Vài ngày sau, tôi đang len lỏi đi qua căng tin chật cứng người để tìm Sara hoặc Megan hay David. Bọn trẻ quanh tôi đang cười nói, là hét, pha trò, huyên náo cả căn phòng. Tôi cảm thấy lòng mình dịu lại đôi chút.
Lần đầu tiên ngôi trường này có vẻ bình thường, tôi nghĩ bụng. Cả tuần nay tôi có cảm giác mình như con vật được triển lãm ở sở thú. Mọi người ai cũng nhìn cô bé mới đến.
Chợt tôi trông thấy Laura và Meggie. Dường như Meggie là bạn tri kỷ hay cái gì đó của Laura. Tôi chưa hề thấy nó nói chuyện với ai khác ngoài Laura.
Thật cảm động.
Cầm chắc khay đồ ăn của mình trên tay, tôi thản nhiên đi qua bàn chúng đang ngồi.
– Cứ chờ đấy. – Laura nói lầm rầm. – Chờ đến ngày mùng mười ấy.
Hai tay tôi bắt đầu run lên. Lần này thì tôi biết mình không tưởng tượng. Có phải Laura đang đe doạ tôi?
Điều gì sẽ xảy ra vào ngày mùng mười? Tôi biết ngày mùng mười tháng sáu là sinh nhật Pete. Nhưng tôi vẫn chưa biết Pete là ai.
Tôi không biết phải làm gì. Tay tôi run đến mức tôi sợ sẽ đánh rơi khay thức ăn giữa đường mất.
Bỗng nhiên tôi trông thấy ai đó ngồi góc phòng đang vẫy mình. Một cậu bé có mái tóc đen quăn.
Tôi chẳng biết cậu ta. Nhưng tôi không quan tâm. Tôi phải làm cái gì đó – bất cứ cái gì.
Tôi muốn thoát khỏi Laura và Meggie càng nhanh càng tốt. Thế nên tôi vội vã bước hay ra chỗ cậu ta.
– Chào. – Cậu ta nói. – Bạn muốn ngồi với tớ không?
– Có. – Tôi đáp. Tôi vẫn chưa biết cậu bạn này nhưng có vẻ cậu ta lại biết tôi.
– Tớ đoán là hôm trước tớ đã làm bạn phải hoảng. -Cậu bạn nói. – Tớ xin lỗi về chuyện này. Hình như trang phục đó đã làm giảm tính cách của tớ.
Tôi chăm chăm nhìn cậu ta. Cậu ta nói cái quái gì thế nhỉ?
– Tên tớ là Lucas. – Vừa nói cậu ta vừa cầm cái bánh sandwich lên.
Lucas? Tôi nghĩ thầm. Nghe quen quá nhỉ. Ôi, đúng rồi. Lucas! Các cậu có đầu đầm đìa máu!
– Tớ là Randy. – Tôi giới thiệu lại. – Tớ không nhận ra bạn ngay. Ý tớ là vì mặt bạn không có máu chảy ròng ròng xuống.
Lucas bật cười.
– Bạn sẽ tới xem vở kịch chứ? – Cậu ta hỏi. – Nó sẽ trình diễn vào tuần cuối năm học.
– Chắc chắn rồi. – Tôi đáp. – Vở đó nói về cái gì?
– Một câu chuyện rung rợn của thám tử Sherlock Holmes. – Lucas đáp. – Người đóng vai Sherlock luôn làm rối tung mọi chuyện. Bạn có biết David Slayter không?
– Biết. Cậu ấy học cùng lớp tớ.
– Cậu ta là ngôi sao của vở kịch. – Lucas nói tiếp.
– Nhưng cậu ta rất kinh khủng! Tớ không hiểu sao họ lại chọn cậu ta kia chứ.
Tôi mở giấy gói đồ ăn màu nâu của mình và lấy ra một quả táo. Tôi thường thích ăn món tráng miệng trước.
– Thế thì tệ quá. – Tôi vừa cắn táo vừa nói. Tôi liếc quanh căn phòng và bắt gặp Laura và Maggie đang theo dõi mình. Chúng nó lập tức quay mặt đi chỗ khác.
– Bạn sống ở đâu vậy? – Lucas đột nhiên hỏi.
– Phố Fear. – Tôi đáp.
– Thật không? Tớ cũng sống ở phố Fear. Đừng có nghe những câu chuyện người ta kể về nó. Tớ sống ở đây từ bé rồi mà chẳng có gì tồi tệ xảy ra với tớ cả.
Những câu chuyện à?
– Chuyện nào? Tôi ngạc nhiên hỏi lại.
Lucas nhún vai.
– Người ta hay cả những chuyện điên rồ về phố Fear. Có lẽ là bẩy cái thành phố.
– Công nhận tên phố hơi khác thường. – Tôi thừa nhận.
– Bạn có biết khu nghĩa trang nằm cuối phố không? – Lucas hỏi. – Vài đứa nói có ma. Đứa bạn hàng xóm nhà tớ còn kể nó đã đạp xe ngang qua nghĩa trang trước khi trời tối. Nó bảo bỗng nhiên một người phụ nữ cao lớn xuất hiện và chắn ngang đường nó. Nhưng nó không kịp dừng lại. Nó đã bóp mạnh phanh song quá muộn.
– Điều gì xảy ra? Bà ta có bị thương không?
– Đây mới là đoạn kỳ lạ. – Lucas nói với tôi.
– Nó bảo – nếu bạn tin nó đấy nhé – rằng chiếc xe đạp đã đi xuyên qua người bà ta. Như thể bà ta là không khí vậy.
– Ồ! Thế bà ta là ma còn gì?
Lucas trợn mắt lên.
– Ai mà biết. Tôi nghĩ đứa hàng xóm chỉ cố doạ tớ. Bản thân tớ chưa từng bao giờ trông thấy ma ở khu vực đó.
Tôi bóc giấy gói chiếc bánh sandwich thịt gà ra mà không cắn miếng nào.
Chắc Lucas nói đúng thôi, tôi nghĩ thầm. Mọi người chỉ hay thích kể mấy chuyện ma quỷ đáng sợ.
Nhưng tôi vẫn cảm thấy không thoải mái. Cái tên phố Fear chẳng phải xuất phát từ chuyện gì đó tệ hại đã xảy ra. Phải thế chăng?
Tôi ngửa cổ đón ánh nắng mặt trời chiếu vào mặt. Cảm giác thật dễ chịu khi được ra ngoài trời sau một ngày dài bức bối trong trường.
Tôi một mình đi về nhà dọc theo con đường Hawthorne Drive. Cái ba lô sau lưng nhét đầy sách vở mới làm nặng trĩu cả vai tôi.
Mình sẽ chỉ dùng những sách vở này nốt một tháng nữa là hết năm học, tôi nghĩ bụng. Có vẻ ngớ ngẩn quá.
Phía bên tay phải tôi là một cánh rừng rậm trải dài suốt dọc dãy phố Fear, nơi tôi đang sống. Mình có thể đi tắt qua rừng, tôi thầm nghĩ. Có lẽ đó là con đường ngắn nhất về nhà.
Tôi đi xiên qua đường cái và rẽ vào rừng. Bóng tối và sự tĩnh lặng chùn xuống đầu tôi như một tấm chăn. Ánh mặt trời ấm áp biến mất tăm.
Đột nhiên tôi thấy ớn lạnh. Lông tay tôi dựng đứng lên. Tôi rùng mình xoa xoa cánh tay.
Ở đây im lặng quá, tôi thầm nghĩ, ngước mắt nhìn lên những thân cây cao và những bụi lá rậm rạp. Không một tiếng chim hót líu lo hay kêu chiêm chiếp hoặc một tiếng chặc lưỡi của thú rừng. Sao không thấy chim chóc hay chỉ một con sóc thôi?
Tôi phát hiện một con đường nhỏ lầy lội có vẻ dẫn tôi đi đúng hướng. Tôi liền đi theo con đường đó. Thứ âm thanh duy nhất vang lên lúc này là tiếng loạt xoạt của lá và cành cây gẫy dưới chân tôi.
Loạt xoạt, loạt xoạt, loạt xoạt.
Tôi tiếp tục dấn bước thêm chừng mười phút nữa thì đừng bắt đầu thưa đi.
Mình sắp ra đến đường cái rồi, tôi thấy nhẹ cả người. Nhưng sao tôi không nghe thấy tiếng còi xe ô tô hay tiếng người nói nhỉ?
Tôi đến gần một khoảnh đất rộng. Những tấm bia đá mọc trồi lên từ mặt đất.
Những ngôi mộ đá.
Đây là một nghĩa trang, tôi chợt nhận ra.
Tôi thấy lạnh toàn thân.
Không được sợ, tôi tự nạt mình. Con phố nằm phía bên kia khu nghĩa trang này, chỉ ngay sau cánh rừng thôi. Mi sắp về đến nhà rồi.
Chẳng có vấn đề gì lớn cả, tôi thầm tự nhủ. Vậy thì mi sẽ băng qua nghĩa trang. Thế đã sao?
Hãy nhìn vào hiện thực. Xét cho cùng tất cả bọn họ chỉ là người chết rồi. Người chết thì không làm hại mi được. Bởi vì họ đã chết! Đúng không nào?
Tôi vội vã chạy qua những tấm bia đá lởm chởm mà không hề để ý đọc tên ghi trên đó. Mình sắp ra đến phố rồi, tôi tự nhủ.
Âm thanh duy nhất tôi nghe thấy vẫn chỉ là tiếng lá khô vỡ vụn dưới chân. Lạo xạo, lạo xạo, lạo xạo.
Nhưng bất chợt tôi cảm giác mình còn nghe thấy một âm thanh khác. Âm thanh mà tôi không muốn nghe.
Tôi đứng lại, nghe ngóng. Tôi đã mất khắp khu nghĩa trang và cả cánh rừng sau lưng. Không thấy ai hết. Không hề có thứ gì chuyển động, thậm chí một chiếc lá rơi. Tôi đi tiếp.
Lạo xạo, lạo xạo, lạo xạo.
Lại âm thanh ấy. Cái gì thế nhỉ?
Tôi đứng lại. Chờ đợi. Không thấy gì.
Thận trọng quan sát mé rừng, tôi bước tránh sang một bên.
Có cái gì đó vừa sượt qua ba lô của tôi.
– Ôi! – Tôi thét lên và quay phắt lại phía sau. Tôi bắt gặp một khuôn mặt già nua đầy nếp nhăn đang cười với mình. Là một cụ già.
Không phải – là một bức tượng. Bức tượng cụ già đã chết. Ngồi trên nóc ngôi mộ của cụ.
Đang cười một cách điên dại. Cười với mình, tôi nghĩ thầm.
Mình phải biến khỏi đây. Tôi cắm cổ chạy, rầm rập, rầm rập, rầm rập.
Nhưng chợt tôi lại nghe thấy nó.
Tiếng cười rinh rích ấy. Hay là tràng cười khanh khách.
Tiếng cười của con trai.
Và cả tiếng bước chân – ngay phía sau tôi!