm lấy kiến thức. Hiểu biết là sức mạnh.

Hiện có rất nhiều tiếp cận hứa hẹn để điều trị ung thư và/ hoặc ngăn ngừa tái phát.

Có thể bạn muốn đến Bahamas, Mexico, Ai-len hay Tây Ban Nha, nhưng bạn cũng không cần phải làm thế. Cửa hàng thực phẩm dưỡng sinh ở chỗ bạn có mọi thứ bạn

cần và bạn có thể mua từ các nguồn cung cấp chúng tôi liệt kê trong sách này.

Có thể bạn muốn tìm một bác sĩ giúp bạn sử dụng những phép điều trị này để bổ sung cho liệu pháp “chính thống” và thử mức tiến bộ của bạn. Bạn có thể muốn tránh hoàn toàn liệu pháp chính thống.

Hiện nay chữa trị không có hỗ trợ y tế là hoàn toàn có thể. Hãy tự chữa trị và xét nghiệm nếu bạn thấy thoải mái. Nếu không, thì ít nhất hãy bắt đầu chế độ tự-điều trị trong khi tìm kiếm bác sĩ hay phòng khám hoàn hảo. Quanh bạn có đấy. Chúng tôi sẽ chẳng bao giờ chọn bác sĩ chuyên khoa ung thư, bác sĩ xạ trị hay bác sĩ phẫu thuật. Lựa chọn của bạn có thể khác chúng tôi, nhưng hãy tiếp tục tìm kiếm. Chúng tôi biết các bác sĩ tài năng sử dụng kỹ thuật chữa trị không-độc, không đau ở Mỹ, Canada, Mexico, Singapore, Malaysia, Anh, Đức, Nam Phi và nhiều nước khác. Hãy sử dụng danh bạ chúng tôi cung cấp ở Chương 1 của sách này hoặc tìm kiếm nguồn ở Chương 6.

Đừng đợi nhiều bằng chứng hơn

Rất nhiều liệu pháp “thay thế” cần khẩn cấp được nghiên cứu nhiều hơn nữa để đưa ra tiềm năng đầy đủ của chúng. Bác sĩ Robert C. Atkins, có thể nhiều người trong bạn biết ông qua những cuốn sách về dinh dưỡng, đã nói khá súc tích:

“Có rất nhiều phép chữa trị ung thư, và tất cả đang bị đàn ápnhẫn tâm và có hệ thống bởi chính giới ung thư giống như một vụ của Gestapo Đức Quốc Xã. Chính giới ung thư là hiệp hội không-quá-mờ ám của Hội Ung thư Mỹ (American Cancer Society), những bệnh viện ung thư hàng đầu, Viện Ung thư Quốc gia (National Cancer Institute) và FDA. Phần mờ ám là sự thật những viện đáng kính đó được rất nhiều các thành viên và những người bạn thành viên của Công nghiệp Dược phẩm tài trợ, nơi tạo ra lợi nhuận khó tin nhờ hóatrị đang ám ảnh lên nghề nghiệp của chúng ta.”

Người dân Mỹ khó mà tin được các liệu pháp an toàn và giá trị đang bị cố ý ngăn cản. Điều xem ra không thể có ở nước Mỹ hiện đại. Tiếc rằng, nhiều người Mỹ bị chết oan. Giới ung thư có 90 năm lịch sử về tham nhũng, thiếu năng lực và cố ý đàn áp những liệu pháp ung thư thực sự hiệu quả. Kể cả việc sắp đặt các thử nghiệm lâm sàng tại các viện nghiên cứu chính để làm mất uy tín những liệu pháp tự nhiên và không-độc. Barry Lyne đã dẫn chứng đầy đủ trong cuốn sách của ông Cứu chữa Ung thư (The Healing of Cancer) giống như Daniel Haley trong Chính trị Trong Chữa bệnh (Politics In Healing). Xem Phụ lục A có thêm thông tin về các sách đó. Như Lynes nói, “Hiệp hội Ung thư Mỹkhông quan tâm đến cứu chữa. Họ xa rời công việc ấy.”

Nghiên cứu ung thư là gian lận

Nhà khoa học hai lần được nhận giải Nô-ben, Linus Pauling đã tóm tắt đầy đủ tình

hình khi ông phát biểu: “Mọi người cần phải biết rằng ‘Cuộc chiến Ung thư’ là sự gian lận lớn, và rằng Viện Ung thư Quốc gia (National Cancer Institute) và Hiệp hội Ung thư Mỹ (American Cancer Society – ACS) sao lãng bổn phận đối với những người đã ủng hộ họ”.

Theo Barry Lyne, “Tối thiểu Hiệp hội Ung thư Mỹ… phải bị BộTư Pháp Mỹ thanh tra về sự gian lận, quảng cáo sai trái, mưu mô và lũng đoạn, vi phạm độc quyền”.

Liên kết chặt chẽ với ACS thông qua các ban giám đốc phối hợp là Viện ung thư quốc gia (National Cancer Institute – NCI). Được chính phủ tài trợ, cơ quan này thành lập năm 1937 và hiện có hơn bốn tỉ đô-la mỗi năm. Liệu bạn có trông chờ cơ quan như thế này là chất xúc tác cho sáng tạo? Liệu họ có cởi mở khích lệ cho phương pháp hoặc kỹ thuật nào có thể giảm bớt số lượng tử vong trong nạn dịch ung thư khoảng 10.000 người Mỹ mỗi tuần?

NCI thì đúng là ngược lại. Đó là người đại diện bảo vệ nguyên trạng quỹ “hội ái hữu” tận tụy với hóa trị và xạ trị. Họ tích cực hiệp sức với các cơ quan chính phủ khác để quấy rối và ngăn cản những liệu pháp thay thế sáng tạo.

Thay vì phục vụ công chúng, Barry Lynes nhận xét trong Chữa trị Ung thư: “NCI đã tạo nơi trú ẩn quan liêu cho khoa học, đầy những thủ tục hành chính, hối lộ, thông đồng với các công ty dược và những rào cản vô tận đối với người thực sự sáng tạo đấu tranh chống ung thư”.

Những gì NCI làm với khoản bốn tỉ đô-la tiền thuế là hình thức có một không hai về tham nhũng trong lịch sử khoa học. NCI phân phối số tiền đó cho tài trợ nghiên cứu và cùng với ACS lăng xê các hướng chủ đạo trong nghiên cứu. Thật khó tin nổi, 90% thành viên hội đồng đánh giá chuyên gia của NCI dùng tiền của NCI cho nghiên cứu riêng của họ. 70% ngân sách nghiên cứu của ACS đi đến các cá nhân hoặc cơ sở nghiên cứu mà thành viên hội đồng của ACS là nhân vật có ảnh hưởng lớn.

Tiến sĩ Irwin Bross cựu giám đốc Thống kê sinh học tại Viện Công viên Tưởng niệm Roswel lừng danh – bệnh viện nghiên cứu ung thư quốc gia lâu đời nhất nói: “Trong bất cứ bộ phận nào của chính phủ, sẽ có mưu đồ tham nhũng khi người cấp tiền và người nhận là một”. Điều trần/trả lời trước một tiểu ban Quốc hội, Tiến sĩ Bross nói thêm: “Đó là thực tế tham nhũng thậm chí khi nó được gọi là ‘đánh giá chuyên gia’ hay ‘nghiên cứu ung thư’… Tổ chức nàykhông đáng để cải tổ mà đơn giản là nên bị loại bỏ.”

Đừng nhìn vào số liệu thống kê

Bạn cần cái nhìn xa hơn những thống kê về tử vong do ung thư. Sáu loại ung thư có tỉ lệ tử vong cao là: – ung thư phổi, ruột, vú, tiền liệt tuyến, tuyến tụy và buồng trứng – vẫn giữ nguyên hoặc tăng lên trong 60 năm qua. Nếu đây là một “cuộc chiến

ung thư” thì nó đã thất bại từ lâu rồi.

Không như nhiều quốc gia khác, nước Mỹ hỗ trợ chỉ một loạithuốc. Vì nguyên nhân đó, người dân Mỹ bị từ chối rất nhiều khía cạnh sống còn của khoa học và nghệ thuật chữa trị. Bác sĩ Alan Levin nói: “Bác sĩ gia đình của bạn không còn tự do lựa chọn phương pháp điều trị mà người đó cho là tốt nhất cho bạn, mà phải tuân theo mệnh lệnh thiết lập bởi các bác sĩ có động cơ và mối liên kết khiến quyết định của họ không hoàn toàn vì ích lợi của bạn”.

Quyền chọn lựa của bạn

Quyền cơ bản nhất của người bệnh là – tự do lựa chọn y tế – đã mất đi ở đất nước này. Quyền kiếm tiền của độc quyền y tế đi trước quyền quyết định của bạn trong việc tham khảo ý kiến bác sĩ để có liệu pháp chữa trị ung thư tốt nhất cho điều kiện cụ thể của bạn. Lá thư dưới đây minh họa hùng hồn và thương tâm tình thế khó xử mà bệnh nhân ung thư phải đối mặt. Tác giả là một nhà tâm lý.

“Vợ tôi bị chẩn đoán ung thư buồng trứng năm năm trước. Cô ấyvẫn sống, thoải mái và khỏe mạnh vì theo phương pháp điều trị không được phê duyệt và không chính thống.

Tôi viết những dòng này như lá thư phản đối và trong một nỗ lựchướng dẫn bạn để có thể cứu cuộc sống của bạn hay vợ con bạn. Tôi không phải là kẻ cuồng tín điên rồ, tôi là người đàn ông đã 48 tuổi mà năm năm trước đã phải quyết định làm gì đó để cứu cuộc sống của vợ tôi. Chúng tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu những chọn lựa của mình và đã có một quyết định thông minh và hiểu biết để theo đuổi hơn là theo những gì y tế chính thống ở đất nước này đưa ra.

Tôi tức giận, thất vọng và phát điên đến nỗi buộc phải đưa vợ tôira khỏi đất nước này, phải tranh đấu với công ty bảo hiểm vì phương pháp điều trị cho cô ấy “không được phê duyệt”, phải đấu tranh để lấy thuốc cho cô ấy vì thuốc thuộc diện “không được phê duyệt” và là đối tượng tịch thu. Đó là một trận chiến để cô ấy được phép điều trị ung thư thay thế.

Giờ thì tôi biết có một cuộc chiến tài chính đang diễn ra, và nạnnhân là hàng triệu người bị từ chối phương pháp điều trị thay thế vì AMA hay FDA hay ai đó đã quyết định là chúng ta chỉ có thể điều trị bằng phương pháp đã được phê duyệt…

Không có những quyền sống hay tự do ở đất nước này khi nói đến tự do lựa chọn chữa trị. Chỉ có ép buộc, phá hoại và tham lam – và những người đang chết. Chúng tôi là những tù nhân tài chính của AMA và FDA, và họ đang giết chết chúng tôi dưới cái tên phép điều trị được phê duyệt.

Vợ tôi suýt nữa là nạn nhân; và nếu bạn cho phép điều này tiếp diễn thì một ngày nào đó bạn cũng sẽ trở thành nạn nhân.

Hãy giúp làm gì đó để mang lại sự thật, sự lành mạnh và đạo đức cho chăm sóc sức khỏe ở Mỹ.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.